VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Monday, November 29, 2010

Cần tự do thanh nghị
Ngô Nhân Dụng

Ở nước ta đời xưa, có một truyền thống gọi là Danh Giáo, hoặc thanh nghị, tức là các nhà Nho bình phẩm các hành vi, lời nói của người trong xóm làng, có khi bàn đến cả việc chung cả nước.

Phan Khôi đã nêu lên hiện tượng này trong một loạt bài phê bình Khổng Giáo rất gắt gao, trong nhiều số báo Thần Chung xuất bản tại Sài Gòn năm 1929.

Mục đích của cụ Phan Khôi là bài bác ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ nước Việt Nam đang cần canh tân. Là một đã học đạo Nho từ nhỏ lớn lên, Phan Khôi tấn công vào những thuyết như “minh đức tân dân” (Sách Ðại Học), thuyết “trung dung,” tư tưởng mà ông gọi là “chủ nghĩa làm quan,” tinh thần coi khinh nhà nông, mà Phan Khôi cho là “trong Khổng giáo mà có ảnh hưởng xấu ở xã hội ta.” Nhưng Phan Khôi cũng thấy một điều tốt do Khổng Giáo tạo nên, mặc dù không hoàn hảo, là công việc Thanh nghị mà các nhà Nho thi hành giúp cho đạo lý xã hội. Thanh nghị, nói cách khác là “bao biếm,” Phan Khôi giải nghĩa Bao là khen và Biếm là Chê, bây giờ chúng ta gọi là dư luận.

Trong làng xã Việt Nam đời xưa, có một loại “hội tư” rất có ảnh hưởng trên xã hội là các Hội Tư Văn gồm các nhà khoa bảng và các nhà Nho khác trong làng. Nơi sinh hoạt của giới này là Văn Chỉ hoặc Văn Từ, nơi thờ Khổng Tử và các vị tiên hiền trong nước và trong làng. Trường học trong các làng đều là những “trường tư thục” do một ông đồ đứng làm chủ. Từ đó cũng sinh ra một hình thức “hội tư” gọi là “hội đồng môn” tập họp các học trò của ông đồ này. Sau khi ông thầy qua đời, hội đồng môn vẫn còn tiếp tục sinh hoạt để lo việc giỗ thầy, cho tới khi nào những người học trò cuối cùng qua đời mới chấm dứt. Hội Tư Văn và các Hội Ðồng Môn là nơi các nhà Nho bàn việc thanh nghị.

Phan Khôi viết: “Trên nền Khổng giáo ở nước Nam ta có những tư văn, văn chỉ, ấy là những cái cơ quan để phê bình xã hội theo như cái ý nghĩa của sách Xuân Thu.” Phan Khôi đã tóm lược quan điểm của Khổng Tử dùng Kinh Xuân Thu để phê phán các nhân vật lịch sử thời đó: “Sách Xuân Thu cốt để bao biếm. Bao, nghĩa là khen những điều phải; biếm, nghĩa là chê những điều quấy. Có vì tiên nho tán dương cái nghĩa bao biếm của sách Xuân Thu mà rằng: “Ngài khen cho một chữ là vinh hơn áo mão của nhà vua ban cho ; ngài chê cho một chữ là nghiêm hơn dùng búa rìu mà giết.”




Link
Cụ Phan Khôi

Trong thời Pháp thuộc, Phan Khôi nhận xét, các tổ chức “Hội Tư Văn” trong làng bị xuống thấp vì bị chính quyền coi rẻ, các nhà Nho chỉ còn họp nhau “ăn thịt uống rượu” mà thôi. Nhưng, Phan Khôi viết: “Trước kia thì chính các hội ấy đã làm giềng mối, chủ trương cả dư luận trong xã hội. Mỗi một phủ huyện nào cũng đều có hội Văn Chỉ, mỗi một ông thầy dạy học lâu năm và đông học trò thì có hội Ðồng Môn. Những hội ấy rất có thế lực ở dân gian; người ta quen gọi là cái nền ‘danh giáo’ hay là cái cơ quan thanh nghị.’ Chẳng những người trong hội, cho đến người thường ở ngoài nữa, nếu có làm một việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức thì không thể nào tránh khỏi sự công kích của hội hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Có khi một việc trái phép mới xảy ra, pháp luật của nhà nước chưa hỏi đến, mà chính người thủ phạm trong việc ấy đã bị ‘thanh nghị’ làm cho sỉ nhục mà phải hối cải hơn là bị hình phạt. Bởi vậy cũng có khi, ở dân gian, người ta đem những việc bất bình mà cáo với các hội ấy, chớ không cáo với quan.”

Hiện tượng người dân đem những “việc bất bình” nói cho các hội tư văn hoặc hội đồng môn, chứ không “cáo” cho các quan lại, cho thấy bên cạnh “guồng máy tư pháp chính thức” có một mạng lưới lo việc phê bình, can ngăn những việc xấu do tư nhân đảm nhiệm, mà ảnh hưởng có thể mạnh hơn cả hệ thống tư pháp công cộng!

Vai trò của giới trí thức làng xã trong việc bảo vệ đạo lý, và có khi bảo vệ cả luật pháp ở trong làng cho thấy xã hội dân gian nước ta có một “không gian tư” làm các công việc mà ngày nay người ta thường coi là thuộc phạm vi của nhà nước. Những “phán quyết” của các hội tư này có giá trị tâm lý mạnh và lâu dài hơn bộ máy tư pháp chính thức, và mối ràng buộc của các phê phán đó đối với mọi người có thể còn mạnh hơn cả các tôn giáo.

Vì theo Phan Khôi: “Hồi xưa người ta sợ ‘thanh nghị’ lắm, sợ đắc tội với ‘danh giáo’ lắm, hơn là sợ tù tội nữa. Bởi vì cái nhục của tù tội còn có chừng, lại có khi theo vua thì bị tù tội, song đối với công chúng lại được khoan thứ; chớ còn đã bị ‘thanh nghị’ công kích, đã bị ‘danh giáo’ loại ra, thì gần như là không còn mặt nào trông thấy ai, không còn biết ở đời với ai, chỉ có nước vạch đất ra mà chui xuống! Cho nên lúc bấy giờ, từ hàng tấn thân cho đến hạng dân dã, ít kẻ dám công nhiên làm bậy như ngày nay.” Xin chú ý, hai chữ Ngày Nay ở đây là vào đầu thế kỷ trước. Khi nghĩ đến xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ 21, cảnh “công nhiên làm bậy” còn tiến thêm nhiều bước nữa!

Vai trò “thanh nghị” của giới Nho sĩ trong làng xã Việt Nam, khi dùng lời phê phán khiến người phạm lỗi “chỉ có nước vạch đất ra mà chui xuống” cũng giống như tập tục trong đô thị Athena ở Hy Lạp thời cổ, gọi là “Ostracism” (Εξωστρακισμός).Một công dân tại Athena có thể bị “trục xuất” một thời gian, không cho ở trong thành phố nữa. Quyết định này không theo những thủ tục tư pháp bình thường. Ostracism không phải là một hình phạt của tòa án, không có bên công tố và bên bào chữa. Tất cả chỉ là quyết định chung của các công dân để trừng phạt tạm thời một người. Mà không phải ai ở thành phố Athena cũng có quyền công dân, họ chỉ là một thiểu số trong tất cả dân cư, giống như các nhà Nho trong một địa phương. Hành động Thanh nghị trong làng xã nước ta nhằm bảo vệ Danh Giáo, không đưa tới việc trục xuất ai ra khỏi làng, mà chỉ tạo áp lực xã hội trên người làm điều xấu. Nhưng hình phạt tâm lý này còn nặng hơn việc trục xuất thật.

Công việc thanh nghị đó, Phan Khôi thấy là do các nhà Nho muốn tiếp nối công việc “bao biếm” của Kinh Xuân Thu mà Khổng Tử biên soạn. Ông viết: “Sự khen chê của sách Xuân Thu là suốt từ việc lớn cho chí việc nhỏ. Ðây nói những việc lớn: Ai giúp kẻ yếu, chống kẻ mạnh, cứu những nước bị tai nạn, phò những nước bị diệt vong, ấy là được khen (Bao), còn những nước chiến tranh nhau, hoặc dùng mưu kế mà khi trá nhau, cùng những con giặc, tôi loàn, và những kẻ phản quốc, thờ quân thù nghịch, thì bị chê. Nói tóm lại, phàm việc gì hại đến cuộc hòa bình của xã hội là bị chê (Biếm).”

Phan Khôi nhận xét: “Tuy vậy, xét kỹ lại thì cái hiệu nghiệm của sách Xuân Thu, bên khen không có quan hệ lắm bằng bên chê.” Trong hiện tượng “thanh nghị” ở các làng xóm cũng vậy; lời phê phán của các nhà Nho giúp ngăn ngừa những cái xấu trong xã hội, ảnh hưởng đó hữu ích hơn việc khen ngợi; vì những ai đáng khen ngợi thì “cả làng” đã biết rồi.

Phan Khôi đã mô tả ảnh hưởng của vai trò thanh nghị qua những câu chuyện cụ thể, thí dụ nhờ thanh nghị mà đời xưa người Việt Nam ít mắc ghiền ma túy. Ông viết: “Tôi xin cử ra đây một sự cấm hút thuốc phiện. Ðời Tự Ðức, khi chưa hòa với Pháp về trước, triều đình ta vẫn cấm nhân dân hút thuốc phiện. Trong sự cấm ấy, phép vua tuy nghiêm mà cũng không bằng các hội Văn Chỉ và Ðồng Môn. Tôi chưa kịp thấy, nhưng nghe các ông già nói lại rằng lúc bấy giờ thuốc phiện dầu nhiều và rẻ mà ít ai dám hút, nhứt là những người có học, không sợ hình phạt là mấy, nhưng sợ rủi bị hội Văn Chỉ hoặc hội Ðồng Môn ngoại ra thì khốn.”

Phan Khôi đã kể những câu chuyện thời đầu thế kỷ 20 ở nước ta để so sánh: “Ta thử đem việc ấy so với hai việc sau nầy. Ở gần miền tôi có một người vô đạo mà ghiền thuốc phiện. Ông cố (tức là vị linh mục) bắt xưng tội ấy thì anh ta không chịu xưng, nói rằng hút thuốc phiện không phạm vào mười điều răn của Chúa. Lại khi ở Hà Nội, tôi có gặp một ông thầy tu cũng hút. Tôi hỏi chớ thầy không sợ phạm giới sao. Ông ta trả lời rằng trong ngũ giới của Phật vẫn không cấm điều nầy, mà có lẽ hút á phiện thì tiệt được sự sắc dục, lại là có ích cho người tu hành nữa vậy! Coi đó thì thấy rằng cũng đồng một sự cấm hút á phiện mà một bên nói rằng hút thì hư nhân cách, làm cho người ta dễ nghe hơn là bên kia nói rằng hút thì ‘trái ý Chúa’ hay là ‘mang tội cùng Phật’ vậy.”

Khi bị thanh nghị chê bai, một người dân làng cảm thấy “hư nhân cách,” cũng giống như bây giờ chúng ta gọi là bị “mang tiếng.” Qua hai thí dụ trên, Phan Khôi cho thấy mối lo sợ bị mang tiếng “hư nhân cách” có tác dụng mạnh hơn cả những lời răn của các tôn giáo.

Phan Khôi viết cả một loạt bài công kích ảnh hưởng của Nho giáo, nhưng vẫn coi vai trò thanh nghị của các nhà Nho trong xã hội là rất đáng quý. Công việc thanh nghị dần dần không bị giới hạn trong đám Nho sĩ nữa mà đã lan rộng ra toàn dân, có thể gọi là một quá trình “dân chủ hóa” hoặc “đại chúng hóa.” Chính Phan Khôi mô tả: “Ngày nay dầu các hội nói trên kia không còn gì, cái thế lực của “thanh nghị” không có tỏ bày ra như trước, nhưng tôi nói rồi, nó đã bám vào trong lòng mọi người, thì không có bao giờ mất đi được, điều ấy khỏi lo.”

Phan Khôi kể: “Trong khoảng 5- 7 mươi năm nay, những người nào tỏ ra là bất trung với bổn quốc, hãm hại đồng bào, thì bị người ta chửi mắng nhiếc móc riêng với nhau.” Ðó là công việc thanh nghị do người dân phụ trách, không cần đợi giới Nho sĩ. Phan Khôi nêu mấy thí dụ: “Ở Bắc kỳ, có những sanh phần sanh từ của mấy ông quan to bị người ta đề thơ mà chửi bới, hay là đem đồ ô uế mà ném vào, cùng là lén mà phá cho hư đi. Lại có những người tuy chưa làm ra việc chi đáng trách, chỉ mới nói một vài câu chi đó mà thôi, cũng đã bị cáo là ‘bán nước dối dân,’ rất là khó chịu.”

Một giới người bị công luận chê bai nhất là những tên công an làm tay sai cho chế độ thực dân. Phan Khôi khẳng định: “Một vạn cái lòng (người) An Nam (sic) chẳng có cái nào là chẳng ghét những người làm mật thám, tức Nam kỳ kêu bằng lính kín.” Phan Khôi không có thành kiến với giới công an; nếu họ làm đúng bổn phận lo việc an ninh chung. Ông viết: “Mật thám ở các nước văn minh là những người có phần trong sự giữ cuộc trị an cho xã hội, song theo cái tình thế riêng ở xứ ta lại khác, cho nên người ta ghét cũng phải!” Sang thế kỷ 21 rồi, những ý kiến đó vẫn còn đúng!

Cụ Phan Khôi kể ngay một kinh nghiệm bản thân, có một thời gian cụ bị người ta phao tin đồn làm tay sai cho Pháp: “Trong khoảng 4-5 năm nay, có nhiều người khi không mà bị nghi là mật thám. Tôi cũng là một người trong đám ấy.” Hậu quả là “tôi đi đến đâu, người ta chào sơ qua rồi thôi, ít hỏi han chi. Nếu là chỗ đông người thì họ lấy mắt ngó nhau, dường như bảo phải giữ mình... chẳng khác nào giữ một đứa kẻ cắp. Ngoài sự giữ gìn ấy họ lại còn hằm hằm mà tỏ ra dáng khinh bỉ... lại có được thơ nặc danh gởi đến luôn luôn (cho tôi), cái thì khuyên tôi cải ác tùng thiện, cái thì chửi tôi tàn tệ.”

Bị nghi oan, bản thân bị thiệt hại, nhưng Phan Khôi lại vui mừng vì thấy công luận vẫn đóng vai trò thanh nghị: “Tôi chịu những điều đoán phạt oan ức ấy mà lại lấy làm vui lòng, vì nội đó cũng đủ chứng rõ cái lòng ái quốc và cái đức chánh trực của dân tộc Việt Nam.” Ông viết tiếp: “Dân tộc ta mà sau này có ngày cất đầu lên được, là nhờ ở chỗ đó. Chỗ đó, ta phải cảm ơn Khổng giáo, ta phải nhận rõ ràng là sự ban tứ của sách Xuân Thu.”

Bây giờ là đầu thế kỷ 21, khi coi lại những lời Phan Khôi viết hơn 80 năm trước, chúng ta vẫn ngậm ngùi khi đọc câu: “Dân tộc ta mà sau này có ngày cất đầu lên được, là nhờ ở chỗ đó.”

“Chỗ đó” mà Phan Khôi nói trên đây là cái quyền thanh nghị của giới trí thức và mọi người dân trong xã hội. “Chỗ đó” không là luật pháp thành văn nhưng là một quyền mặc nhiên được công nhận trong “hợp đồng xã hội” của người Việt Nam chúng ta trong hàng ngàn năm lịch sử.

Khi người Việt Nam bắt đầu nghĩ đến công cuộc duy tân thì công tác thanh nghị bảo tồn danh giáo trên đây sẽ còn hay không? Xã hội đã biến chuyển, tiến bộ, nhiều thứ quyền mặc nhiên phải được chính thức hóa, phải trở thành minh bạch, công khai. Phong tục cổ truyền đã được thay thế bằng một thứ quyền hiến định do luật pháp bảo vệ, là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Nếu chế độ không thi hành đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí thì nước ta đã bỏ mất một định chế cổ truyền, là thanh nghị. Nhiều người bênh vực chế độ độc tài cứ nói rằng các quyền tự do này là sản phẩm của văn hóa tây phương, không thích hợp với truyền thống Á Ðông. Ðọc Phan Khôi, chúng ta thấy thực ra việc tôn trọng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí chính là theo một truyền thống của dân tộc!

Trong lúc nhà nước cộng sản chiếm độc quyền làm công việc truyền thông, giới trí thức nước ta, những nhà Nho mới vẫn tiếp tục công tác thanh nghị trên các mạng lưới. Mạng lưới Bô xít Việt Nam là một cơ quan thanh nghị. Các người chủ trương những mạng nhà báo tự do, những ông Ðiếu Cầy, Tô Hải, cô Mẹ Nấm đang làm công việc thanh nghị, để, theo dự kiến của Phan Khôi, giúp cho dân tộc Việt Nam “có ngày cất đầu lên được.”

Ðiều đáng lo là những người cầm quyền ngày nay không phản ứng giống như giới quan lại ngày xưa. Xưa kia, bị mang tiếng xấu thì người ta sợ hãi; ngày nay họ vẫn nhơn nhơn. Những công an trừ nạn mại dâm lại chụp hình làm nhục các cô gái đáng thương, họ cũng đáng thương vì không được giáo dục. Những ông hiệu trưởng như Sầm Ðức Xương đã làm nghề dẫn gái cũng vì sống trong một guồng máy cai trị coi quyền hành của các cán bộ cao hơn pháp luật. Cả tập đoàn cai trị một tỉnh Hà Giang, từ bọn đầu sỏ Nguyễn Trường Tô, Ðinh Xuân Hùng, đến các cán bộ hải quan Hướng, trưởng ban tổ chức công an Bích, và các công an như Minh, Tiến, đã tham dự vào mạng lưới ghê tởm làm hại đời các nữ học sinh. Còn biết bao nhiêu tập đoàn thống trị làm hại dân như vậy, không ai tố cáo nên hiện giờ vẫn còn tiếp tục tác hại? Họ vốn không biết liêm sỉ hay xã hội đã biến họ thành vô liêm sỉ?

Nền giáo dục cộng sản đã làm nhiều người bị thui chột đức liêm sỉ. Muốn cho việc thanh nghị đóng được vai trò giáo huấn, ngăn ngừa cái xấu thì phải thay đổi nền giáo dục, bắt đầu với việc xóa bỏ những căn bản là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Ðông. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là phải thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong Hiến Pháp! Ðó chính là quyền thanh nghị trong truyền thống nước ta.



Tro ve dau trang

=================================

====================================================

Báo CSVN đồng loạt “bác bỏ bộ phim "Sự thật về Hồ Chí Minh” !!!!!!!

Báo đảng đồng loạt
“bác bỏ bộ phim Sự thật về Hồ Chí Minh”

Bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” của Phong trào đòi lại tên Sài Gòn thực hiện được phát hành hơn 1 năm trước đây đã dần dần theo các phương tiện truyền thông đi vào từng ngõ ngách gia đình người Việt Nam từ hải ngoại đến trong nước. Bộ phim đánh động tâm thức người dân Việt đã 2/3 thế kỷ nay được sống trong vòng hào quang “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” và “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” với mọi phương tiện và phương pháp tuyền truyền của đảng CSVN.



2/3 thế kỷ đã qua, các đợt sóng tuyên truyền một chiều đã dần dần bào mòn khả năng phản ứng trong nhận thức của mỗi người dân, dần biến người dân như một cỗ máy chỉ biết nạp thông tin một chiều.

Bỗng nhiên, thông tin từ Internet đã làm đảo lộn mớ thông tin được đảng sắp xếp hết sức công phu và lớp lang trong vỏ não mỗi người, tạo ra những xung động mãnh liệt và có nguy cơ nhận thức lại mạnh mẽ.

Và khi đó, thật, giả, đen, trắng… được phơi bày, đây là tử huyệt của chính sách ngu dân và dối trá. Trước tình hình nguy ngập, sau khi lờ đi không được, bộ máy của “đảng ta” đã được khởi động để chống lại xu hướng “nhận thức lại” của toàn dân.

Bài viết trên Thông Tấn xã Việt Nam nhan đề “Bác bỏ bộ phim xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh” của người được mang danh hiệu đạo diễn – NSND Đào Trọng Khánh và tất cả các báo được lệnh đồng loạt đăng lại ngày hôm nay, đã phản ánh sự hoảng hốt của hệ thống tuyên truyền của ĐCSVN.

Cả bài viết nhằm “bác bỏ…” nhưng ông đạo diễn, “Nghệ sĩ nhân dân” này không hề đưa ra dẫn chứng nào có giá trị lịch sử hay tư liệu lịch sử để bác bỏ được chi tiết nào trong bộ phim tài liệu này ngoài vài câu bình luận về cách làm phim, sự “khôn khéo” của tác giả bộ phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh”…

Bài viết của ông “nghệ sĩ nhân dân” Đào Trọng Khánh – Thật ra phải gọi là nghệ sĩ của đảng mới đúng – đã không đưa ra được một chút chứng cứ, tư liệu lịch sử nào nhưng lớn tiếng quy kết, kết luận rất trời ơi là “sự thật lịch sử không phải là như vậy” (Sic) chắc còn ghê gớm hơn? và đưa ra những lời rất… ngô nghê chẳng ăn nhập vào đâu với việc bác bỏ như “Những nỗ lực và sáng tạo, những phấn đấu không ngừng cho sự tiến bộ, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân loại, là những điều cơ bản từ những bước đi thần kỳ của lịch sử trên tình thần nhân văn cao cả, trong đó có sự hy sinh không tiếc thân của những nhà cách mạng trên toàn thế giới”. Hoặc là “Sự hằn học, vu cáo và xuyên tạc lịch sử là biểu hiện của sự thoái hóa về nhân cách, ngược dòng với chiều tiến hóa và sự thăng tiến tinh thần của nhân loại, tự trói buộc và đánh mất Cội nguồn”…


Tất cả chỉ là những lời kết tội vu vơ, chẳng có căn cứ nào. Đọc mấy lời này của ông nghệ sĩ nhân dân chẳng khác nào nghe tiếng chửi của bà già mất gà ngoài chợ.

Cũng ở đó, ông Đào Trọng Khánh đã nói lên sự “độ lượng” của nhà nước CS Việt Nam: “Sự vu cáo có thể trầm trọng hơn nếu họ phải đối chứng với cơ quan luật pháp ở bất cứ nước nào, đó là trường hợp của Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cầm, Bùi Tín trong chuyện bà Nông Thị Xuân. Người ta không làm bởi không muốn làm buồn lòng những người đã khuất, kể cả cụ Vũ Đình Huỳnh là thân sinh ra nhà văn Vũ Thư Hiên”. (Ngay tên ông Nguyễn Minh Cần, từng là Phó chủ tịch UB Hành Chánh TP Hà Nội cũng viết sai).

Thật ra, ai cũng biết nhà nước CSVN đã “độ lượng và khoan hồng, ưu ái” thế nào đối với những ai có ý tưởng nghi ngờ những điều đảng đã đóng cột cho nhân dân và nếu có nguy cơ làm vỡ lở những điều đảng muốn giấu kín.

Hỡi ôi!

Đảng ta đang khủng hoảng toàn diện mọi mặt như: Tư tưởng Lý luận, Đường lối, Lãnh tụ… chỉ còn bám víu vào chiếc phao cuối cùng mới được chế tạo gấp rút nhằm cứu khỏi bị nhấn chìm là hình tượng, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.

Nếu các quý vị cố tính đánh chìm mất cái phao bám víu cuối cùng này của đảng, thì đảng ta tìm con đường sống nào đây?

Bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” nói gì mà đảng ta hốt hoảng như thế? Thử xem vài đoạn nó ra sao:

P1, P2, P3, P4, P5, P6, P7, P8, P9, P10, P11, P12

Tro ve dau trang

==========================

======================================

Z30D Nỗi Dậy

Chuyển lại theo yêu cầu của số thân hữu muốn biết " đời sống tù " của chúng tôi cay nghiệt ra sao...

Đây là Phân trại K1- Z30D Hàm Tân Thuận Hải, nơi CS đày ải và khủng bố trắng Sĩ quan và Tù nhân Chính trị VNCH, và những ai muốn biết dung nhan của Viêt Thường Trần hồng Văn ra sao ( hiện định cư ở Anh quốc ), xin theo dõi kỹ đoạn video giới thiệu Thư viện, người mặc áo trắng đứng trong TV là Viêt Thường ( đã " được lệnh bình phục đôi chân " đề tiếp tục sứ mạng)

Nguyển đăng Trình - " Cựu cư dân của trại khổ sai nầy "

http://www.youtube.com/watch?v=pdJi6pITTJU

================================

Xin xem tiếp Z30D Nỗi Dậy
Cách nay 30 năm, vào đầu năm 1981 tại Trại Z30D một cuộc Nỗi Dậy 2 ngày đêm liên tiếp, nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các cấp Quân- Cán- Chính- VNCH..không bao giờ đội trời chung với chế độ CS.
==================================





Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia, Quý Vi Hữu, Quý Chiến Hữu Và Quý Niên Trưởng Không Bao Giờ Quên Tội Ác Của Cộng Sản Việt Nam, Thuốc Đắng xin trân trọng giới thiệu đến quý vị một số án thơ văn trong tù, do các cựu sỹ quan QLVNCH cảm tác trong thời gian bị đọa đày trong các trại cải tạo của CSVN


THƠ VĂN TRONG TÙ

(Huy Vân)

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà đảng CS hô hào chiến thắng thống nhất đất nước, lại là ngày khởi đầu những tháng năm tù đày cho cả miền Nam; hầu hết hơn 270 trại tù do chính những người tù xây dựng trong vùng rừng sâu nước độc, trải dài từ Bắc đến Nam; giam giữ hằng trăm ngàn Quân, Cán, Chính và dân lành vô tội!.

Chính sách “ đại đoàn kết dân tộc” thể hiện bằng biện pháp kêu gọi hằng trăm ngàn quân dân cán chính chế độ cũ trình diện “học tập cải tạo” ở các địa điểm khắp các tỉnh thành miền Nam do Uỷ ban Quân quản đưa ra.

Một trong số những địa điểm tập trung “ngụy quân- ngụy quyền” là trại Long Giao, trại Suối Máu thuộc tỉnh Biên Hòa; khởi đầu theo lệnh mang đồ dùng cá nhân học tập 10 ngày; hết 10 ngày, qua 1 tháng; rồi lại hết 1 năm và sau cùng “thành khẩn học tập lao động tốt từ năm này cho đến muôn năm”.

TÙ CHUYỂN RA BẮC

Cuối tháng 6/1976, một số lớn tù nhân được chuyển bằng tàu thủy, rồi chuyển bằng tàu hỏa, đường bộ về Hoàng Liên Sơn. Những năm đày ải ra miền Bắc là thời gian bạc ác tồi tệ nhất; đói khát, bệnh tật chết vì không thuốc men, lao động kiệt sức, không người thân thăm viếng v.v..

Liên trại 6 tại vùng núi Hoàng Liên Sơn, lòng chảo Điên Biên Phủ núi đồi hiểm hốc, không một bóng người qua lại, là vùng tử địa cướp xác tù dễ dàng khi lâm bệnh! Người tù chịu bao nỗi cực hình, lại thêm biệt âm vô tín!

Ngày ngày lao động nặng nhọc, sáng sớm rời cổng trại, cố gắng vượt qua 3 ngọn đồi có hình nấc thang nằm về hướng Tây bắc trại, tù đặt tên là Đồi Ba Dội. Phải mất hơn 4 tiếng đồng hồ mới đến đỉnh đồi thứ ba vừa khoảng 11AM, với ánh nắng hanh vàng chói chang dưới chân đồi. Người tù đứng chênh vênh trên ngọn đồi được bao phủ cả một áng mây trắng đục, lành lạnh, chỉ đứng cách xa 1 thước vẫn không thấy nhau; mây đang bay lơ lửng, bay lang thang vay kín cả khu núi đồi trùng điệp. Giữa cảnh đẹp thơ mộng này, người tù như chơi vơi giữa cảnh thiên thai?! Vừa mơ mộng như sắp được vào Thiên đàng; lại vừa lo sợ trợt chân ngã vào vực thẳm Sơn La địa võng !

Sơn la đỉnh cao Đồi Ba Dội

Mây trắng bay buốt lạnh thân tù

Miền hoang dã, ngục tù tăm tối

Sao cảnh hư vô quá bẽ bàng!.

Chưa kịp nghỉ ngơi 5 – 10 phút, lại tiếp tục lục lạo, xông xáo tìm kiếm cây nứa, cây vầu đúng kích cỡ ấn định, vội vàng chặt 10 –12 cây, buộc thành bó từ đỉnh núi cao lại lần mò vác hết bó nứa về trại.

Mồ hôi ướt đẫm cả áo quần, bụng dạ đói meo cồn cào, chờ đến giờ cho ăn chỉ có sắn khoai thay cơm, vắt vừa tròn nắm tay.

Nơi đây, núi rừng khí hậu nghiệt ngã, rừng sâu nước độc, anh em gọi là Tổng Đàn của bọn Hắc đạo trong truyện Kim Dung, là nơi bọn người dùng tà thuyết hãm hại giết dần những người chống lại chúng!. Sống trong cảnh tuyệt vọng vô vàn này thấy mà thảm thương!

Tức cảnh sinh tình:

MÀN TRỜI CHIẾU ĐẤT

Trời rét quá càng thêm thấy lạnh

Cảnh đọa đầy cơm áo mong manh

Núi rừng sâu, một mầu xanh cỏ

Đá gập ghềnh, chôn dấu thân anh

Ngày hai bữa, khi sắn lúc khoai

Cơm thiếu ăn đào xới củ mài

Sâu một trượng thêm vài ba quả

Gửi vào lòng chẳng thấy ngày mai

Áo anh loang lổ, quần tơi tả

Sương gió bạc mầu lẫn mồ hôi

Đường anh đi, phải chăng mai một

Hận cho đời đen bạc thế thôi!.

Đồi cao vách đá quá cheo leo

Thân anh trôi giạt như cánh bèo

Ngập đầy giông tố mưa dài khổ

Chống đỡ cơn đau vững tay chèo

Đêm nay gió lạnh đặc mù sương

Ngục tù đen tối khắp nẻo đường

Người nối người nhìn nhau đói khát

Màn trời chiếu đất thấy mà thương!.


Mùa này lại tiếp nối mùa khác; những đêm có trăng, tường vách khu trại còn trống trải vừa mới che tạm bợ, đêm khuya càng hiu quạnh, sương lạnh đắp bờ vai; trăng tỏa khắp vùng trời bao la, khắp núi đồi hoang vu và nơi đây những láng, trại đang còn ngổn ngang. Tù nhân ngày lao động vất vả, tối đến mệt mỏi, ngất lịm trong cơn đói đang cồn cào dằn vặt, chập chờn trong giấc ngủ ánh trăng len lén xuyên qua khe tường vách lá; trăng đến rồi đi trong giấc mộng bâng quơ !. Nỗi buồn nào, mà không xót xa ?! khi nhìn trăng vời vợi..

NHÌN TRĂNG

Nhìn trăng nghiêng bóng qua song

Vừa thương vừa nhớ sầu đông lại về

Em ơi! Nhớ giữ lời thề

Sau cơn bão táp anh về với em

Mùa đông rét mướt thâu đêm

Anh nằm canh cánh bên phên gió lùa

Gió đưa, gió thổi rì rào

Vợ Nam chồng Bắc ngày nào gặp nhau

Trăng buồn vượt đĩnh non cao

Len vào song cửa vấn an bạn đời

Đêm nay trăng đến bên lòng

Lồng chim khóa chặt từng vòng kẽm gai

Ước mơ sớm gặp ngày mai

Cho trăng hết vướng bờ gai đầu tường .


Nơi đây không có ngày về, ngày về còn xa lơ, xa lắc; chỉ thấy mỗi ngày cứ thêm rơi rụng từng người, từng người vội vả ra đi!! Kiếp đọa đày lao động khổ sai; đói khát, bệnh tật cứ triền miên tháng ngày!. Ngày lại ngày băng rừng vượt suối, đốn gổ xẻ rừng và mong nhặt thêm ít khoai, đào thêm ít củ nừng, củ chuối; bắt cóc, nhái ễnh ương v.v.. chui lòn bao tử ! Nỗi tủi buồn, nhớ vợ thương con, khi tưởng đến cha mẹ già, càng ngậm ngùi cay đắng !.

NHỚ MẸ

Tôi có mẹ già tóc bạc phơ

Mẹ tôi hiền, đẹp tựa bông hồng

Danh lẫy lừng, vang khắp thiên hạ

Sáng ngời xanh, Hòn Ngọc Viễn Đông .

Tuổi hai mươi thế kỷ vàng son

Tôi lớn lên mẹ con vuông tròn

Mẹ thương con, con nhớ thương mẹ

Tình mẫu tử dạt dào siết khôn .

Thưa mẹ,

Trong dĩ vãng con làm tất cả

Dâng lẽ sống con giữ quê hương

Máu từng chảy loang hòa vào nước

Thấm vào đời, con mến muôn phương .

Nhớ những chiều Đàlạt sương rơi

Đây Vũng tàu gió lộng bể khơi

Sàigòn xinh tươi, như Hoa Đăng Hội

Sức sống vươn lên nhộn nhịp đời .

Thôi là hết mùa hoa chớm nở

Tủi phận mình chưa rửa nợ trần

Bao tháng ngày, mặt trời đi ngủ

Lạnh ngoài đời, lạnh khắp châu thân

Bao tủi nhục, căm hờn xót xa

Bao cay đắng, nhớ thương mẹ già

Con mong đợi, mặt trời thức dậy

Cho mẹ con gặp nhau đậm đà.

**

Cuối năm 1978, để tránh cuộc chiến tranh giữa hai nước từng là anh em thân thiện nhất, cùng tôn thờ một Chủ nghĩa gọi là XHCN, ViệtNam & Trung cộng!. Tù ở các vùng dọc theo biên giới gấp rút chuyển về miền bình nguyên, chúng tôi được chuyển về Trại Nam Hà B. Trại này có hỗn danh gọi là Trại Đầm Đùn nói lên sự cai quản cũng gian ác, đày đọa kinh hồn.

Kể từ nay, bộ đội trao lại quyền quản giáo cho Công an. Sách lược của chúng là giam giữ tù, ngày càng làm tiêu hao sức lực, bỏ đói khát và bắt buộc lao động khổ sai, đau ốm chết chóc càng nhiều càng tốt! Mặt khác CS lại đặc ân cho một số người hèn nhát, tiếp tay làm tay sai cho chúng, những tên đốn mạt này, anh em thường lánh xa, cách biệt và họ chỉ biết trơ trẻn thủ phận một mình, thấy mà thương hại! Về đến Nam Hà, trại xây cất rộng lớn, có tường đá cao bao bọc kiên cố, mỗi gian nhà có thể chứa 200 người; nhốt tù vào các dãy phòng, chật cứng, người sát người, dơ dáy và ngột ngạt. Phòng ở kín đáo, nên mỗi chiều sau giờ điểm danh, khóa cửa, anh em lại có dịp gần gủi nhau, chia sẻ an ủi nhau, hoặc tụm năm, tụm bảy kể chuyện, đọc thơ, ca hát v.v..Trung tá Nông - A - Pang, cựu Sĩ quan tùy viên Lào; về đêm thường kể chuyện: - Chưởng, Đường rừng, Ma quái, Chuyện dài xứ Ba Tư Nghìn Lẽ Một Đêm v.v.. lôi cuốn, hấp dẫn làm anh em say mê quên hết cả mệt nhọc trong ngày; anh em rất quí mến, thường gọi ông là: - Tiên Sinh Pang! Nay ông đã trở nên người thiên cổ. Xin chia sẻ sự đau buồn và trân quí đến gia đình người quá cố!

Đặc biệt những đêm dài mưa rơi gió rét, buồn man mác; nơi đây, cái lạnh và đói cuộn chung nhau làm một, gói thuốc lào lúc này là thần dược diệu kỳ, khói thuốc thả lượn bay bay và những dòng thơ ai oán như cứ luôn tuôn trào..

THÔI HẾT NHẠT NHÒA.

Ngoài trời gió thoảng mưa rơi

Lòng anh xao xuyến buông lơi phím đàn

Tiếng tơ nức nở vô vàn

Gửi mây lướt gió ngỡ ngàng trao ai

Em hởi em có nhớ anh không

Có bao lần em đã chờ mong

Ngày xưa trời nước mênh mong rộng

Bây giờ chỉ biết có đợi trông

Từng thu chết, đông về giá lạnh

Đã mấy mùa, tím ngắt mặt trời đông

Bao tháng ngày sống trong cảnh chim lồng

Đường hoa mộng vẫn chờ bay trước gió

Em có biết những đêm dài nơi đó

Lửa lập lòe thuốc lịm tắt trên môi

Dòng khói xanh, như khơi nhớ một thời

Bao dĩ vãng dâng lên trào khóe mắt

Nơi đây sương gió phủ đầy

Vượt hằn gian khổ có ngày hoan ca

Vườn Xuân sắp lại nở hoa

Tình ta thôi hết nhạt nhòa từ nay .


Dần dần, cuộc sống tại trại Nam Hà B, cuối tuần vào ngày Chúa nhựt buổi sáng, tùy tình hình anh em ở bên ngoài lén nhập vào khu bên trong (nơi đây có 2 khu). Ban tổ chức quan sát tình hình lính gác và nghiên cứu cấp thời chọn phòng tương đối kín đáo, phổ biến cho nhau biết trước 5 – 10 phút – tập trung sinh hoạt và cẩn mật đề phòng chuyện bất trắc có thể xãy ra. Buổi sinh hoạt đầu tiên do Trung tá Thông (81 BCD) và Trung tá Hồng (Phòng Quân Huấn B.TTM) phối hợp tổ chức một chương trình Văn nghệ bỏ túi đặc biệt giới thiệu:


- Đây là: - Tao Đàn Tiếng Thơ Nhạc Tự Do Trong Ngục Tù CS, với những bản nhạc tù khúc nóng bỏng và những bài thơ say men trong niềm tin bất khuất, dù có phải xé gan bẻ cật vẫn phù cương thường. Tất cả anh em tham dự, đồng loạt vung cao cánh tay và hân hoan đón nhận những tràn pháo tay nồng nhiệt..

SAY

Rượu không uống, sao người mãi say

Trời đất xoay quay bao đắng cay

Ôi biệt ly, buồn dài thế kỷ

Để nhớ về, tràn ngập chân mây

Người chiến sĩ đi trong mưa gió

Thân hải hồ khoác áo chinh y

Mỗi lần đi mấy khi trở lại!

Từng dọc ngang, khắp nẻo biên thùy

Ba mươi năm chiến tranh máu lửa

Biết bao lần bom đạn tên bay

Nhưng không chết, trên hào trận tuyến

Và vẫn sống trong lòng hôm nay

Làm chiến sĩ sống đời oanh liệt

Nợ tang bồng phải trả cho xong

Thắng không vinh, bại không nhục

Hận thù này, khắc cốt ghi lòng

Rượu đâu uống sao người mãi say

Ta say trong bốn bức tường dầy

Khi buồn muốn la, vui lại khóc

Lúc tỉnh khi say hỡi rượu cay!.


Buổi thơ nhạc trên làm nền tảng cho bước đi trong âm thầm qua bao sự khắc phục chịu đựng đè nén trong tâm khảm người tù, nay đánh thức tinh thần anh em, tạo cho mỗi người, biết đoàn kết thương yêu nhau hơn!. Khí thế càng hăng say, tình thần hưng phấn được sáng tạo một cách lạ lùng, ngay trong cái lồng sắt lúc nào cũng canh phòng gay gắt, phụ họa là thành phần ăng ten luôn bám sát gót chân tù. Nếu không cùng một lòng, chắc rằng lưới bạo tàn sẽ dập tắt! Những cùm, kẹp tha hồ chăm sóc kỷ đối anh em hết lòng ..Thơ nhạc nở rộ trong ngục tù, là những dịp rửa sạch tâm hồn người tù vì qúa tủi nhục, không một ai dám lên tiếng hoặc chống đối nhà tù; tiếng đàn, tiếng nhạc, tiếng thơ ngân vang trong những tụ điểm, những nơi kín đáo, những lúc nhàn rỗi làm xoáy động những tâm hồn đang chết lặng vì ngục tù CS dã man nhất thế kỷ!.


NGUYỆN CẦU

Trời hỡi trời! tôi quá đau khổ

Mang thân tù chuốc lấy đọa đày

Đường tôi đi vinh, nhục đôi ngã

Hận biệt thù, lại thêm đắng cay

Nhục nào hơn bằng nhục mất nước

Vực nào sâu bằng vực tù đày

Nắng vàng không ấm người mong đợi

Ngẩng mặt nhìn trời chỉ thấy mây

Nơi đây máu mắt đong thành đá

Suối chảy rừng sâu gợi thêm sầu

Nắng cháy da đầu, lòng vẫn lạnh

Mùa đông giá lạnh, sốt đêm thâu

Trời hỡi trời ông giờ ở đâu

Bao nhiêu năm tháng tôi nguyện cầu

Cho ViệtNam không còn đau khổ

Cho nươc nhà sớm hết Cọng nô !



Suốt ngày lao động cực nhọc, chiều tối cơm nước không đủ cung cấp nhiệt lượng, đêm về, bao nhiêu hoài vọng thương nhớ không sao nhắm mắt, và cứ mơ tưởng về Sàigòn!.

Đêm đêm mơ thấy Sàigon,

Đèn xanh đèn đỏ có còn đâu em!.

Giấc mộng ray rứt làm tâm hồn lâng lâng bồn chồn, nôn nao và trông đợi. Giấc mộng chỉ mơ được thấy Sàigòn.. Gió ù ù thổi thêm lạnh, tâm hồn như u uất, vang vọng trong lòng não nuột cả khung trời ly biệt! Ngoài trời mưa vẫn cứ rơi..


CHO TÔI SỐNG LẠI MỘT NGÀY

Nghe mưa rơi, lòng ta nức nở suốt canh dài

Nghe gió thổi, sầu thêm cô quạnh

Đã mấy mùa ? Mấy mùa đông giá lạnh

Khung trời vắng lặng bóng trăng sao

Ôi biệt ly buồn lắm thương đau

Ai cách ngăn ? tình yêu chan chứa

Ai đã xé nát con tim đôi lứa

Nhưng vẫn nhớ mãi trong lòng

Nhớ em như nhớ dòng sông

Thương em như thương dòng suối mát

Cung đàn tiếng thơ ta hát

Cho tượng đá mắt cũng lệ nhòa

Nơi đây không có mùa xuân nắng đẹp hiền hòa

Nhưng vẫn nhớ, ngày nắng ấm lam chiều khói tỏa nhẹ

Em đi từng bước lòng vẫn thấy lẹ

Chờ trăng lên nao nức không quên đời

Hỡi ôi! Ngày ấy đã xa rồi

Và từ nay, ngày không ngày, trời đất như cuồn quay sụp đổ

Ôi quê hương! Ôi tình yêu tan vỡ

Trong tối tăm, cho tôi sống lại một ngày.


Kể từ nay lúc lên núi xuống đồi, khi có dịp quay quần bên nhau, bạn Nguyễn văn Thái khóa 15 ĐàLạt với cây đàn Guitare vừa được gia đình gửi đến, anh ray rức lay động qua lời thơ mộc mạc hiền hòa và anh phổ thơ bản nhạc Cho tôi sống lại một ngày..

Cả đội Rau Xanh như thêm sức sống mới và càng hy vọng hướng về tương lai và làm cho đội Mộc và Rèn nằm gối đầu bên cạnh, cùng vui hưởng những giây phút rung cảm, khi nghe bạn Thái cất tiếng hát nảo nề, ai oán trong những đêm mưa gió sụt sùi. Tiếng hát như gào thét giữa đêm trường, lúc trầm, bổng, dồn dập bềnh bồng như xua cái đen tối thân phận tù đày rồi sẽ qua mau.

***

TÙ CHUYỂN VỀ NAM

Cuối tháng 12/1980 toàn Trại Nam Hà B có khoảng 2000 người chuyển về Nam, sau 5 năm đày đọa và hãm hại thê thảm tại các trại tù miền Bắc. Nào LaoKay, Yên Báy, Sơn La, Phong Quang, Hà Nam Ninh v.v.. CS vắt hết mô hôi, nước mắt và xương máu tù nhân, nay chỉ còn bộ xương khô lê lết trên đường về là cả một trời tím ngắt!..

XUÔI NAM

Đường trở về thoáng hiện quê hương

Niềm thương man mác sao khác thường

Bao năm xa cách càng uất hận

Ai thấu lòng ta có biết chăng

Vẫn trăng đó vẫn khung trời xanh

Một nửa hồn đau tím cả lòng

Ai tri kỷ? Ai người phản bội

Mang đất nước nầy đến thương vong

Hà Nội ơi!

Bao năm chìm đắm trong bức màn sắt

Hà nội không tiến, lịch sử vẫn không ngừng

Hà nội dừng lại, dân chẳng đặng đừng

Màn đen che khuất, cơn ác mộng hãi hùng

Sàigòn ơi!

Ngày sóng đỏ, ngập đầy cánh đồng xanh

Đã gây bao thê lương tang tóc

Miền Nam kinh hoàng, trong máu lửa loài quỉ đỏ

Quỉ đỏ! Quỉ đỏ!

Mi là quân thù

Ta thề quyết không đội trời chung

Mi nói Tự Do

Dân chẳng thấy no

Hô hào Dân chủ

Đặc quyền quan to

Dân làm như phu

Chẳng khác thân tù

Lãnh tụ gian ác

Nhốt cả thầy tu

Để rồi, bao hưng vong của đất nước,

Đâu còn tiếng chuông Giáo Đường,

Thức tỉnh mi,

Đang gây nhiều tội ác

Hỡi hồn thiêng núi sông nước Việt

Hỡi anh linh phảng phất đâu đây

Hỡi những người lâm cảnh tù đày

Hãy cùng nhau, dựng lại quê hương mình!.

TRẠI Z30D

ÂM THẦM NỖI DẬY!

Trại Z 30D vừa đón nhận 2000 tù từ Trại Nam Hà B như nói trên, sau 2 ngày phân tán còn lại 120 tù chuyển về Trại C, đến nơi các bạn tù Vĩnh Phú về trước1 tuần, thông báo sẽ có kiểm tra. Một tập Sớ Táo Quân được các bạn bè cất giấu dùm vừa thoát cảnh lục soát gay gắt. Ngay tối ngày 23 tháng 12 âm lịch năm 1980, chúng tôi lại có cơ hội thực hiện một buổi sinh hoạt tại buồng ở khá nhộn nhịp và tuần tự kể hết những tội ác của Trại như: - Đàn áp tù, đánh đập, trù dập, bỏ đói khát, đau ốm bệnh tật v.v.. trình tâu hết lên Ngọc Hoàng Thượng Đế!

- Chỉ còn 7 ngày nửa là đón giao thừa Tết Tân Dậu năm 1981, các trại tù miền Bắc lần lượt chuyển về Nam không hẹn mà gặp anh em tù trong Nam, sau ngày quê hương bị thống trị bởi CS, tù trong Nam hầu hết là giới trẻ, sinh viên học sinh, công tư chức và các bô lão có tiền của bọn CS gọi là Tư sản mại bản v.v.. Người người đều cảm nhận thiếu mấtTự Do, thiếu mất điều gì mà từ trước họ được sống nay không còn nữa!. Tù biệt xứ nay trở về gặp lại đủ các thành phần trong xã hội cũ, mang cùng tâm trạng thương đau, vô bờ bến!.

-“Cảnh chim lồng cá chậu biết thuở nào ra”?! Trại C đang nhốt khoảng 1800 tù nhân, lợi dụng thời gian và không gian lễ hội Tết sắp đến, anh em hăng say kết nối nhau trong âm thầm quyết liệt. Theo chương trình ngày mùng 1 Tết, khu A, B, C đề cử anh em thăm viếng lẫn nhau và chúc Tết vào buổi sáng. Ánh sáng ban mai lung linh nhảy múa tràn vào từng dãy buồng tù đang trú ngụ như an ủi và cùng chia sẻ sự vui mừng qua những lời chúc tụng nhau:

- Mau sớm có ngày trở về.

- Đả đảo chính sách hà khắc đối với tù chính trị

-Đả đảo CS

- Hẹn ngày gặp nhau tại.. (Một số tin tức khả tín, Bà Khúc Minh Thư đang vận động Mỹ thu nhận tù.)

Qua mùng 2 Tết, đúng giờ G khoảng 3 PM, khu A dàn cảnh bày tiệc trà cùng nhau vui Tết để có dịp đánh 4 tên trật tự và ăng ten, kết quả biến động lan truyền nhanh khắp khu B, C toàn trại. Ban chỉ huy Trại báo động, lập tức điều động công an trấn áp tù khu A để giải cứu mấy tên tay sai.

Trong khi công an vào đàn áp tù, không may anh Tân vì quá hăng say đánh lũ người nối giáo giặc chưa thoát khỏi vòng ẩu đả, công an ào tới bắt gặp anh Tân đang dùng cây đánh những tên gian ác phản bội. Anh Tân bị công an vây bắt và đánh túi bụi vào mặt mày thân xác máu me đầy người, chúng bắt anh Tân bỏ vào bao bố kéo ra khỏi trại đánh hội đồng liên tu bất tận! Hiện trường lúc này khá sôi động, khu A, B, C đều ra khỏi nhà đồng hô to:

- Không được đánh tù chính trị.

- Yêu cầu trả anh Tân về Trại.

- Tất cả 3 khu, tù nhân đồng la, thét, vang dậy một góc trời. Tin tức truyền tải từ khu A, qua B, rồi đến C; nối nhau như cơn bão trong lòng nhịp nhàng và không bao giờ muốn dứt!. Không khí sôi động, tiếng la, tiếng thét toàn trại hơn 1800 con người cùng một lúc trong rừng sâu tăm tối, trong ngục tù CS, chưa bao giờ xảy ra , nay các bạn tù đồng đứng dậy nói lên một ý chí sắt đá, một tinh thần bất khuất , kiên cường và không bao giờ chịu khuất phục!

Mỗi khắc, giờ trôi qua, sự biến động có thể xảy ra những biến cố hệ trọng hơn; Công an tăng cường càng lúc càng đông, súng ống sẵn sàng chĩa vào lưng tù, chúng áp đảo tù khu A, rồi lần lượt khu B vào nhà khóa chặt cửa. Nay chỉ còn khu C bên ngoài khoảng 400 người, nhất quyết lấy hàng rào chắn ngang giữa khung B và C, làm điểm tựa vừa kín đáo che khuất, vừa che chở nhau.

Mặt trời buông dần xuống, anh em vẫn hiên ngang tiếp tục cuộc đấu tranh và hô to các khẩu hiệu :

- Không được đánh tù chính trị.

- Không đánh đập anh Tân.

- Phải thả anh Tân trở về trại.

- Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì CS làm.(Lời Tồng Thống Nguyễn văn Thiệu)

- Nơi nào có đàn áp, nơi đó có nỗi dậy.( Karl – Marx)

- Đả đảo CS.

Đồng loạt vỗ tay và liên tục hát bài ca ViệtNam – ViệtNam.

Cuộc đấu tranh hôm nay, quả thật “Cá nằm trên thớt ”, dù có vùng vẫy rồi cũng bị sức mẻ gãy gọng. Sau 3 ngày thức trắng đêm hao mòn biết bao tâm huyết để rồi Ban Quản Lý trại, biệt tách hơn 52 chiến sĩ nhiệt tình, không khiếp sợ nhận lấy đau thương, chuyển hết về Chí Hòa rồi đày ải vào đội Trừng giới thuộc tỉnh Phú Khánh. Sau này theo tin tức được biết Thiếu tá Lê Danh Chấp gục ngã trong những ngày trừng phạt tại Trại Xuân Phước. Chúng tôi quá xúc động vì mất một người bạn kiên cường anh dũng bất chấp sự trả thù tàn bạo của CS. Thiếu tá Chấp chết đi đã để lại cho các bạn tù trại Z 30D một niềm thương tiếc vô cùng xót xa, anh vừa can trường vừa hăng say luôn kích động mọi người cùng đứng dậy hô to các khẩu hiệu suốt đêm và đến cả ngày hôm sau mùng ba Tết, anh là người hùng trong đêm nỗi dậy cho đến bây giờ anh em vẫn thương nhớ và biết ơn anh.

RỪNG LÁ NỖI DẬY

Rừng Lá,

Tiếng thét đêm nay nghe dễ sợ

Tiếng rú đêm nay nghe rợn người

Rừng Lá âm u, đây Rừng Lá

Bừng dậy đêm nay trời sáng sao !.

Rừng Lá,

Đêm nay ta gào! Đêm nay ta thét!

LàoKay – YênBái – SơnLa

HàNamNinh – VĩnhPhú – PhongQuang..

Nghĩa địa vùi xác tù vội vả

Z 30D nghiệt ngã trăm bề gớm ghê!

Rừng Lá,

Tiếng rú đêm nay nghe dễ sợ

Tiếng thét đêm nay quá kinh hoàng

Rừng Lá âm u, đây Rừng Lá

Bừng dậy đêm nay trời xót xa.

Rừng Lá,

Đêm nay ta hát cho nhau nghe

Bài ca uất nghẹn

Bài ca hận thù máu chảy

Và nhửng bài ca trong ngục tối!

Đêm ngục tù không chăn không chiếu

Chân xích xiềng buốt giá đêm thâu

Xích xiềng nào xé nát tim ta

Lửa hận thù bốc cao bùng cháy!

Quân cộng thù phá nát quê hương

Bao năm dài bóp chết dân đen

Vì Tự Do ta tìm cuộc sống

Vì Tự Do ta phá bỏ chim lồng

Ôi Việt Nam trại tù khắp nẻo

Rừng Việt Bắc lắm anh hùng bỏ thây

Ôi từng cây! Sốt rét rừng xô ngã

Da bọc xương khiếp cảnh lưu đày

Đêm nay ta hát cho nhau nghe

Bài ca uất nghẹn, khiếp cảnh lưu đày!


Sau ngày nỗi dậy, Ban Chỉ Huy Trại càng khép chặt cổng tù, càng theo dõi gắt gao từng hành động tù nhân. Sau 2 tháng, một buổi sáng toàn trại tập trung nhận lệnh đi lao động. Đột nhiên Ban Chỉ Huy Trại gọi tôi ra trước sân tập họp và đọc Lệnh phạt với lời lẽ : Chây lười lao động. Ngay lập tức hai tên trật tự áp giải tôi về phòng kiên giam, theo sau có 2 tên võ trang cầm súng. Vừa vào phòng giam, có sẵn tấm váng bề rộng khoảng 6 tấc, bề dài vừa đủ chiều cao tầm người; tấm váng kê cao bởi 2 con ngựa cách mặt đất khoảng 1 thước, người tù bắt nằm dài, thẳng 2 chân xỏ vào 2 còng sắt tròn vừa sát cùm chân; treo tòn teng bởi cây sắt nằm ngang có 2 trụ cột gắn chặt chôn sâu dưới đất. Thế là suốt ngày đêm 2 còng sắt dính sát 2 mắt cá cổ chân, khi ăn uống, tiểu tiện, đại tiện đều nằm ngồi tại chỗ.

TIẾNG GÀO GIỮA ĐÊM KHUYA

Làm sao sống lại ngày mai

Làm sao quên hết những đêm dài

Âm u một cõi lòng nức nở

Trắng tay gối đầu sầu khôn nguôi!

Đêm nay một mình, một phản, đôi cùm sắt

Lưng mỏi loai hoay sột soạt hoài

Tiếng còng khua động ác đêm lạnh

Oan trái nợ đời dễ ai quên

Phòng giam khóa chặt đầy bóng tối

Hiu hắt bao thu lạnh tứ bề

Rằng đây có phải là địa ngục

Ta gào! Ta thét ! giữa đêm khuya!

Tiếng gào còn vang mãi trong sa mạc

Tiếng thét căm hờn vọng lại từ xa

Bao nhiêu năm lưu đày khốn khổ

Bấy nhiêu năm bít lối đường về

Giờ đây lại nằm chân co chân duỗi

Thôi thúc thân tù hành hạ đắng cay

Dù phải hy sinh nơi cửa ngục nầy

Vẫn bền chí quyết một lòng bất khuất

Vẫn tin tưởng có ngày sáng lạn

Đập gông cùm phá xiềng xích dã man

Diệt hung nô thời đại bạo tàn

Làm sạch cỏ nhổ từng tên đầu sỏ

Ta sẽ về, ta sẽ trở về

Vượt Mây Tào núi dài rừng sâu

Biển Hàm Tân cát bay rát mặt

Thoát nơi này ra hẳn tối tăm .

Làm sao biết được ngày mai

Làm sao biết được đường dài

Sông kia có khúc người có lúc

Dòng đời thay đổi dễ ai hay

Làm sao biết được ngày mai

Làm sao quên hết những đêm dài

Đã mấy mùa rung trống xông trận

Chờ ngày phục hận sẽ ra tay.


Sau một tháng cùm siết chặt 2 cổ chân, tôi được thả ra, đi đứng không vững, tất cả trời đất như quay cuồn rồi ngã gục trên đường về trại. Từ Bắc trở lại Nam còn bộ xương khô, nay chỉ tội: Chây lười lao động mà cùm 2 chân không cử động nổi. Thật đáng thương cho số phận làm tù..

Thuở xưa, giữa hai nước có chiến tranh, sau khi chấm dứt kẻ thắng đối xử người tù vẫn coi quí trọng thân thể họ, xem kẻ thù như tình đồng loại, cho ăn uống đầy đủ, đau ốm có thuốc men điều trị, ngày thả ra còn may cho cả áo quần v.v.. Nay CSViệt Nam đã đánh mất hết bản tính con người thuần túy Việt Nam, cùng Chung một Giống Nòi; họ không còn nghĩ đến Tình Huynh Đệ, Nghĩa Đồng Bào; rồi mặc tình đày đọa hằng triệu người miền Nam tại các trại tù, lâu dài 5,10,15,17, 20 năm trời lao đao, lận đận, tả tơi đến khốn cùng. Giết dần 30 triệu mầm sống của nửa Dân Tộc tại miền Nam! Vì vậy cho đến ngày nay sau - 32 năm cưởng chiếm miền Nam; CSViệt Nam chỉ có ha hê say men trên chiến thắng, chỉ biết vơ vét đầy túi tham; tham ô, tham nhũng lấy của cải tài sản của dân cùng âm mưu ăn cắp đục khoét của công làm của hương hỏa cho đời sống riêng tư tăm tối của chúng. Sau thời gian dài, chẳng xây dựng được gì cho đất nước, chỉ là con số không! Cả Dân tộc ViệtNam ngày nay hơn 80 triệu người đang quằn quại sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo đói dốt nát. Sau bao nhiêu năm dài trọn quyền cai trị, thế mà nước Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới! Tại sao?! Vì CS Vietnam cướp hết quyền Tự do, Dân chủ, v. v.. để độc quyền toàn trị. Từ đó không có tiếng nói khác, không một đảng phái đối lập góp chính kiến xây dựng xã hội, vậy biết bao giờ Nước Việt Nam mới tiến bước kịp các nước bạn trên thế giới. Than ôi!

Huy Vân
===============================
============================================
Kính gửi

Qúy vị Truyền thông và báo giới

Xin Qúy vị tham dự và vui lòng phổ biến thông báo dưới đây để mời gọi đồng hương cùng thân hữu tham dự buổi ra mắt tập thơ của Thi Sĩ Hà Thượng Nhân.

Xin qúy vị thông cảm và vui lòng phổ biến miễn phí. Thay mặt thi sĩ Hà Thượng Nhân và ban tổ chức chúng tôi xin chân thành cảm ơn qúy vị.

Kính chúc Qúy vị An Khang và Thịnh Vượng

Trân trọng

Văn Thơ Lạc Việt/Đông Anh


Thông Báo

Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt trân trọng thông báo:



Con gái của Thi Sĩ Hà Thượng Nhân là cô Phạm Hoàng Minh Phi có tổ chức một buổi ra mắt tác phẩm Thơ Hà Thượng Nhân cho thân phụ. Cuốn thơ tập trung một số thơ của thi sĩ viết từ 70 năm trước và một số mới đây. Sách do các bằng hữu miền Nam Cali chọn lọc và ấn hành, do đó sách sẽ không bán mà chỉ để biếu qúy vị quan khách.

Trân trọng kính mời qúy vị bớt chút thì giờ vui lòng tới tham dự buổi ra mắt sách và gặp gỡ nhà thơ Hà Thượng Nhân tại Trung Tâm ViVo 2260 Quimby Rd. thuộc thành phố San Jose vào lúc 13 giờ 30 chiều Chủ Nhật 19 tháng 12 năm 2010.

Ban tổ chức xin phép khai mạc đúng 2 giờ. Sau đó sẽ có tiệc trà thân mật cùng một địa chỉ để nhà thơ có cơ hội gặp gỡ hàn huyên cùng quan khách và bằng hữu.



Trân trọng

Văn Thơ Lạc Việt


Ðông Anh xin chúc Quí Vi An Vui Hanh Phúc

===========================
=====================================
Cuộc biểu tình chống Việt gian tại Dallas đêm 27-11-2010
(Xem chi tiet va hinh anh trong phan link's duoi)
Bản tin ghi nhanh

Tin DFW-tgm: Sau gần một tháng sửa soạn cho cuộc biểu tình chống đại nhạc hội “Tiếu vương hội”, gồm 26 ca sĩ từ trong nước, khoảng 10 ca sĩ trong tổ chức Duyên Dáng VN, qua trình diễn vào đêm 27-11-2010, tại Plano, TexaS... đúng 6:00 giờ chiều, khi bóng đêm đổ xuống, khoảng gần 500 đồng bào tại hai vùng DFW đã kéo tới trước khuôn viên của hí viện Plano Centre để phản đối buổi ĐNH có tính cách tuyên truyền cho NQ-36 này.

Trong đoàn biểu tình rầm rộ hôm nay, như đã loan tin 2 ngày trước, chúng tôi nhận thấy có phái đoàn Nam California, do 2 ông Phan Kỳ Nhơn và Nguyễn Phương Hùng hướng dẫn, có Camemen của 2 đài SBTN-NamCali và VHN tháp tùng để thu hình. Quý vị trong phái đoàn này đã thay nhau cầm lái ngày đêm, nghĩa là vượt hơn 1600 dặm cho kịp giờ tham dự cuộc biểu tình. Phái đoàn thứ hai đến từ thủ phủ Austin của Texas do chiến hữu Đỗ Văn Phúc dẫn đầu, cũng đã chạy như bay cho kịp giờ gặp mặt bà con tại CĐ Dallas, may mà không bị giấy phạt của cảnh sát công lộ. Phái đoàn thứ ba do 2 ông Trương Như Phùng và Nguyễn Tấn Trí cầm đầu, rầm rộ nhất, đến từ Houston với 2 xe van; đặc biệt có Luật sư (trẻ) Teresa Hoàng, người vừa thắng cử Chủ Tịch CĐ trong cuộc bầu cử rất sôi nổi tại Houston, Texas tuần qua.

Trong bóng đêm, thỉnh thoảng có ngọn đèn pha từ các máy quay phim của đài truyền hình SBTN-dfw chĩa vào “Bản doanh” cuộc biểu tình, chúng tôi thấy quý ông bà trong ban tổ chức rất hăng say qua loa phóng thanh như: Phạm Văn Tiền, Hà Thúc Thanh, Lam Ngọc, Nguyễn Kinh Luân... lo điều hợp, giới thiệu các đoàn biểu tình từ xa đến, giới thiệu các nhân sĩ đến từ nhiều nơi khác như ông Nguyễn Tấn Trí, Lại Thế Hùng, giám sát viên (gốc Việt) Andy Nguyễn tại Tarrant County,Texas. Quý vị từ xa đến và địa phương đều được mời lên phát biểu ý kiến về cuộc biểu tình rất sôi nổi như ông Trương Như Phùng, ông Phan Kỳ Nhơn, ông Nguyễn Phương Hùng, ông Đỗ Văn Phúc, cô LS trẻ Teresa Hoang, Lại Thế Hùng, Andy Nguyễn, Bùi Quang Thống...

Trước khí thế bừng bừng bằng những khẩu hiệu “đả đảo Việt gian, đả đảo văn công tuyên vận VC, lên án nhà cầm quyền CSVN bán nước, gởi ca-nô ra hải ngoại để lũng đoạn tập thể người Việt lưu vong hải ngoại; và qua những lời giải thích của tại sao có cuộc biểu tình hôm nay, bằng hai thứ tiếng Việt Mỹ, của ban tổ chức đã được giới truyền thông Việt Mỹ ghi nhận.

Để kịp lên online bản tin nhanh này, chúng tôi xin ghi ra các dữ kiện chính sau sau đây:

1) Cuộc biểu tình tuần hành trước rạp Plano Centre, khoảng gần 500 người tham dự (tính vào lúc cao điểm nhất) sau giờ khai mạc 6:30 PM.

2) Tính vào lúc chấm dứt cuộc biểu tình (8:45 PM), ký giả của TGM vào bên trong hí trường ghi nhận có khoảng 300 người tham dự, trong khi sức chứa của rạp hát khoảng 2500 ghế.

3) Đoàn biểu tình rất trật tự. Trong bóng đêm, gió lạnh nhưng rừng Cờ Vàng, biểu ngữ vẫn trung bay rất đẹp mắt. Trẻ già, trong ánh nến cầm tay lung linh, vẫn kiên trì rảo bước dọc theo con đường phía trước khuôn viên hí viện rất trật tự, ho to những khẩu hiệu chống cộng.

4) Anh chị em trong ban điều hành đoàn biểu tình đã khàn cả cổ họng vì phải hô to những khẩu hiệu đả đảo CSVN để tạo khí thế, trong khi thỉnh thoảng vài ba chiếc xe của khách ham vui ca nhạc tiến vào bãi đậu xe của hí viện.

5) Nhiều cảnh sát và an ninh của Thành phố Plano rất tử tế với đoàn biểu tình. Ngay cả khi người biểu tình vào bên trong rạp hát để xử dụng cầu vệ sinh vẫn được Cảnh sát chỉ dẫn.

6) Ngoài các cơ quan truyền thông Việt ngữ, chúng tôi nhận thấy có ba đài truyền hình Mỹ đến phỏng các nhân vật chủ chốt trong cuộc biểu tình đó là đài số-4, số 5 và số 8.

Tóm lại, cuộc biểu tình tuần hành vào đêm hôm qua, thứ Bảy, 27-11 tại Plano, Texas rất thành công ngoài dự trù của BTC. Xin ghi lại một lời nói rất cần cho chúng ta suy nghĩ, hay nói đúng hơn như một lời bày tỏ cảm tưởng của chính chúng ta trong đêm xuống đường vừa qua. Lời của anh Đoàn Nguyễn, từ Houston, đến tham gia cuộc biểu tình đêm qua.

“Mặc dù, mặc 2,3 lớp áo vẫn không ngăn nổi cơn lạnh thấu da thịt của mùa đông bắc Mỹ. Bà con cô, chú bác, các em vẫn đứng để chờ dưới bóng đêm, giương cao ngọn cờ hô đả đảo Việt gian, mỗi khi có chiếc xe nào của kẻ ham vui, tiếp tay với chế độ áp bức bạo tàn ở Việt Nam chạy ngang qua. Tôi đứng đó, 300, 400 người nối tiếp nhau đứng đó, tại sao? Ai biết nói giùm đi! Có người vừa mới rời nhà thương về cũng ra đứng đó; có kẻ vừa đắc cử Chủ Tịch cộng đồng cũng lên đứng đó. Trời đông giá lạnh sương dày, ai bắt chúng ta ra đứng đó hỡi trời! ĐẢ ĐẢO VIỆT GIAN Việt Cộng. ĐNg

Xin mời quý độc giả theo dõi trên www.thegioimoiOnline.com và báo giấy, Tap chi Thế Giới Mới bài viết đầy đủ chi tiết hơn trong nay mai.

BBT-tgm



Linhk's:
http://www.thegioimoionline.com/tm.php?recordID=1642

Tro ve dau trang

===================================

================================================

Sunday, November 28, 2010

Khủng hoảng gay gắt ở đỉnh cao quyền lực
Bùi Tín


Chưa bao giờ lãnh đạo cao nhất của đảng CS và của chính quyền độc đảng trong nước bị bủa vây bởi những vấn đề gay gắt nan giải như hiện nay.

Đây không phải là mong muốn chủ quan, cũng không phải là bịa đặt có ác ý của một ai. Đây là sự thật rành rành, một thực tế bướng bỉnh không ai che dấu được.

Có thể nói từ khi thành lập đảng CS từ năm 1930 đến nay, chưa có khóa Bộ Chính trị nào của đảng phải đương đầu với một loạt cuộc khủng hoảng gay gắt chồng chất như hiện nay, vào cuối năm 2010 này.

Những khủng hoảng gay gắt hiện nay trên đỉnh cao quyền lực được biểu hiện ra sao?





Thứ nhất là: khủng hoảng chính trị gay gắt biểu hiện ở 3 văn kiện cơ bản của Đại hội XI là Báo cáo chính trị, Cương lĩnh quá độ lên CNXH, Chiến lược 10 năm đều bị bác bỏ toàn bộ, tận gốc, cả về lý luận lẫn thực tiễn. Các quan điểm nòng cốt của Bộ Chính trị: kiên định chủ nghĩa Mác–Lenin, kiên định CNXH, kiên định một đảng duy nhất độc quyền, kiên định kinh tế quốc doanh là chủ đạo… đều bị coi là sai lầm cơ bản, là tai họa hiển nhiên. Để nguyên Cương lĩnh không thể được. Sửa chữa, vá víu không ổn. Mà viết lại thì ê chề mất mặt. Đây là vấn đề nát óc biểu hiện bế tắc trọn vẹn của đảng về lý luận, về đường lối, về trí tuệ. Nó thúc đẩy cuộc khủng hoảng niềm tin đối với đảng lên đến tột đỉnh.

Hai là về tổ chức, Bộ Chính trị hiện nay được xã hội, được đông đảo đảng viên CS đánh giá là «những người lùn» so với tất cả các khóa trước. Về thành tích chống thực dân, về công lao đóng góp cho đất nước, về trình độ kiến thức và giao tiếp quốc tế, về sáng kiến trong lãnh đạo, về lập luận để truyền đạt chính kiến, cả 15 vị hiện nay đều lu mờ, yếu kém, không ai gây được một ấn tượng gì đáng kể ra. Cả 15 vị không ai viết nên một cuốn sách, một bài báo đặc sắc, nếu không phải là những công thức tẻ nhạt, mòn vẹt. Xin nhớ chúng ta cùng thế giới đã bước sang nền văn minh của kiến thức, của truyền thông. So sánh với các nhà lãnh đạo các nước dân chủ châu Á và thế giới, các nhà lãnh đạo nước ta càng «lùn», «lùn tịt». Mà Việt Nam nhân tài thật sự có bao giờ hiếm.

Vậy mà chính những người này vừa đóng cửa họp kín chọn ra những ủy viên Trung ương đảng, những ủy viên Bộ Chính trị sẽ thay thế họ trong khóa XI sắp tới. Họ lựa chọn ra sao? Trước hết họ chọn người trong phe nhóm của họ, theo chính hình ảnh, tiêu chuẩn riêng của họ, theo nhóm lợi ích riêng, không hề đếm xỉa đến đạo đức, tài năng như họ rêu rao. Xin chờ xem. Nông Quốc Tuấn con trai ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh từng bị gạt ra khỏi Trung ương khóa X, Nguyễn Chí Vịnh đầy tai tiếng từng bị chặn lại, hãm lại không cho chức trung tướng và thứ trưởng Quốc phòng hồi năm 2006, nay đã được lặng lẽ lên cấp lên chức, để có thể vào Trung ương khóa XI. Đây là một sự khiêu khích ngang ngược toàn đảng, toàn xã hội.

Về tổ chức nhân sự, hiện vẫn còn chưa ngả ngũ hẳn trong nội bộ Bộ Chính trị về toàn bộ số ủy viên Trung ương mới, về Bộ Chính trị mới. Ai đi? ai ở? ai ra, ai vào? Cho đến cả Tổng bí thư, sẽ là ông Trọng, ông Việt, ông Sang hay ông Dũng? Không ai được đa số khi thăm dò. Ai là Chủ tịch nước mới, là Chủ tịch Quốc hội mới? là Thủ tướng mới? Chả lẽ vào ra vẫn những người ấy?

Ba là - điều này mới thật là hệ trọng - Bộ Chính trị hiện tại vấp phải khủng hoảng toàn diện nặng nề, lâm vào bế tắc giữa lúc xã hội đang thức tỉnh nhanh, công luận không còn im lìm, cam chịu, bị động như xưa nữa. Nền văn minh nghị trường lan vào Quốc hội độc đảng, để nhiều đại biểu dám đàng hoàng chất vấn chính phủ, thủ tướng, hỏi vặn các bộ trưởng, đòi lập Ủy ban điều tra, đòi bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên chính phủ.

Một em gái 16 – nay 17 tuổi – công khai đặt 13 câu hỏi chân thực cho những người lãnh đạo (mời các bạn đọc bài: 15 bác đỉnh cao líu lưỡi trước em gái 16 tuổi, trên VOA).

Nguyên phó Chủ tịch nước, 7 ông tướng quân đội và công an, nguyên ủy viên trung ương, nguyên bộ trưởng, thứ trưởng tham gia ký Kiến nghị lần 2 về bauxite, gia nhập hàng ngũ gần 3 ngàn trí thức, viên chức, đảng viên, thanh niên ngoài đảng, ủng hộ mạng bauxite dẻo dai, mạng đã có 20 triệu lượt người vào đọc. Mạng bị Công an lườm nguýt, liên tục tìm cách ngăn chặn, chống phá không xong, còn vu cáo là bị bọn phản động mua chuộc!

Lại còn cư dân blog, Internet ngày càng đông đảo, ngày càng quan tâm đến tình hình chính trị, theo dõi chặt từng phiên họp Quốc hội, bình luận rôm rả, đưa tin tỷ mỷ, chính xác mọi sự kiện chính trị của đất nước, tự mình nhận làm nhiệm vụ giám sát đảng và nhà nước. Đây là hình ảnh sinh động nhất về xã hội công dân, xã hội dân sự đang vươn dậy như Phù Đổng, được nhà văn hóa Nguyễn Hưng Quốc phong cho là «quyền lực thứ 5». Cũng có tin mừng là mạng Talawas nổi tiếng hấp dẫn, có tác dụng đổi mới tư duy văn hóa- xã hội theo hướng nâng cao dân trí dân chủ, đang chuẩn bị «tái xuất giang hồ» thành một mạng văn hóa – chính trị hẳn hoi, khi mà hoạt động chính trị trong nước trở nên cấp bách nhằm cứu vãn đất nước khỏi cuộc trầm luân toàn diện, đe dọa hủy diệt độc lập dân tộc và hủy diệt luôn nền văn minh và văn hóa truyền thống Minh Triết Việt.

Cuộc thức tỉnh của toàn xã hội đang diễn ra hàng ngày. Các bạn thân của tôi, các nhà báo trẻ trong nước cho biết chỉ trong vòng mấy tháng nay, công luận theo dõi chăm chú, thích thú các sự kiện Vinashin, khai thác bauxite, cho thuê rừng biên giới 30 vạn héc-ta với giá bèo bọt 10 đôla/1 ha, vụ cưỡng dâm tập thể nữ sinh ở Hà Giang, vụ Trần Khải Thanh Thủy bị vu vạ, Vụ Điếu Cày hết hạn tù vẫn bị giam, vụ luật sư Hà Vũ «mua dâm»… và tất cả đã làm cho mọi người hiểu rõ về luật pháp. Thế nào là bị cáo, bị can, là khởi tố, là chánh án, công tố, là luật sư, thế nào là phiên họp công khai, là nguyên tắc chỉ bị xem là có tội sau khi tòa tuyên án, là quyền bảo vệ, quyền kháng cáo, là chứng cớ giả và chứng cớ tin cậy được, thế nào là tranh tụng, là quyền tố cáo, khiếu nại, là bình đẳng giữa mọi công dân. Xưa kia bao giờ cũng phải coi đảng, nhà nước việc gì cũng đúng, cũng công bằng, cũng không chê vào đâu được. Bây giờ mỗi người phải tự suy nghĩ, xét đoán, nhận định, và chỉ cái gì mình nhận ra là đúng mới đáng tin.

Cho nên các cuộc họp Trung ương 13 B, C hay 14, 15 sắp đến để chuẩn bị cuối cùng cho Đại hội XI, và mọi diễn biến của Đại hội XI, từ nội dung các văn kiện trình bày, việc bầu bán các cơ quan lãnh đạo, và tình hình «hậu Đại hội XI» sẽ được chăm chú theo dõi, nhận xét, bình luận. Sẽ có khối chuyện mới mẻ, có khi khó lường trước. Công luận không còn như trước, xã hội thời đổi mới, mở cửa không còn như trước, khi xã hội công dân tự phát lớn phổng lên để tự khẳng định mình, khi giới trí thức tư nhận ra vai trò kẻ sỹ thời nhiễu nhương, khi nữ nhi – hơn một nửa số dân – không cam tâm ngồi trong bếp, khi em gái 16 tuổi dám chất vấn các bác ở trên cao…

Cái họ sợ nhất, lo nhất, ngăn chận bằng mọi cách mà không xong, đó là một thế lực đối lập tuy còn hơi tản mạn đang hình thành trên thực tế, sinh động, nhiều hình nhiều vẻ, thành một thế lực chính nghĩa, có tâm, có tầm, ngang nhiên thách thức thế lực cầm quyền sa sút lung lay, chỉ còn dựa vào ngụy biện, lừa dối, nói lấy được, dựa vào súng ống và nhà tù, mỗi khi đuối lý.

15 vị lãnh đạo cao nhất đang tìm cách cứu đảng nhằm mục đích duy nhất là tìm ra lối thoát riêng cho cá nhân và phe cánh. Nhưng toàn dân, bị họ dồn vào đường cùng sẽ tự tìm ra cách cứu mình, cứu nước. Thế cùng tất biến.

Quan nhất thời. Đảng cũng nhất thời. Chỉ có Nhân dân là vạn đại. Khi đông đảo nhân dân muốn thoát Đại nạn, đó sẽ là ý trời vậy. Có nghĩa là không có thế lực hung hãn nào ngăn nổi ý dân.

=================================
====================================================
Cải táng mồ chôn tập thể quân nhân VNCH tử trận tháng 3, 1975
Saturday, November 27, 2010


Hy sinh trong ngày tàn cuộc chiến
132 bộ hài cốt, 7 thẻ bài, 1 căn cước
Huy Phương/Người Việt


HUẾ (NV) - Vào cuối tháng 3 năm 1975, trong khi quân đội VNCH rút khỏi Vùng I Chiến Thuật, chúng ta đã để lại trên chiến trường, nhất là ở các bãi biển Thuận An, thuộc tỉnh Thừa Thiên hàng nghìn chiến sĩ, tuy thiện chiến, nhưng cuối cùng đành phải buông súng và chết trong tức tưởi.

Lăng trong khu nghĩa trang mới, nơi cải táng 132 hài cốt tử sĩ VNCH thiệt mạng trong những ngày cuối cùng cuộc chiến, tháng 3, 1975, ở Thừa Thiên.

Tại thôn An Dương, thuộc quận Phú Vang Huế, một địa điểm chỉ cách với bờ biển Thuận An 2km về phía Nam, cuối tháng 3 năm 1975, dân chúng sau cuộc chiến đã chôn cất rất nhiều chiến sĩ của chúng ta ngay trên bãi biển. Với sự mong mỏi của đồng bào làng An Dương, nhất là những người đã tự tay chôn cất những người tử nạn, từ bao nhiêu năm nay, là làm sao để cải táng và di dời những hài cốt xiêu lạc này vào một khu đất khô ráo xa bờ biển, vì sau hơn 35 năm, nước biển đã lấn chiếm đất liền và nhất là trận bão lụt năm 1999 đã cuốn một số hài cốt ra khơi.

Cho mãi đến tháng 7 năm nay (2010), với sự trợ giúp tài chánh của đồng bào hải ngoại, Hoa Kỳ và Canada, và được sự đồng ý của chính quyền địa phương, đồng bào thôn An Dương đã có phương tiện di dời hài cốt của các tử sĩ từ ngoài bờ biển vào đất liền với mộ phần khang trang, có bia mộ và nhà lăng.

Trong dịp này đồng bào thôn An Dương chỉ sưu tầm được 132 bộ hài cốt gói trong poncho. Tiếc thay, trong số này chỉ có 7 thẻ bài và một căn cước của những người đã hy sinh. Căn cứ vào số quan, hầu hết các từ sĩ chết ở tuổi 20, 22 vào tháng 3 năm 1975.

Số 132 bộ hài cốt này được cải táng, mỗi hài cốt được đặt vào một quan tài riêng, loại quan tài nhỏ gọi là cách tiểu hay cái quách. Mỗi mộ phần có đánh dấu nhưng chỉ có hài cốt có thẻ bài là có tên.

Trong khu đất mới, 132 mộ phần này được chia làm 4 khu, ở giữa là lăng và bia thờ.

Hiện nay việc cải táng và xây lăng mộ đã hoàn tất tốt đẹp, đồng bào thôn An Dương có ước nguyện là tổ chức một lễ trai đàn chẩn tế cho chư vị âm linh, cô hồn trong cuộc chiến vừa qua, nhất là những tử sĩ đã bỏ mình tại bãi biển An Dương.

Người đã có tấm lòng nhân ái, vận động từ bà con, thân hữu tại hải ngoại để có đủ số tiền $8,000.00 để cải táng và xây lăng mộ là chị Tố Thuận là người sinh sống từ nhỏ tại làng An Dương, nơi có phần mộ tử sĩ và đã chứng kiến qua các biến cố tang tóc vào cuối tháng 3 năm 1075 tại Thuận An. Chị Thuận hiện nay cư ngụ tại Sacramento, là một quả phụ VNCH. Chồng chị là anh Lê Văn Hội, một hạ sĩ quan Quân Cảnh thuộc TTHL Ðống Ða, Huế đã mất tích vào những ngày cuối cuộc chiến (tháng 3 năm 1975) tại bãi biển Ðà Nẵng.


Bia thờ trong khu nghĩa trang nơi vừa cải táng 132 tử sĩ VNCH.



Chúng tôi xin gởi đến đồng bào hải ngoại danh sách 8 tử sĩ đã bỏ mình tại bãi biển Thuận An thuộc thôn An Dương, Huế vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975 với hy vọng rằng có gia đình tìm được con, em, chồng hay bạn bè qua những tấm thẻ bài này.

Danh sách các quân nhân VNCH tử trận tại bãi biển Thuận An - Huế vào tháng 3-1975 (đã tìm thấy thẻ bài).

Căn cứ vào số quân trên thẻ bài, chúng tôi xin ghi lại năm sinh của các tử sĩ để gia đình dễ nhận ra thân nhân của mình.

1. Nguyễn Văn Vân sinh năm 1954 SQ:74/144-016 Loại máu O.

2. Tiếc Dục sinh năm 1955. SQ:75/145-256 Loại máu: A.

3. Trần Ngọc Anh sinh năm 1954 SQ: 74/108- 532 Loại máu: O.

4. Lê Văn Phương sinh năm 1953 SQ: 73/156-263 Loại máu : O.

5. Trần Văn Ðược sinh năm 1954 SQ: 74/164- 292 Loại máu; A+B.

6. Ðinh Văn Kiêm sinh năm 1943 SQ: 63/212-486 Loại máu: O.

7. Ngô Ðắc Hùng sinh năm 1955 SQ: 75/ 206-046 Loại máu O.

8. Nguyễn Văn Dục sinh năm 1937 SQ: 57/000-706 Loại máu: O.

9. Hồ Thành Bảy sinh ngày 20/1/1931 tại Phong Dinh.

Cha: Hồ Văn Miên; Mẹ: Nguyễn Thị Chon.

Ðịa chỉ: Xã Tân Bình, huyện Thủ Ðức, tỉnh Gia Ðịnh.

Hiện nay vì sự an toàn của quý ân nhân hiện nay đang còn ở tại quê nhà, mọi sự liên lạc, xin gọi cho chị Tố Thuận ở số (916) 273-2989 để được hướng dẫn bốc mộ nếu có thân nhân trong số có thẻ bài, cũng như để rõ thêm chi tiết, hay gọi cho Huy Phương (949) 241-0488 là người đang giữ các thẻ bài của quý vị tử sĩ.

Nếu cần biết thêm chi tiết của cuộc cải táng (có chiếu đoạn phim bốc mộ), xin theo dõi buổi buổi nói chuyện của chúng tôi với chị Tố Thuận trong chương trình Huynh Ðệ Chi Binh của đài truyền hình SBTN, vào ngày Thứ Năm 2 tháng 12 vào lúc 1:00PM và Thứ Bảy 4 tháng 12 vào lúc 10:00PM (giờ California).
===================================
=================================================

NGƯỜI CON GÁI ĐÀ NẴNG

MỜI XEM BỘ PHIM TI`NH CẢM TÂM LÝ XÃ HỘI RẤT THỜI SỰ :

Người Con Gái Ðà Nẵng



( Phim dài 1 giờ 20 phút, tóm lược truyện phim phần dưới. Phim nói tiếng Mỹ lẫn tiếng Việt,

Rất hay & ý nghĩa, đáng xem )

[ DVD Người Con Gái Ðà Nẵng của đài truyền hình PBS, một phim tài liệu kết hợp với chuyện kể có tên là Người Con Gái Ðà Nẵng (Daughter From Danang].

BẤM VÀO ÐÂY để xem phim

Phim bắt đầu bằng các tài liệu liên quan đến những chuyến bay di tản trẻ em mồ côi và cả trẻ em có cha mẹ, được gửi đi Hoa Kỳ làm con nuôi vào những ngày cuối tháng 4 nãm 1975.

Một trong các em bé năm 75 nay đã hơn 30 tuổi, lai Mỹ, tình cờ tìm được tin tức bà mẹ và gia đình hiện ở Ðà Nẵng. Sợi dây tình nghĩa mong manh được nối lại.

Lẫn với các phim tài liệu, đạo diễn đã dựng lên một câu chuyện kể lại tâm sự bà mẹ ở Việt Nam và cô con gái lai tại Hoa Kỳ. Cô bé hoàn toàn không biết tiếng Việt, không còn nhân dáng Việt, không biết tin tức về người cha là lính Mỹ một thời ở miền Trung. Cô kết hôn với một sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ đã có hai con. Bà mẹ Việt Nam ở Ðà Nẵng ngày nay kết hợp lại với người chồng Việt Nam cũ, có nhiều con trai và gái. Ðó là anh chị em với cô gái lai đã được gửi đi làm con nuôi tại Hoa Kỳ. Tất cả đều là các nhân vật thật, đóng lại cuộc đời của họ.

Cả nhà chờ đợi ngày về thăm quê của người con gái Ðà Nẵng. Từ hai đầu câu chuyện, nói tiếng Anh, có nhiều đoạn bằng Việt ngữ được phụ đề Anh ngữ, việc gặp gỡ tại Việt Nam đýợc thực hiện. Ðó là chuyến trở về quê hương lần đầu và rất có thể là lần duy nhất.

Hình ảnh gia đình Việt Nam ở Ðà Nẵng là hình ảnh rất thông thường như đa số người Việt hiện nay đã biết. Ðại gia đình nhiều anh em, bần hàn nhưng không quá nghèo đói.

Hoàn cảnh gia đình cô gái lai tại Hoa Kỳ cũng thuộc giới trung lưu, không giàu có gì. Tuy nhiên rõ ràng là hai nếp sống khác biệt. Cô gái lai trở về tuy đã có chuẩn bị học nói những lời thương yêu bằng Việt ngữ: " Con yêu mẹ. Con xin chào mẹ v.v... Những rõ ràng là cô đang ở tâm trạng tò mò và không hề được hướng dẫn tâm tư cho việc đoàn tụ. Ðó có thể là diễn tiến tự nhiên, hoặc là đạo diễn muốn câu chuyện cứ xẩy ra như vậy.

Sau buổi gặp gỡ cảm động tại phi trường, tiếp đến những ngày sống bên nhau tuy ngắn ngủi nhưng rất nhiều gượng gạo. Cô gái không thích ứng được cuộc sống thiếu tiện nghi tối thiểu. Không khí nóng nực, những buổi đi chợ quê mùi thịt cá hôi tanh, trong khi bà mẹ muốn khoe con gái ở Mỹ mới về, nên cứ la cà đây đó. Ngýời con gái Ðà Nẵng chỉ muốn ra khỏi ngôi chợ xa lạ.

Trong câu chuyện kể lại, các anh chị nói về những ngày thõ ấu, vất vả nuôi cô em lai, rồi lo cho bà mẹ mà cô gái đã bỏ lại. Ðã có những lời lẽ kể công và những đòi hỏi ràng buộc trách nhiệm mà cô gái lai ngày nay, đã hoàn toàn trở thành một phụ nữ Mỹ vô tý, không thể cảm nhận được.

Buổi họp mặt gia đình lần cuối trước khi chia tay đã đưa câu chuyện lúc mở đầu trùng phùng cảm động sau 30 năm xa cách, nay trở thành một bi kịch.

Các anh chị em, qua thông dịch viên, đã đặt thẳng vấn đề yêu cầu cô em lai đưa mẹ qua Mỹ để lo cho bà có cuộc sống đã từ lâu mong đợi. Và trong hiện tại thì cô em cần cho biết là mỗi tháng giúp cho gia đình được bao nhiêu. Xin nói cho cả nhà được rõ.

Và người con gái Ðà Nẵng không thể hứa hẹn, không thể tài trợ được, nên đã gần như khóc lóc và bỏ chạy.

Rồi chuyến trở về Hoa Kỳ được tiễn đưa gượng gạo. Hình ảnh đưa người con gái lai về Mỹ khác xa cảnh những đứa trẻ ngày xưa lên máy bay qua Hoa Kỳ. Ðạo diễn tiếp tục cho hai đầu câu chuyện nối tiếp. Người con gái Ðà Nẵng trở về Mỹ, thất vọng với quá khứ và cũng không thể chia sẻ với chồng con. Trong khi đó tại Việt Nam, anh em than thở vì cho là ngôn ngữ bất đồng. Bà mẹ Ðà Nẵng vẫn tiếp tục khóc. Và câu chuyện ngưng lại ở đó. Khán giả sẽ tự tìm ra câu trả lời.

Vâng, khán giả sẽ tìm ra ngay. Câu chuyện đưa đến kết luận là đám bà con nghèo khổ ở Việt Nam chỉ nhìn thấy người ở Mỹ là một cái kho bạc. Họ chỉ nã tiền. Tất cả lời nói tình cảm thương yêu đều là đầu môi chót lưỡi. Ðó không phải là thương yêu thực. Chuyện phim đã đưa ra một thông điệp như thế.

Ðạo diễn của phim truyện "Người Con Gái Ðà Nẵng" cũng đã có cùng một cảm nhận và đã dựng nên câu chuyện theo chiều hướng này để bảo vệ cho luận án. Ðó là một đề tài hấp dẫn.. Và cuốn phim đã được khen ngợi. Nhưng vì đây là phim tài liệu nên chúng ta có thể thắc mắc. Thực sự gia đình cô gái lai này đã có trắng trợn đòi hỏi như vậy hay không. Cô gái có vì vậy mà chán nản cho tình nghĩa gia đình mẹ con anh em ở Việt Nam hay không? Chúng ta không biết.

Duy có điều đáng lưu ý là phần kết luận của cuốn phim. Phần thông điệp chính của cuốn phim có thể làm cho chúng ta bất bình và đau đớn. Phải chăng đây là cuộc sống thực sự của các gia đình Việt Nam tan tác trong chiến tranh và đoàn tụ trong hòa bình.

Chúng ta cần có sự thảo luận.

Hõn 30 nãm qua, tất cả chúng ta đều đã có kinh nghiệm của bản thân, của bà con, bè bạn về cái chuyện kẻ ở người đi. Gửi tiền về Việt Nam cho bà con. Ðem tiền về Việt Nam làm quà. Ðó là chuyện đời thường của dân tỵ nạn. Việc bảo lãnh anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái, bạn bè qua Mỹ. Tại sao lại bảo lãnh? Tại sao lại không? Thậm chí vấn nạn được đem cả vào văn nghệ: "Anh đã lầm đưa em sang đây..." Và có thực sự là những bà con, bạn bè, anh em, cha mẹ của chúng ta nghèo khổ ở Việt Nam không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết xoay xở tìm mọi cách xin tiền?

Trên thực tế thư từ xin tiền, trực tiếp, gián tiếp, xa gần với ngàn vạn lý do: "Cần bung ra làm ăn, cần đóng tiền học, cần mua máy khâu, cần đi mổ ruột." Tất cả đều thường tình. Người ở nhà cầu cứu người đi trước. Ðến lượt người ở nhà ra đi lại nhận thư xin tiền của người còn lại. Bao nhiêu giận dữ tranh cãi đã xảy ra. Chúng ta chẳng xa lạ gì.

Nhưng đó chỉ là bề mặt. Tình cảm sâu xa nếu có, vẫn luôn luôn tiềm ẩn. Ðó là kinh nghiệm mà trải qua 30 năm trong ngành xã hội dân sinh chúng tôi đã ghi nhận được.

Sau đây là các điểm căn bản đưa ra để quý vị cùng suy nghĩ:

- Cô gái Ðà Nẵng nói rằng chuyện đưa bà mẹ qua Mỹ là chuyện không thể thực hiện được. Ðiều đó có thể đúng, bởi vì ở thị trấn hẻo lánh nơi cô ở toàn người Mỹ trắng, đưa bà mẹ quê mùa Ðà Nẵng qua đó làm gì?

Chỉ cần một cô gái Hậu Giang ở San Jose với 200 đồng US cho hồ sơ dịch vụ là đưa bà mẹ Hà Tiên qua Mỹ dễ dàng. Dù rằng cô mới nhập tịch và còn đang học ESL.

Còn chuyện gửi tiền về giúp bà con ở Việt Nam. Mỗi năm bây giờ người Việt gửi về ba tỷ Mỹ kim. Ðó không phải là tình mẫu tử, tình anh em ruột thịt, tình vợ chồng thì chúng ta phải gọi là cái gì? Tại sao người ta làm được mà mình lại không làm được?.

Một bà cụ cao niên ở đường Bascom đã nói với các con rằng: "Mẹ không muốn các con thương mẹ mà để trong lòng. Mẹ cũng không muốn các con thương mẹ rồi chỉ nói ra lời như người Mỹ. Các con thương mẹ thì mỗi tháng đưa tao hai trăm. Ðứa nào thương nhiều hơn thì tùy ý. Tao góp tiền dành dụm gửi cho hai đứa ở nhà." Bà cụ nói tiếp: "Tôi làm thế là để anh chị em nó phải đùm bọc lẫn nhau. Tình nghĩa nói mồm, thì ăn thua gì. Chính phủ có nói gì thương yêu ruột thịt mà mỗi tháng còn phát cho tám trăm." Tao không cần hoa trắng hoa đỏ cho ngày của Mẹ. Cứ đưa tao tiền mặt".

Và thước đo tình nghĩa tỷ lệ thuận với việc gửi quà, gửi tiền và mở hồ sõ đoàn tụ.

Chẳng cần làm thống kê, chúng ta cũng biết giới bình dân gửi quà, gửi tiền và mở hồ sõ đoàn tụ mạnh hơn giới trí thức. Càng học giỏi, càng tài cao, càng đắn đo. Thiếu gì ông giáo sư nghe vợ nói gần xa đành phải im lặng giữ chữ hiếu ở trong lòng. Ðể bà mẹ già chờ mong trong nhà dưỡng lão Thị Nghè. Trong khi đó anh chồng thợ sơn, để nhẹ cô vợ lèo nhèo hai cái bạt tai, rồi đi gửi cho ông bố ở Hóc Môn dứt khoát năm trăm để ông cụ chạy giấy xuất cảnh.

Ðợt di tản 75, tuy cũng có sự cố gắng nhưng nói chung hoạt động tình nghĩa hướng về quê nhà rất yếu.

Phải đến khi cánh thuyền nhân ra đi mới có sứ mạng rõ ràng. "Con ra đi một là con nuôi má, hai là con nuôi cá." Và biết bao phen, vượt biên bị bể nãm lần bảy lượt đi tù thì lại nhờ má nuôi con.

Bao nhiêu dân di tản nghèo, một chữ bẻ đôi không có, làm thật, làm chui. Welfare khai đúng, khai sai, chấp hết. Mỗi tháng là một thùng đồ. Sau này mỗi tháng đều gửi tiền chui. Những đồng tiền đầy mồ hôi và nước mắt tủi nhục đã mở thêm đường cho các con thuyền ra biển Ðông, cho các chuyến vượt biên đường bộ qua Cam Bốt.

Biết bao nhiêu tiền cho đủ để người Việt trở thành người Việt gốc Hoa, ra đi có công an địa phương dẫn đường, công an biên phòng hộ tống.

Rồi tiền gửi về nhà để dựng vợ gả chồng, làm mồ, làm mả, xây nhà, mua ruộng.

Có ông già cải tạo đã không chịu đi, còn bạo gan điện qua là bây giờ cánh của ông không cần phục quốc. Ông nói các con gửi tiền về để ông mua tất cả. Cộng sản nó bán lại gần hết miền Nam rồi.

Các cơ sở dịch vụ, gửi tiền mở ra khắp các thương xá Việt Nam tại Hoa Kỳ. Hoạt động của họ là thước đo tình nghĩa của cộng đồng. Họ càng phát đạt là tình quê hưõng càng rạt rào. Người con gái Ðà Nẵng không thể hiểu được cô phải có nghĩa vụ gửi tiền về Việt Nam vì cô không đọc được báo Việt ngữ và không nghe được radio Sài Gòn ở San Jose.

Nếu không thực sự nhường cơm sẻ áo thì lời lẽ thương yêu đầu môi chót lưỡi kiểu khách sáo Hoa Kỳ e rằng không có ý nghĩa.

Trong cộng đồng của chúng ta cũng có rất nhiều ông bà học rộng tài cao. Nhưng thực sự hình như các bậc trí thức chuyên gia rất ít khi là khách hàng của các cõ sở dịch vụ Việt Nam. Họ không thích đóng hụi chết cho cái bát hụi hạnh phúc mà mình đã hốt trọn một đời.

Chúng ta khó có thể hình dung các tiến sĩ, bác học, luật gia, nhân sĩ, chính khách của cộng đồng lại là người gửi tiền hàng tháng về cho thân quyến ở Việt Nam.

Khi chúng ta hội nhập thành công, chìm sâu vào xã hội tiền phong của nước Mỹ, có vẻ như chút tình nghĩa lẩm cẩm đã nhẹ nhàng hơn. Và ta có quyền nghĩ rằng mình đi làm đã phải đóng thuế. Rồi ra đã có Welfare của xã hội và EDD của Sở Thất Nghiệp lo cho anh em bà con. Phần bà mẹ già thì đã có Nursing Home.

Trong cái nghề nghiệp xã hội hõn 30 nãm. Chúng tôi đã gặp rất nhiều gia đình Việt Nam qua trước tiến bộ vượt bực. Có nhà sản xuất đến 4 bác sĩ y khoa. Hai con là khoa trưởng đại học ở Úc và Tân Tây Lan. Hai con làm cho các y viện danh tiếng ở Chicago và Boston. Giàu sang và danh vọng chẳng ai bì. Mỗi năm từ Thankgiving đến Christmas, các cháu bận rộn vô cùng. Nên Xuân này con lại không về. Hai cụ ngồi bên nhau xem tấm ảnh màu rực rỡ của con cháu danh tiếng bốn phương trời.

Trong khi đó, cái đám mới qua ở nhà bên cạnh. Cứ vài tháng lại đón người đoàn tụ. Nghề nghiệp thì đủ trăm thứ linh tinh. Từ Assembler đến bỏ báo. Chồng cắt cỏ, vợ may thuê. Mà sao đám này ăn nhậu tối ngày. Suốt bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Xe cộ đậu ngang dọc trên cả bãi cỏ. Trẻ con ở đâu ra mà nhiều thế.

Bà cụ hàng xóm, mẹ của 4 ông bác sĩ chỉ muốn ôm một đứa vào lòng. Hạnh phúc bỗng thật gần mà cũng thật xa. Uớc chi một trong các đứa con của hai cụ, học hành dở dang về làm điện tử ở San Jose để đẻ cho ông bà một đứa cháu tóc đen nói tiếng Việt như máy. Cũng như những đứa trẻ nhà bên cạnh mà thôi. Như vậy là ngày của Mẹ nãm nay nhà ta lại chẳng có đứa nào dẫn cháu về chơi. Sao mà cái đám Mỹ nó làm gì mà quá ồn ào như vậy?.




" º°¨(¯`'.¸(¯`'.¸ HOATRINHNU ::¸.'´¯)¸.'´¯)¨°º"
nguon:From: Sung Truong- CoHàngXóm
===============================
================================================

Ðộc tài là tai họa lớn nhất
Ngô Nhân Dụng

Bắc Hàn mới bắn trọng pháo sang một tiền đồn của Nam Hàn trên hòn đảo Yeonpyeong phía dưới vùng phi quân sự, làm hai binh sĩ miền Nam thiệt mạng. Hành động khiêu khích này chắc sẽ không gây lại một cuộc chiến tranh mới trên bán đảo Triều Tiên, đã ngưng từ năm 1953.

Cũng như hồi đầu năm nay, Bắc Hàn đã đánh chìm chiến hạm Cheonan của hải quân miền Nam, lần nào chính quyền Bình Nhưỡng đoán trước Hán Thành sẽ không phản ứng mạnh cho nên lâu lâu lại đánh trộm một lần. Chết người, nhưng họ đâu có quan tâm đến mạng con người?

Tại sao Kim Chính Nhật lại có những hành động khiêu khích mạo hiểm như vậy? Lỡ chiến tranh tái phát thì sao? Cả hai vụ gây hấn trên đều có mục đích, vì lý do nội bộ của chính quyền cộng sản miền Bắc. Chủ tịch Bắc Hàn đang bệnh nặng, không biết lúc nào sẽ chết. Ông muốn nâng cậu con trai út Kim Vĩnh Ân lên để nay mai nối ngôi vua mà ông bố đã được ông nội truyền cho. Nhưng cậu trẻ quá, sợ bá quan trong triều không phục. Phải cho cậu thi hành mấy công việc gây sôi nổi khắp thế giới, rồi để cậu điều khiển triều đình trong công tác ứng phó. Gây ra hai vụ giết người, để cho Kim Vĩnh Ân nhân dịp này đứng ra kiểm điểm thái độ, hành vi các tướng lãnh một cách chặt chẽ hơn, chuẩn bị cho cậu nắm đầu quân đội. Cậu Út đã được phong lên làm đại tướng và nhậm chức phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương Ðảng. Một chính quyền cộng sản độc tài có thể gây ra những biến cố làm thế giới lo sợ, thị trường chứng khoán tụt xuống, chỉ vì ông chủ tịch nhà nước cần củng cố địa vị của cậu quý tử!

Nhưng tại sao chính phủ Nam Hàn không phản ứng mạnh mẽ hơn những lời tố cáo trước dư luận? Bởi vì Nam Hàn, ngược lại, là một nước dân chủ. Chính quyền một nước tự do dân chủ sẽ phải lắng nghe ý kiến dân chúng. Các nhà lãnh đạo Nam Hàn biết là dân chúng không ai thích chiến tranh. Ai muốn chiến tranh tái diễn để bao tài sản tích tụ được sau nửa thế kỷ xây dựng kinh tế bị phá tan tành? Ai muốn chịu đựng cảnh hàng triệu dân Bắc Hàn chạy xuống miền Nam tị nạn khi chính quyền Bình Nhưỡng sụp đổ? Thà rằng một chính quyền phải nhịn nhục trước một vụ gây hấn nhỏ còn hơn là để cho toàn dân chịu lầm than.

Cái khác nhau giữa dân chủ và độc tài là như thế.

Nhưng trên đây là chuyện thời chiến tranh, hai miền Nam Bắc Cao Ly trên nguyên tắc vẫn còn trong tình trạng lâm chiến vì sau khi ngưng tiếng súng vẫn chưa có một hiệp ước nào thiết lập hòa bình.

Ngay trong tình trạng bình thời, chúng ta cũng có thể thấy các chế độ dân chủ và độc tài hành xử khác nhau trên nhiều phương diện. Thí dụ như khi đối phó với các tai họa, do con người gây ra hay những thiên tai. Các chính quyền dân chủ thế nào cũng lo trước cho dân dễ tránh tai họa, và lo sửa chữa các chính sách để phòng ngừa tai họa đến sau. Vì họ sợ nếu sơ suất sẽ rất dễ bị mất phiếu trong cuộc bầu cử sắp tới. Thế nào trước khi bỏ phiếu người dân cũng biết là các “cụ bên trên” có lo việc đề phòng tai họa cho đất nước hay không. Thế nào dân cũng biết các cụ có làm gì hay không để sửa đổi các điều sơ suất đã mắc phải. Tại sao dân biết? Vì có báo chí tự do, ai cũng có quyền phát biểu, không giấu diếm được.

Còn những chế độ độc tài thì khác. Thường họ kêu la rất lớn khi tai họa xẩy ra (để xin thế giới cứu trợ), nhưng sau đó họ rất mau quên, dần dà quên luôn, đâu lại vào đó! Ký sau có tai họa, cả thế giới lại lo cứu trợ! Những vua chúa độc tài không cần biết dân nghĩ gì! Dân đang khen họ hay là đang chửi, cũng không ảnh hưởng gì đến ngôi vị họ đang ngồi cả. Vì dân đâu có được tự do bỏ phiếu bầu thủ tướng hay tổng bí thư!

Chỉ cần nhìn vào cảnh tượng khi tai họa xẩy ra, chúng ta biết chính quyền loại lo cho dân chúng nhiều hơn. Hãy nói chuyện thiên tai, tai họa do Trời sinh; vì có thể giả thiết rằng ông Trời không có phân biệt chế độ tự do hay độc tài khi ông gây ra bão lụt hoặc động đất!

Tháng 8 năm 2007, trận bão Dean, cấp 5, thổi vào vùng bán đảo Yucatan, Mexico bên bờ Ðại Tây Dương, với tốc độ từ 200 đến 250 cây số một giờ. Trận bão biển này được đặt tên “El Gigante,” (Ông Khổng Lồ) trước đó đã làm 12 người chết khi đi qua các hòn đảo vùng Caribbean! Cuối cùng, tại Yucatan thiệt hại về tài sản lên tới 400 triệu đô la Mỹ nhưng chính quyền cho biết không một người dân nào bị thiệt mạng.

Gần một năm sau, vào tháng 5, 2008, một trận bão cấp 5 tương tự đã kéo vào nước Miến Ðiện (Myanmar). Bão được đặt tên là Nargis thổi từ Vịnh Bengal vào vùng châu thổ sông Irrawaddy phía Nam Miến Ðiện với tốc độ chưa tới 200 km một giờ, cuối cùng đã làm cho gần 200,000 người dân Miến thiệt mạng.

Nhiều người sẽ trách ông Trời thiên vị, thương dân Mexico mà không yêu dân Miến Ðiện. Nhưng nếu nhìn cho kỹ, hiểu cho sâu, chúng ta sẽ thấy thủ phạm gây ra tai họa của dân Miến là con người, chứ không thể đổ hết tội cho Trời.

Ngay khi nghe tin bão, tổng thống Mexico, ông Felipe Calderón bỏ ngang một cuộc họp với Tổng Thống Mỹ Gorges W. Bush và Thủ Tướng Canada Stephen Harper tại tại Quebec để bay về nước. Cảnh sát được điều động tới 100 ngôi làng để “xua đuổi” dân di tản tránh bão, vì nhiều người không muốn đi; những người khác lo ngăn ngừa nạn cướp bóc, hôi của nhà cửa bị đổ hay khi dân chạy lánh nạn. Công ty dầu lửa quốc gia Petroleos Mexicanos đã đóng cửa tất cả các giàn khoan dầu ở ngoài khơi và đưa tất cả các nhân viên cùng công nhân vào đất liền tị nạn trước khi bão đồ tới. Tất nhiên, các du khách ở Cancun là những người được di tản sớm nhất, hy vọng sẽ có ngày họ trở lại!

Tại sao trận bão tấn công Miến Ðiện lại làm chết nhiều người như vậy? Một lý do chính là người dân không chuẩn bị phòng chống bão, người ta nói cả 500 năm mới có một cơn bão lớn như vậy. Nhưng nguyên nhân chính là do chính quyền Miến Ðiện không quan tâm đến tình trạng dân chúng sống ra sao, không thông báo những tai họa sắp đến để hướng dẫn dân chúng đề phòng. Chính quyền quân phiệt Miến tự họ bầu lẫn nhau, cũng không cần dân chúng bỏ phiếu cho họ.

Tai họa lớn không phải là mưa bão mà là nước lụt sau cơn mưa. Ở vùng đồng bằng sông Irrawaddy người dân đã phá rừng và bỏ những đồn điền trồng xoài trong mấy chục năm qua, thay vào đó là những thửa ruộng trồng lúa và nuôi tôm. Chính họ đã phá bỏ những “con đê tự nhiên” ngăn nước lũ tràn về, để cho khi gặp bão thì chạy không kịp nữa, giống như nạn phá rừng ở miền Trung nước ta.

Hầu hết dân chúng trong vùng bị bão không hề biết là tai họa sắp xẩy ra. Không có viên chức nhà nước nào đi báo động với dân. Khi bão sắp đập vào, không cai lo di tản dân đi xa những vùng nguy hiểm, mặc dù cả thế giới có thể trông thấy trước cơn bão đang hướng về phía nào, với tốc độ bao nhiêu.

Chúng ta đang sống trong một thời đại có vệ tinh nhân tạo chụp hình ảnh, thu lượm tin tức, dữ kiện khí tượng từng phút một để cả thế giới sử dụng khi cần theo dõi các trận bão. Chính quyền mỗi nước phải quyết định xem có đầu tư vào việc sử dụng phương tiện đó hay không. Trận bão Nargis này đe dọa cả Ấn Ðộ và Bangladesh. Khác với hai nước kia, Miến Ðiện không có một hệ thống radar để theo dõi và tiên đoán hướng bão sẽ đi tới.

Tại Ấn Ðộ, sáu đài quan sát thuộc sở khí tượng đã loan tin sắp có bão từ 10 ngày trước, liên tiếp suốt từ 27 tháng 4. Nhưng báo, đài nước Miến Ðiện, hoàn toàn do tập đoàn thống trị kiểm soát, chỉ loan tin bão 2 ngày trước khi bão ập vào, mà không phải người dân nào cũng để ý. Tại Bangladesh, có hệ thống các còi hú, có những đài dựng lên làm nơi cho dân thấy mà chạy tới trú ẩn, nhà nước phát trước những bản đồ chỉ đường chạy lánh nạn khi cần. Nhờ thế nên trận bão Sidr năm trước đó chỉ có 3,000 người Bangal thiệt mạng. Nếu Miến Ðiện cũng có một hệ thống như vậy, thì không đến nỗi chất tới 200,000 người! Các nhà quan sát quốc tế gọi đó là “những cái chết không cần phải xẩy ra.”

Những câu chuyện bão lụt trên đây xẩy ra ở Mexico, Myanmar, Ấn Ðộ, Bangladesh, cho thấy tai họa thiên nhiên gây thảm khốc cho con người nhiều nhất ở những nước mà người dân phải sống dưới những chế độ độc tài. Khi những người cai trị không phải do dân bầu lên mà chỉ do trong đảng cầm quyền họ suy cử, bầu bán lẫn nhau mà thôi, thì họ không có “phản ứng tự nhiên” là lo trước các tai họa đe dọa đời sống người dân.

Việt Nam hiện đang sống dưới một chế độ như vậy. Hiện nay trong nội bộ Ðảng Cộng Sản đang diễn ra một cuộc tranh chấp gay go giữa những người muốn sang năm lên thay thế Nông Ðức Mạnh làm tổng bí thư, có thể kiêm luôn chức chủ tịch nước! Các ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, vân vân, dùng đủ các thủ đoạn để bôi nhọ, phá đám nhau. Có ai phải trình bày một “chương trình tranh cử” cho dân Việt Nam thẩm lượng và lựa chọn hay không? Không cần. Xưa nay vẫn như vậy. Chính vì thế cuộc “tranh cử nội bộ” này càng ngày càng lộ ra những cảnh thật là nhơ nhuốc.

Trong khi đó, lũ lụt vẫn mỗi năm đổ xuống miền Trung Việt Nam, năm nào cũng chết người như năm nào. Dân đã quen rồi, năm ngoái chết 100 người, năm nay chết 50, những con số đó nghe mãi trở thành vô cảm. Có ai lo lắng đến mối lo của người dân hay không? Có ai nghiên cứu thiết lập một hệ thống báo động cho dân không? Ai đã cho phép phá rừng bừa bãi suốt từ năm 1975 đến nay để cho lũ lụt tràn về không gì ngăn cản?

Bờ biển miền Trung là nơi quá xa xôi đối với “các cụ!” Ngay tại thủ đô Hà Nội năm 2008 mưa lụt cũng đã giết chết 18 người, trong số 49 người chết ở cả các nơi khác. Từ hồi đó đến nay dân Hà Nội đã có được một hệ thống bảo vệ chống lụt tốt hơn hay chưa? Nhưng tại Sài Gòn, thì đầu tháng 11 vừa rồi lại ngập lụt nữa! Một lý do cũng vì nhà nước lì ra không cử động. Ông Nguyễn An Niên, chủ tịch Hội Khoa học Thủy Lợi thành phố nói với nhà báo rằng từ năm 2008 đã có một dự án phòng chống lụt, ngân khoản 11,500 tỷ đồng đã được chấp thuận, nhưng chưa thấy ai đem thi hành. Ông Niên không biết bao giờ nó mới được đem ra làm, nhưng sau hai năm thì tổng số chi phí đã tăng gấp đôi rồi. Không biết để vài năm nữa sẽ có tiền để thực hiện hay không! Nhiều con kinh đáng lẽ trở thành đường thoát nước thì đã bị “quy hoạch” cho lấp đi cho giới đầu tư xây cất. Riêng trong Quận II đã có 30 mẫu (ha) đất sau khi lấp bằng mấy con kinh.

Nhưng không phải nhà nước cứ đem các kế hoạch phòng chống lụt ra làm là dân đã bớt khổ. Tại một con đường quận 7, sau khi dự án phòng chống lụt hoàn tất, hàng ngàn gia đình bị lụt đe dọa, vì ngôi nhà họ ở thấp hơn con đường mới làm, thấp từ nửa mét đến một mét! Cứ mưa đến là nhà bị lụt ngay, không cần đợi! Các nhà thầu làm dự án nào, cho công việc gì thì chỉ biết công việc trong dự án của họ thôi, không chịu trách nhiệm về chuyện khác! Nếu họ xây một khu gia cư mới, họ sẽ lo đào cống rãnh đầy đủ. Nhưng việc nối đường cống mới này vào hệ thống ống cống cũ không phải việc của họ? Có nhà thầu muốn cho “công trình” của mình đẹp mắt, còn đem lấp luôn những ống cống cũ xấu xí đi. Nếu bị mưa thì nước nó ùn đi đâu “kệ mẹ nó!”

Cuối cùng thì đó là trách nhiệm của ai?

Ðó là trách nhiệm của những ông đang chửi nhau ở Hà Nội. Ông này tố ông kia bao che đàn em ăn cắp, làm công quỹ mất mấy tỉ Mỹ kim. Ông kia bèn chỉ mặt ông này kể tội đã từng sách nhiễu tình dục cấp dưới, lại nuôi mafia, tư bản đỏ. Nhưng trong cuộc đấm đá này không ông nào tự mình ra mặt cả, toàn dùng thủ đoạn ném đá giấu tay!

Thử hỏi người dân Việt Nam, rằng mấy ông ấy có ai lo về chuyện lũ lụt hay không? Chắc các ông ấy sẽ bảo đó không phải là việc của họ! Xin đồng bào thân mến hãy đi hỏi các đồng chí bên Miến Ðiện!

Tai họa của các chế độ độc tài thì kể mãi không hết!

========================================
==============================================

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================