VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Sunday, October 25, 2009

Hương Saigon


Kính thưa qúi vị,
Có người cho rằng tác giả Lữ Giang "nói có sách và mách có chứng" và tin những gì ông ấy viết. Thậm chí có người cũng cho rằng khó ai có thể bẻ gảy đuợc lý luận của Lữ Giang (cũng như của Trần Chung Ngoc). Điều nầy rất dể hiểu vì cả hai tác giả nầy luôn trích dẩn sách vở và tài liệu trong các bài viết của họ. Tuy nhiên, nếu đọc kỷ, thì hai tác giả nầy có một đặc điểm chung là viết theo định kiến và kết luận theo định hướng.Một điểm quan trọng mà độc giả cần lưu ý là "nói có sách và mách có chứng" không phải lúc nào cũng khả tín. Thật vậy, sách có nhiều loại sách . Có những sách viết cùng một đề tài, nhưng diễn tả và kết luận về một sự kiện hoàn toàn trái ngược nhau. Thí dụ, viết về trận đánh "Tết Mậu Thân" ở VN, một tác giả người Quốc Gia diễn tả và kết luận về biến cố nẩy hoàn toàn khác biệt (nếu không nói là hoàn toàn ngược lai) với một tác giả cộng sản. Cũng tương tợ, một nhân chứng thiên cộng sẽ kể lại những sự kiện có lợi cho cộng sản và bất lợi cho VNCH.Do đó, một tác giả viết theo định kiến và kết luận theo định hướng lúc nào cũng tìm được sách vở hoặc tài liệu hay nhân chứng để chứng minh cho kết luận của mình. Thí dụ, khi chống Thiên Chúa Giáo thì Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quan trích những sách "anti-Christian" (hoặc trích lẩn nhau) hay đem những hành động sai trái của môt vài cá nhân trong hàng giáo phẩm để công kích và mạ lỵ cả một đạo giáo. Khi muốn kết luận rằng nhà nước công sản "thành công" trong chính sách kinh tế thì Lữ Giang đem những tin tức báo chí nói về sự "phát triển" (?) của VN mà không đề cập đến những tài liệu nói về cảnh nghèo đói của đại đa số đồng bào ở VN, hay tệ nạn buôn phụ nữ và trẻ em hoặc "xuất khẩu" lao nô ra hải ngoại.Ngoài ra, ngay khi dùng cùng một tài liệu, hai tác giả khác nhau có thể trích dẫn những chi tiếc hợp với định kiến riêng của mình mà không đề cập đến những chi tiết không phù hợp với định kiến ấy.Nói tóm lại, những tác giả viết theo định kiến và kết luận theo định hướng, luôn lý luận và dẫn chứng một chiều, phiến diện và chủ quan. Một điều nguy hiễm là vì đa số độc giả không có thì giờ kiểm lại những gì những tác giả nầy viết, nên đành phải chấp nhận vì không thể phản bác. Chính vì biết rõ điều đó mà các tác giả viết theo định hướng không ngần ngại viết lên những gì mà chính lương tâm của họ (nếu có) khó có thể chấp nhận.Hương SG chưa bao giờ đọc thấy một bài viết trung thực và lý luận sắc bén nào của Lữ Giang, hoặc của Trần chung Ngọc và phe nhóm. Chẳng hạn, đọc phớt qua đoạn đầu của bài "Bịt miệng lịch sử" dưới đây, Hương SG thấy ngay định kiến của Lữ Giang cho rằng "cấp lảnh đạo của VNCH bất tài, yếu kém cả chính trị lẩn quân sự". Hương SG không cần đọc tiếp vẫn biết Lữ Giang kết luận bài viết của ông ta như thế nào.Kính thưa qúi vị,Khi đọc đến câu sau đây của Lữ Giang :"Một số người cho rằng miền Nam mất là do Mỹ bỏ. Nhưng vấn đề được đặt ra là tại sao Mỹ không bỏ Đài Loan hay Đại Hàn mà bỏ VNCH?" Hương SG biết ngay Lữ Giang muốn kết luận điều gì. Lữ giang có một định kiến cho rằng MNVN mất là vì "cấp lảnh đạo của VNCH bất tài". Sau đó Lữ Giang dùng lời của Kissinger để chứng minh. Chắc chắn là nếu nghiên cứu tìm tòi, người ta sẽ tìm thấy các giới chức Mỹ cũng như báo chí Hoa Kỳ có lần cũng từng khen ngợi cấp lảnh đạo của VNCH. Một tiền bối cao tuổi cho Hương biết là có lần báo Times viết một bài dài khen ngợi ông Hoàng Đức Nhã là một trong những vị lảnh đạo trẻ tài ba cuả Đông Nam Á (Hương chưa đọc thấy bài báo nầy, hy vọng qúi vị tiền bối còn nhớ và có giờ tra cứu dùm).Dù sao đi nữa, Lữ Giang cho rằng Mỹ bỏ MNVN mà không bỏ Đài Loan hoặc Đại Hàn chỉ vì cấp lảnh đạo VNCH bất tài. Cái kết luận này nghe qua rất phải, nhất là chính Kissinger cũng có nói một số viên chức cao cấp trong chính phủ VNCH là "incompetent". (Nhưng ai nói lời nói của một nhà ngoại giao là chân lý?)Tuy nhiên, nếu Lữ Giang thật sự tin rằng Mỹ bỏ rơi VNCH vì chính quyền VNCH quá dở, thì quả thật Lữ Giang không sâu sắc chút nào, nếu không nói là không biết gì về chính trị thế giới.Người viết sâu sắc, khách quan, luôn cố gắng tìm hiểu sự thật sâu xa, chứ không dùng những bằng chứng hời hợt, thuận tiện cho định kiến của mình để kết luận về nguyên do của một biến cố lịch sử quan trọng như biến cố 1975 ở VN. Tác giả có thể đặt một câu hỏi ngược lại: "Có phải vì muốn bỏ rơi Miền Nam Việt Nam mà các nhà giới chức Hoa kỳ đổ trách nhiệm cho chính phủ VNCH là "incompetent", để kết thúc cuộc chiến đúng theo thời điểm mà họ đã định?" Một ttác giả nghiêm chỉnh, sâu sắc và khách quan cần phải tìm hiểu để trả lời câu hỏi nầy một cách nghiêm chỉnh.Thật vậy, cho rằng vì chính phủ VNCH bất tài mà Mỹ bỏ rơi VNCH là một kết luận nông cạn, không thể tin tưởng đuợc bởi lẽ Hoa kỳ có khả năng thay đổi một chính phủ và đưa một chánh phủ mới dưới quyền điều khiển của những lảnh tụ "competent" hơn (nếu họ muốn). Điều nầy rõ ràng ít hao tốn hơn là "đánh mất" một tiền đồn mà Hoa kỳ đã bỏ biết bao nhiêu tiền bạc và xương máu để bảo vệ trên 20 mươi năm! Do đó, nếu thật tình cần một chánh phủ hữu hiệu hơn, thì Hoa Kỳ đã có thể thực hiện được điều đó (Chẳng lẻ trong 17 triêu người ở MNVM không có ai tài giỏi để đứng làm việc nước).Hơn nửa, bất cứ một tổng thống nào của Hoa Kỳ cũng xác địmh rằng, "Hoa kỳ luôn tận dụng mọi quyền lực của mình để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và nhân dân Hoa kỳ" và gần đây trước Liên Hiệp Quốc TT Obama cũng lập lại lời tuyên bố đó như sau:"My responsibility is to act in the interest of my nation and my people, and I will never apologize for defending those interests" (Nhiệm vụ của tôi là hành đông cho quyền lợi của quốc gia và đồng bào tôi, và tôi sẽ không bao giờ xin lỗi vì bảo vệ quyền lơi đó". (Obama’s Speech to the United Nations General Assembly , 23/9/2009).
Do đó, ta chua bao giờ thấy chính phủ Hoa Kỳ chính thức xin lổi nhân dân MNVN về sự bỏ rơi VNCH vào năm 1975.
Rõ ràng là, giữ hay bỏ MNVN ắt hẳn không phải là ngẩu hứng của một tổng thống Hoa Kỳ. Trách nhiệm của TT Hoa Kỳ là bảo vệ quyền lợi của quốc gia và nhân dân Hoa kỳ. Nếu giúp VNCH đánh chiếm Bắc Việt mà phù hợp với quyền lợi của Hoa Kỳ thì chắc rằng Hoa Kỳ với lực lượng không-hải lực hùng hậu có thể làm việc đó một cách dể dàng ! (Hương SG xin để cho các bậc trưởng trong quân đội khai triển điểm này).
Rủi thay, rõ ràng là để cho VNCH thắng không phù hợp vói quyền lợi của Hoa Kỳ, Tổng thống Mỹ (với sự đồng ý của Quốc Hội) quyết định ngưng viện trợ cho VNCH, rút quân và bỏ rơi MNVN. Trong tình huống nầy không có ai tài giỏi (kể cả “chiến lược gia” Lữ Giang) có thể hướng dẫn MNVN tự vệ hoặc đánh đuổi được cs, trong khi Bắc Việt đươc tiếp tục nhận viện trợ đầy đủ của nga và tàu.
Tóm lại, Lữ Giang là một cây viết xoàng không có đủ khả năng lý luận của một nhà chuyên nghiệp. Khả năng của Lữ Giang chỉ có thể viết “theo đơn đặt hàng” cho những tờ báo lá cải, đọc qua rồi bỏ. Hương Sàigòn bảo đảm là những bài viết về lịch sử của Lữ Giang nếu gởi cho một “academic journal” chẳng hạng như Journal of Asian History. chắc chắn là sẽ không bao giờ đựơc tới tay của một referee.
Chắc chắn khi đọc bài viết này, như lần trước, Lữ Giang sẽ cho rằng Hương SG lý luận theo “cảm tính” rồi chém dè thay vì tiếp tục đối luận một cách thành thật và xây dựng. [ Lữ Giang chưa và sẽ không thể trả lời những vấn đề Hương SG dặt đặt ra trong một bài viết cách đây hơn 1 năm về trước -- kèm theo dưới đây]
Kính chúc qúi vị luôn an khang và đoàn kết chống cộng, trừ tà.

Kính,


Hương Saigon(Trần Thu Hương)============ == Sau đây là bài viết của Hương SG viết năm trước, nhưng không đươc tác giả Lữ Giang hồi đáp, vì cho rằng Hương Sàigòn viết theo "cảm tính"!
Thưa Bác Lữ Giang,Cháu vẫn biết "kính lão đắc thọ" Và cháu kính bác như bậc cha chú vì tuổi bác đã cao . Tuy nhiên, vì bài viết của Bác chứa đựng những phán đoán không công bình đối với cộng đồng người Việt chống cộng ở hải ngoại, cháu xin có đôi lời “thanh nghị” (xin mượn chữ của Nguyễn Công Trứ) cùng Bác.
Bài viết của Bác thiếu tính cách thuyết phục, và không công bình với người Việt chống cộng, yêu tự do. Những nhận xét của Bác về VNCH và người Việt chống cộng hải ngoại có tính cách võ đoán và kém sâu sắc. Chẳng hạn Bác viết:"Người Việt chống cộng thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính: cái gì mình thích đều được coi là đúng và là chân lý, mặc dầu thực tế là sai; còn cái gì mình không thích luôn bị coi là sai hay "không có lợi cho việc chống cộng", mặc dầu đó là sự thật 100% . Vì có lối suy nghĩ nông nổi như thế nên thường quyết định sai và hành động sai ."
Ai là người Việt chống cộng có "suy nghĩ và hành động theo cảm tính" ? Ai ? Và có bao nhiêu người như thế? Bằng chứng? Theo Bác, cái gì là đúng và cái gì là sai ? Cái gì có thật 100% (tuyệt đối !) ?

Những lời của Bác là những võ đoán không hơn không kém ! Thật ra, người đọc nhận thấy Bác viết theo "cảm tính" vì không có một chứng minh cụ thể nào cả .
Ngoài ra, những kết luận của Bác về chiến thuật của Hoa Kỳ đối với VN dựa trên những lời tuyên bố của các nhà ngoại giao thật qúa đơn giản . Nếu lời tuyên bố hoặc bình luận ngoại giao là chân lý thì mọi người đều biết chắc tương lai thế giới sẽ về đâu ! Nhưng ai biết được tương lai hoặc ngày mai sẽ ra sao, đừng nói chi đến 15 hoặc 20 năm tới ? Có ai ngờ đảng cs và nhà nước Nga Sô và Đông Âu đã bị giải thể một cách đột ngột như thế không ?Mỹ vẫn biết "biết người biết ta trăm trận trăm thắng", do đó họ không dể gì tiết lộ chiến thuật và chiến lược của mình qua lời nói ngoại giao đâu Bác!

Về hiện trạng kinh tế VN, Bác viết (theo Reuters):

"Kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng bình quân gần 8% trong suốt thập niên qua, một trong những tỉ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới. Các số liệu do chính phủ Việt Nam phổ biến ngày 25.12.2007 cho thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 8,4% trong năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất mà nước này đạt được so trong vòng 10 năm qua. Doanh thu từ xuất cảng trong năm 2007 đạt khoảng 48 tỉ 300 triệu Mỹ kim. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2008 đã được nhà cầm quyền nước này đặt ra là 9% ."

Bác trích dẫn tin tức báo chí (tin từ Reuters) để chứng minh quan điểm của Bác. Bác nên cẫn thận trong việc này vì báo chí là cơ quan truyền thông đại chúng, thường đăng tải những tin tức cấp thời, thiếu kiểm chứng, không chuyên môn, hoặc thiếu khách quan... Mặt khác, Bác chỉ trích dẫn những tin tức lạc quan mà không đề cập đến những gì tiêu cực của nền kinh tế VN (như lợi tức trung bình theo đầu người – per capita income—của VN đứng vào hàng thấp nhất trên thế giới) . Sự trích dẫn phiến diện nầy các kinh tế gia thường gọi là "thiên lệch do lựa chọn" (selection bias).

Con số không nói dối, nhưng người ta có thể dùng nó để lường gạt!!!!

Chẳng hạn như con số sau đây:

"Kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng bình quân gần 8% trong suốt thập niên qua, một trong những tỉ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới" .

Đây là một con số mù mờ và hầu như vô nghĩa . Nghi vấn đầu tiên của độc giả: Thế nào là "mức tăng trưởng bình quân gần 8%?" Có phải Bác dịch từ Anh ngữ : "an average annual growth rate of almost 8%" (mức phát triển trung bình hằng năm gần 8%) ?

Các nhà nghiên cứu kinh tế không ai hấp tấp tin vào con số đó đâu Bác!

(1) Con số đó được tính dựa trên những con số nào ? Từ con số thống kê của nhà nước csVN ?
(2) Thí dụ: Cho dù con số đó (8%) lấy từ những con số thống kê chính xác đi nữa, người viết nên cho độc gỉả biết 8% nầy được tính như thế nào ??? Lấy con số nào chia cho con số nào để được 8% ? Mức tăng trưởng của cái gì ????

(3) Hơn nữa, cho dù "mức tăng trưởng" được định nghĩa rõ ràng đi nữa , nó có nói lên được cái "siêu việt" của sự phát triển kinh tế VN hay không ??? Lấy một thí dụ cụ thể về mức "tăng trưởng" của lương công nhật của người lao động .

Thí dụ: Năm 2007 người lao động VN lảnh được 2 dollars một ngày, sang năm 2008 lương của họ được tăng lên 4 dollars một ngày. Như thế mức tăng trưởng của lương lao động VN lên đến 100% ((4-2)/2)*100 =100%).
Trong khi đó, thí dụ: Lương lao động tối thiểu cuả Mỹ trong năm 2007 là 8.50 dollars/giờ, mức lương nầy vẫn giữ nguyên trong 2008 . Theo con số nầy, mức "tăng trưởng" của lương lao động của Mỹ là 0% (8.50-8.50/8. 50)*100 = 0%).

Dựa trên thí dụ trên, người ta có thể kểt luận rằng nền kinh tế VN phát triển một cách "siêu việt" hơn nền kinh tế Hoa kỳ đuợc chăng?

Do đó, dù con số không biết nói láo, nhưng người ta có thể lạm dụng nó để lường gạt dư luận quốc tế hay tuyên truyền cổ võ cho một nhà nước naò đó !

Thí dụ trên đây nhắc nhở các người cầm bút nên cẩn thận trong những khẳng định hoặc kết luận của mình. Nếu không, thay vì xây dựng, vô tình (hoặc cố ý) bài viết của họ có tác dụng phá hoại khó tha thứ .Sau cùng, xin Bác cho biết mục đích của bài viết này là gì ? Va` có lợi cho ai ? Hay chỉ đơn thuần là một phô trương kiến thức phổ thông lệch lạc, bừa bãi và kém sâu sắc ?KínhHương SàiGòn PS: Cháu nhận thấy Bác năng viết lách và có nhiều thì giờ . Xin Bác dùng ngòi bút của mình tranh đấu cho chính nghĩa và đồng bào trong nước đang lầm than dưới ách thống trị của độc đảng tham tàn. "Mong lắm thay!"
Lu Giang <
lugiang2003@ yahoo.com> wrote:
Lại chuyện Anh Hai!
Hôm 12.2.2008 vừa qua, ông Jon Aloisi, Phó Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã điều trần trước Tiểu Ban Nhân Quyền của Quốc Hội Hoa Kỳ (Congressional Human Rights Caucus) về tình hình Việt Nam. Ông Beth Hearn có viết một bài tường thuật tóm lược về cuộc điều trần này và đã được Hội Đồng Lãnh Đạo về Nhân Quyền (Leadership Council For Human Rights) cho phổ biến. Trong bài điều trần đó có nhiều đoạn người Việt chống cộng không thích nghe, nhưng nó lại giúp cho chúng ta thấy rõ hơn chính sách Anh Hai đối với Việt Nam.
Nhìn chung, trong thời gian qua, các viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thường biện hộ hay làm giảm nhẹ vấn đề nhân quyền tại Việt Nam và ca tụng những tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được. Vậy Anh Hai đang muón gì? Trước khi trả lời câu hỏi đó, chúng ta nên nhìn lại mình một chút.
PHÓ THÁC CHO ANH HAI!
Tử 1954 đến nay, người Việt chống cộng làm cái gì cũng phải nhờ đến Anh Hai Chống Cộng - còn được gọi là Anh Hai Nhân Quyền - và nhiều khi gần như giao khoán tất cả cho Anh Hai.
Các tài liệu đã được giải mã gần đây cho thấy dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chính Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã khuyến cáo và hướng dẫn chính phủ Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại “một cách hợp pháp” và thành lập một chế độc đảng như Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan để chống Cộng hữu hiệu. Ông Ngô Đình Nhu đã cho lâp một đảng tương tự như thế và lấy tên là Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Bản dự thảo Diều Lệ của đảng này đã được dịch ra tiếng Anh và gởi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ xem trước khi đưa ra áp dụng. Nhưng vì hoàn cảnh của Việt Nam lúc đó đang ở trong cái thế “trên đe dưới búa” và “năm cha bảy mệ”, nên ông Nhu không thể tổ chức một đảng mạnh như Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, thành ra đầu voi đuôi chuột!
Tuy nhiên, sau khi Hà Nội chính thức cho quân xâm nhập vào miền Nam, ngày 9.5.1960, Phó Tổng Thống Johnson đã cầm đầu một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam trong 4 ngày để quan sát tình hình tại chỗ và trong cuộc hội đàm ngày 12.5.1960, Phó Tổng Thống Johnson có đề nghị Tổng Thống Diệm để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam Việt Nam, nhưng Tổng Thống Diệm tỏ ra do dự. Ngày 13.5.1960, Tổng Thống Diệm đã gởi cho Tổng Thống Kennedy một văn thư nói rất khéo: “Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quý đại quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng."
Hoa Kỳ đã không hài lòng về sự từ chối này, nên khi vụ Phật Giáo xẩy ra, Hoa Kỳ đã cho thổi phồng lên rối lấy cớ đó lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Nhiệm. Ít lâu sau, Hoa Kỳ đã đổ quân vào miền Nam.
Dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, theo báo cáo của Mỹ, những người đã được ông Ngô Đình Nhu gọi là “Bọn cóc nhái của CIA và USIS” (Ces grenouillards de CIA et USIS), còn Tổng Thống Johson gọi là “một bọn ác ôn côn đồ” (a goddam bunch of thugs), gần như đã trao khoán miền Nam cho Mỹ về cả quân sự lẫn chính trị. Vì thế, khi Anh Hai thay đổi chính sách, Henry Kissinger đã qua Bắc Kinh bán miền Nam cho Trung Quốc mà nhóm này chẳng biết gì, cứ nhất quyết ôm chặt BỐN KHÔNG, nên miền Nam đã mất!
Ra hải ngoại, người Việt hội nhập vào xã hội Mỹ với khoảng 0,34% dân số Mỹ, nhưng lúc nào cũng muốn lãnh đạo đường lối chống cộng của Anh Hai và một số thường cảnh cáo các viên chức Mỹ “coi chừng bị Cộng Sản lừa”!
Ở những nơi có đông người Việt như ở Orange County chẳng hạn, một thời đã có người chủ trương thành lập một nước Việt Nam Cộng Hòa tự trị thành phố Westminster, do Tổng Thống Bolsa cai trị với luật pháp và công an nhân dân riêng để đợi ngày được Mỹ đưa về lãnh đạo đất nước... Người Việt cũng đã phát động nhiều chiến dịch quang phục quê hương, nhưng tất cả đã thất bại. Tại sao?
Câu trả lời gần như ai cũng biết: Trước hết, đa số người Việt chống cộng không chịu tuân lời dạy của thánh nhân: “Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng.” Họ không biết Anh Hai và địch đang làm gì, cứ vung kiếm như hiệp sĩ mù, nên chẳng trúng vào đâu cả. Lý do thứ hai là đa số vẫn tin tưởng Anh Hai là người bảo vệ dân chủ, nhân quyền trên thế giới và chống cộng. Anh Hai sẽ giúp người Việt quốc gia lật đổ chế độ cộng sản và thành lập một chế độ dân chủ tự do ở Việt Nam. Nhưng sự thật lại không đúng như vậy. Lý do thứ ba là không hình thành được một tổ chức lãnh đạo đấu tranh thống nhất, mạnh ai nấy làm và ai cũng là lãnh tụ! Lý do thứ tư phổ biến nhất: Người Việt chống cộng thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính: cái gì mình thích đều được coi là đúng và là chân lý, mặc dầu thực tế là sai; còn cái gì mình không thích luôn bị coi là sai hay “không có lợi cho việc chống cộng”, mặc dầu đó là sự thật 100%. Vì có lối suy nghĩ nông nổi như thế nên thường quyết định sai và hành động sai.
Vượt qua được bốn cái khuyết điểm trầm trọng đó để tiến lên là chuyện thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, nhân bài thuyết trình của ông Phó Đại Sứ Aloisi, chúng ta nên tìm hiểu chính sách của Anh Hai đối với vấn đề Việt Nam hiện nay để đoán biết vận nước đang đi về đâu.
THEO CÔNG THỨC CHUNG
Theo ông Beth Hearn, ông Jon Aloisi nhìn nhận những vấn đề nhân quyền nghiêm trọng ở Việt Nam, nhưng nhấn mạnh về tốc độ và triển vọng thay đổi bên trong ở Việt Nam.
Nói rõ hơn, bài điều trần của ông Aloisi cũng đã đi theo công thức chung của các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao khi để cập đến vấn đề Việt Nam. Trước hết, ông Aloisi nhìn nhận có những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền tại Việt Nam, nhưng nói đang có những sự tiến bộ. Sau đó, ông đề cao sự phát triển nhanh về kinh tế của Việt Nam với sự tin tưởng nó đang làm thay đổi quốc gia này.
Về nhân quyền, ông lặp lại những điều mà ai cũng biết: Nhiều nhân vật bất đồng chính kiến vẫn tiếp tục bị bắt vì lý do chính trị. Khi một tù chính trị được phóng thích đôi khi do áp lực quốc tế, họ còn phải đối phó với sự hạn chế về di chuyển và hoạt động (bị quản chế).
Sau đó, ông đưa ra một số bằng chứng cho thấy có sự thay đổi về chính trị tại Việt Nam. Trước hết, ông nói về các cuộc biểu tình đòi lại đất của giáo hội Công Giáo đã bị nhà cầm quyền sai áp vài thập niên trước đây. Ông nhấn mạnh: “Tôi lấy làm thích thú khi người Công Giáo cảm thấy họ có thể tổ chức phản đối để đòi lại đất của họ. Đây là một dấu hiệu tích cực về sự tiến triển về sự lãnh đạo mà chỉ có thể xẩy ra do chủ nghĩa tích cực.”
Điều làm ông phấn khởi thứ hai là vai trò Internet trong việc làm thay đổi những suy nghĩ của quần chúng. Ông cho biết, đã có những âm mưu kiểm soát và lèo lái những phát biểu trên diễn đàn này, kể cả việc đòi hỏi phải đăng ký vào việc xử dụng Café Internet, nhưng sự giới hạn này đã bị tràn ngập bởi các cơn sóng thần tin tức thổi vào đất nước trẻ trung và có văn hóa này.
Cuối cùng, ông nói: “Việt Nam có thể ở trong lộ trình của chế độ dân chủ đa đảng trong 15 hay 20 năm tới”!
Về vấn đề tham nhũng, ông nhìn nhận đây là một vấn đề hết thuốc chửa. Ông cho rằng tham nhũng đang lan tràn khắp trong chính phủ. Toàn bộ cấp lãnh đạo đã dính líu đến sự tham nhũng có hệ thống này. Nhiều người muốn đối phó với tình trạng này, nhưng họ không biết làm thế nào bởi vì quá phức tạp.
Về kinh tế, ông nhấn mạnh rằng có một ước muốn mạnh mẽ về sự phát triển kinh tế và một hình ảnh tích cực về cả phương diện quốc nội lẫn quốc tế là đang có sự thúc đẩy về một vài sự phát triển. Theo ông, Việt Nam còn có một khoảng cách đáng kề trên đường đi đến cải cách, nhưng ông tỏ ra lạc quan về tiềm năng của sự tiến bộ.
Để thúc đẩy Việt Nam cải cách về cả phương diện nhân quyền lẫn kinh tế, ông nhấn mạnh đến áp lực quốc tế. Ông nói: “Thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc là một bước lớn. Chúng ta có thể dùng (vai trò) thành viên của họ để giáo dục và thúc đẩy thay đổi.” (We can use their membership to educate and push for change).
.
CÙNG MỘT BÀI CA
Chúng ta thường chỉ thích đọc và phổ biến các lời tố cáo CSVN vi phạm nhân quyền của các chính khách hay tỏ chức nhân quyền quốc tế, nhưng đó chỉ là những áp lực chứ không phải là chính sách. Muốn biết rõ chính sách của Anh Hai, chúng ta phải nghiên cứu những lời phát biểu của các viên chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa và các tổ chức tài trợ quốc tế được Hoa Kỳ yểm trợ hay lèo lái, mặc dầu những lời đó có khi nghe rất chói tai.
1.- Về mặt nhân quyền
Trong một buổi tường trình vào sáng 6.12.2007 tại trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ, ông John Hanford, Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền về Tự Do Tôn Giáo của Bộ Ngoại Giao, cho biết nếu xét về mặt nhân quyền một cách tổng quát thì Việt Nam vẫn còn một số vấn đề, nhưng nếu chỉ xét riêng về mặt tự do tôn giáo, phía chính phủ Hoa Kỳ tin rằng Việt Nam không rơi vào những tiêu chuẩn mà Bộ Luật về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ đã qui định để có thể tiếp tục giữ Việt Nam trong danh sách CPC. Vì lý do đó, Bộ Ngoại Giao mới đề nghị rút tên Việt Nam khỏi danh sách CPC.
Ông nói một số tu sĩ tại Việt Nam đã bị cầm tù vì những hoạt động có liên quan đến chính trị. Họ bị giam giữ bất công và nhân quyền của họ bị vi phạm, và phía chúng tôi vẫn tiếp tục bênh vực cho họ ở cấp bực cao nhất. Nhưng các trường hợp này được coi là tù chính trị thay vì là trường hợp bị bách hại vì tôn giáo...
Ông nói thêm: Từ năm 2005 đến nay, đã có 17 tổ chức tôn giáo thuộc nhiều phái đã được chính phủ Việt Nam công nhận. Vấn đề đăng ký của các tổ chức tôn giáo cũng được nới lỏng, ví dụ chính quyền không còn buộc phải nộp danh sách tín đồ. Ông cho biết, trong chuyến đi Việt Nam năm 2002, ông có đưa ra danh sách 45 người bị giam cầm vì lý do tôn giáo, sau đó có một số người đã được giảm án tù, trong đó có Linh mục Nguyễn Văn Lý; và cho đến tháng 9/2006 thì danh sách đó đã được trả tự do coi như toàn bộ.
Ông Hanford xác nhận chính phủ Mỹ cũng nêu vấn đề một số quan chức địa phương đã đánh đập các tín đồ tôn giáo hoặc buộc các tín đồ này phải bỏ đạo; và phía chính phủ Việt Nam cũng có hứa sẽ có biện pháp với các quan chức địa phương đó.
Nhân dịp này, bà Dân Biểu Loretta Sanchez đã đặt vấn đề là tại sao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn chưa được công nhận và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn còn bị hạn chế trong việc đào tạo các tu sĩ...
Đặc Sứ Hanford xác nhận một số nhà lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn còn bị hạn chế, vì chính phủ Việt Nam xem các vị này là những người hoạt động chính trị, trong khi các Phật tử của giáo hội này vẫn hành đạo một cách bình thường. Về trường hợp đạo tạo các tu sĩ Công Giáo, Đặc Sứ Hanford cho biết trong những năm gần đây, tình hình đã khá hơn
Ngày 12.12.2007, Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam đã ca ngợi Việt Nam trong việc thực thi các cam kết về nhân quyền. Ông John Hendra, điều hợp viên thường trú của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam, nói rằng Việt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn về kinh tế - xã hội, và đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo qua việc phê chuẩn một số các hiệp ước quốc tế then chốt về nhân quyền.
Theo ông, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên phê chuẩn Công Ứớc về việc Loại Bỏ Mọi Hình Thức Kỳ Thị Phụ Nữ và Công Ước về Quyền Trẻ Em, và vừa phê chuẩn những hiệp định quan trọng khác về nhân quyền.
Ông cho biết thêm: Tháng 10 vừa qua, Việt Nam cũng đã ký kết Công Ước Liên Hiệp Quốc về Quyền Của Người Khuyết Tật. Việc thực thi Công Ứớc này sẽ giúp hơn 5 triệu người khuyết tật ở Việt Nam tham gia đầy đủ hơn nữa vào các sinh hoạt xã hội nhờ vào những chính sách thỏa đáng hơn, có nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm công ăn việc làm và được bảo vệ khỏi bị kỳ thị.
Thông cáo của UNDP còn cho biết: Hệ thống Liên Hiệp Quốc sẵn sàng trợ giúp Việt Nam trong việc thực thi các cam kết quốc tế và trong việc thực hiện những nỗ lực để làm cho mọi người Việt Nam được hưởng những quyền hạn đã được ghi rõ trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc tế công bố cách nay gần 60 năm.
2.- Về phát triển kinh tế
Bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 22.11.2007 cho biết Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) loan báo rằng cận ảnh kinh tế của Việt Nam xét ra rất tốt, và đã lên tiếng hoan nghênh những cố gắng của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm ứng phó với nạn lạm phát bằng các biện pháp kìm hãm tiền tệ.
Trong bản lượng định viễn tượng kinh tế được đưa ra hàng năm về Việt Nam, IMF dự kiến nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển ở tỉ lệ từ 8% tới 8,25% trong năm 2007-2008 nhờ nhu cầu gia tăng đồng thời với khối lượng đầu tư và mức tiêu thụ của tư nhân.
Kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng bình quân gần 8% trong suốt thập niên qua, một trong những tỉ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới. Các số liệu do chính phủ Việt Nam phổ biến ngày 25.12.2007 cho thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 8,4% trong năm 2007. Đây là mức tăng trưởng cao nhất mà nước này đạt được so trong vòng 10 năm qua. Doanh thu từ xuất cảng trong năm 2007 đạt khoảng 48 tỉ 300 triệu Mỹ kim. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho năm 2008 đã được nhà cầm quyền nước này đặt ra là 9%.
Phúc trình của IMF ghi nhậm cận ảnh kinh tế Việt Nam vẫn rất tốt; đà phát triển kinh tế vẫn tiếp tục được duy trì, mức độ nghèo đói vẫn giảm trong trung hạn với điều kiện chính phủ phải kịp thời áp dụng các biện pháp đối phó với áp lực do nhu cầu tạo ra.
Theo bản tường thuật ngày 10.12.2007 của hãng thông tấn AFP, ông Ajay Chhibber, Giám Đốc Ngân Hàng Thế Giới (WB) tại Việt Nam, đã nói: Năm 2007 là một năm mà Việt Nam đạt được nhiều thành quả ngoạn mục, với số đầu tư trực tiếp ngoại quốc lên tới mức cao kỷ lục là 16 tỉ Mỹ kim.
Ông cho biết một cuộc thăm dò mới đây của Liên Hiệp Quốc cho thấy rằng các công ty đa quốc xem Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn vào hàng thứ 6 trên thế giới, và các công ty Nhật Bản xem Việt Nam là nơi đầu tư lý tưởng hàng thứ ba xét theo trung hạn.
Tuy nhiên, ông Chhiber cũng cảnh báo rằng giờ đây Việt Nam cần phải duy trì đà tiến này, bằng cách thực thi mọi cam kết đã đưa ra khi xin gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới...
Tin của đài Á Châu Tự Do cho biết Hội Nghị Nhóm Tư Vấn các Nhà Tài Trợ cho Việt Nam đã bế mạc tại Hà Nội ngày 7.12.2007, với lời hứa sẽ tài trợ trên 5,4 tỷ Mỹ kim cho Việt Nam trong năm 2008.
Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB) tiếp tục cam kết Viện Trợ Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance, viết tắt là ODA) cho Việt Nam nhiều nhất, trên 1,3 tỷ Mỹ kim; kế đến là Ngân Hàng Thế Giới (WB), trên 1.1 tỷ Mỹ kim.
Về các nước cấp viện song phương, Nhật Bản tiếp tục dẫn đầu với mức cam kết ODA cũng trên 1,1 tỷ Mỹ kim, trong khi Liên Hiệp Âu Châu (EU) hứa tổng cộng gần 1 tỷ đô. Nếu so với năm 2006, thì mức cam kết của những nhà tài trợ lần này nhiều hơn khoảng 1 tỷ Mỹ kim.

CON ĐƯỜNG CỦA ANH HAI
Chúng ta không tranh luận về các dữ kiện, số liệu và triển vọng mà Hoa Kỳ và các tổ chức quốc đã đưa ra, chúng ta chỉ muốn biết qua những lời tuyên bố nói trên, Hoa Kỳ và các quốc gia Tây phương đang mưu tính gì ở Việt Nam.
Anh Hai quan tâm nhiều đến Việt Nam về cả kinh tế lẫn an ninh.
1.- Về kinh tế
Như chúng ta đã biết, Hoa Kỳ và các quốc gia Tây phương luôn đặt quyền lợi kinh tế lên trên nhân quyền và tự do dân chủ. Vì thế, Hoa Kỳ đã đầu tư vào Trung Quốc trên 150 tỷ Mỹ kim, mặc dầu sự vi phạm nhân quyền và tự do dân chủ tại Trung Quốc vẫn còn rất nghiêm trọng.
Nhiều người tin rằng sở dĩ Hoa Kỳ đã đầu tư lớn vào Trung Quốc vì tại đây có nhân công rẽ và tay nghề cao, có thể sản xuất nhiều loại hàng hóa với giá rẻ rồi bán ngược về Hoa Kỳ và các nước trên thế giới dưới nhãn hiện “Made in China”. Vụ đồ chơi Trung Quốc bị tố nhiểm độc hay không an toàn trong những tháng gần đây đã cho chúng ta thấy các đồ chơi đó đã được làm theo mẫu mã của các hảng ở Mỹ, hay nói rõ hơn, làm theo đơn đặt hàng của Mỹ, nhưng vì có một vài sơ sót về kỷ thuật nên đã gây ra rắc rối.
Tại nhiều nước khác cũng có nhân công rẽ như Thái Lan, Phi Luật Tân, Bangladesk, Đông Timor, các nước Nam Mỹ, các nước Phi Châu, v.v., tại sao Anh Hai không đầu tư vào những nước đó mà lại đầu tư vào Trung Quốc?
Câu trả lời có lẽ cũng rất đơn giản: Tại tình hình ở Trung Quốc ổn định hơn! Một trong những yếu tố quan trọng để quyết định có nên đầu tư tại một quốc gia hay không là tại đó có sự ổn định về chính trị hay không. Đầu tư vào một quốc gia mà thường xẩy ra các diễn biến bất ổn như đình công, biểu tình, bạo động, đảo chánh... thì, nói theo các nhà kinh tế, không khác gì “chùm hai chân nhảy vào bóng tối!” Đầu tư vào tình trạng như thế, mất sạch vốn là chuyện khó tránh khỏi.
Sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển tin tưởng Việt Nam là nước thứ hai có nhân công rẽ và tình hình ổn định, có thể đầu tư được. Tuy nhiên, từ trước đến nay Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển chưa đầu tư nhiều vào Việt Nam nhiều, vì hai lý do chính:
(1) Việt Nam có hệ thống hạ tầng cơ sở như bến tàu, sân bay, giao thông, điện lực, giáo dục... quá nhỏ bé hay thấp kém, không thể đáp ứng nhu cầu về đầu tư lớn được. Hiện nay, các quốc gia phát triển đang giúp Việt Nam canh tân và xây dựng các hệ thống hạ tầng cơ sở mới. Công việc này sẽ kéo dài trong nhiều năm.
(2) Chưa tạo được “một khoảng cách vừa phải” (decent distance) giữa độc tài và dân chủ để có thể hướng Việt Nam đi theo con đường mà các quốc gia phát triển mong muốn.
Các nhà phân tich tin rằng trong một “chế độ xám xập”, ở đó tồn tại 30% dân chủ và 70% độc tài, chế độ đó có thể tồn tại lâu dài được. Trái lại, trong một “chế độ ứng xập”, trơng đó có khoảng 50% độc tài và 50% dân chủ, những bất ồn rất dễ xẩy ra do bất đồng và phản đối liên tục chính sách và biện pháp mà nhà cầm quyền đưa ra, chế độ đó sớm muộn gì rồi cũng sụp đổ.
Trong thời gian qua, Hoa Kỳ và các quốc gia Tây phương đang cố gắng tạo “một khoảng cách vửa phải” giữa dân chủ và độc tài tại Việt Nam, và hình như nay khoảng cách đó đã đạt được. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi nghe bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Condoleeza Rice kêu gọi cả Miền Điện lẫn Bắc Hàn noi gương Việt Nam.
Mới đây, trong cuộc viếng thăm Hà Nội ngày 3.3.2008, Trợ Tý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Christopher Hill lại tuyên bố Bắc Hàn và nhiều nước khác có thể học nhiều bài học quý giá từ Việt Nam. Ông nói: "Tôi không rõ Bắc Triều Tiên có hỏi kinh nghiệm của Việt Nam hay không, nhất là kinh nghiệm phát triển kinh tế. Thế nhưng tôi rất mong họ hỏi câu hỏi đó vì trong 5 năm gần đây Việt Nam đã có những tiến triển thần kỳ."
Chúng ta nhớ lại, hôm 27.11.2007, ông Ibrahim Gambari, Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền của Liên Hiệp Quốc đã thúc giục Việt Nam tiếp tay trong các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị tại Miến Điện!
Phải chăng “mô thức xám xập” (30% dân chủ và 70% độc tài) ở Việt Nam đã được coi là mô thức có thể bảo đảm sự ổn định và chấp nhận được?
2.- Về an ninh trong vùng
Ngoài mục tiêu kinh tế, Hoa Kỳ còn muốn dùng Việt Nam như một ranh giới ngăn chận Trung Cộng tràn xuống Đông Nam Á. Hôm 13.12.2007, Đô đốc Timothy Keating, Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam. Ông Robert Lucius, đại diện hải quân và thủy quân lục chiến của Hoa Kỳ ở Hà Nội đã nói: ''Đây là chuyến viếng thăm nhằm khẳng định mối quan hệ đang phát triển và mong muốn tiếp tục xây dựng quan hệ này trong những năm tới đây.''
Ông Lucius cũng nói Hoa Kỳ mong muốn Việt Nam sớm có vai trò lớn hơn trong hợp tác an ninh trong vùng. Theo ông, chúng ta đang ở thế kỷ 21 và giải quyết mọi việc một cách hòa bình. Xung đột sẽ chỉ làm phức tạp những lợi ích kinh tế mà tất cả các bên đều cùng có thể hưởng từ Biển Đông. Ông tin rằng Việt Nam có đủ khả năng để đảm đương các công việc như tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình hoặc cứu hộ, cứu nạn. Ông nói:
''Chúng tôi rất mong muốn hợp tác cùng Việt Nam để tăng khả năng của họ trong những lĩnh vực này, có thể bước đầu là ở mức khu vực nhưng sau đó có thể ở tầm toàn cầu qua việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc hoặc các đóng góp có ý nghĩa khác.''
.
TÍNH CHUYỆN ĐƯỜNG DÀI
Mặc dầu đưa ra những triển vọng như đã nói trên, nhưng Anh Hai thấy rõ con đường biến đổi Việt Nam khá lâu dài, vì có quá nhiều khó khăn. Phó Đại Sứ Aloisi nói rằng “Việt Nam có thể ở trong lộ trình của chế độ dân chủ đa đảng trong 15 hay 20 năm tới”!, Cựu Đại Sứ Marine cho biết Bộ Giáo Dục và Đào Tạo VN đặt mục tiêu huấn luyện 20.000 tiến sĩ mới từ nay đến năm 2020. Lý tưởng là 10.000 trong số đó sẽ nhận lãnh văn bằng tiến sĩ tại ngoại quốc, ít nhất 2.500 sẽ được huấn luyện tại Hoa Kỳ. Còn ông Tân Đại Sứ Michael Michalak nói: “Hai mươi năm sau, chúng ta sẽ không nói Mỹ đã vào Việt Nam để kiếm tiền, mà chúng ta sẽ nói rằng hơn 75% thành phần Nội Các Việt Nam là những người đã du học Mỹ." Thành ra khi Hoa Kỳ đi tới được mục tiêu ở Việt Nam, thế hệ của chiến tranh Việt Nam, tức thế hệ của người Việt quốc gia chống cộng, sẽ không còn nữa! Hoa Kỳ sẽ xây dựng một thế hệ hoàn toàn mới.
Tú Gàn
2009/10/21 Lu Giang
<
lugiang2003@ yahoo.com>


[
Attachment(s) from Lu Giang included below]
Bịt miệng lịch sử?
Lữ Giang
Sau 30.4.1975 nhiều người Việt ở miền Nam thường nhắc đi nhắc lại câu nói sau đây của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được coi như là một thứ chân lý: "Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm!"
Điều đáng tiếc là khi dạy người khác như vậy, chính ông Thiệu lại không biết “nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” và “Đồng Minh” làm, cứ hành động theo cảm tính và sự suy nghĩ nông cạn của mình, để miền Nam bị mất một cách quá tức tưởi! Ngay cả khi Kissinger qua Trung Quốc “bàn giao” miền Nam cho Mao Trạch Đông, ông cũng không hề “ngửi thấy” được gì hết!
Một số người cho rằng miền Nam mất là do Mỹ bỏ. Nhưng vấn đề được đặt ra là tại sao Mỹ không bỏ Đài Loan hay Đại Hàn mà bỏ VNCH? Nghe đoạn băng ghi lại cuộc nói chuyện giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn Kissinger vào ngày 3.8.1972, chúng ta mới hiểu được các nhà lãnh đạo Mỹ đã nghĩ như thế nào khi quyết định bỏ miền Nam. Tất cả có thể được rút gọn lại trong một chữ mà Kissinger đã dùng: “Incompetence” (Sự bất lực)!
Thật ra, hai chữ “Corruption and Incompetence” đã được người Mỹ dùng khá nhiều trong các bài nhận định về cơ cấu chính quyền miền Nam.
VNCH có một quân đội rất thiện chiến và anh dũng, có tinh thần chống cộng rất cao, được trang bị bằng những võ khí tối tân..., nhưng lại có một cấp lãnh đạo quốc gia quá yếu kém về cả chính trị lẫn quân sự, nên đã để mất miền Nam. Trong loạt bài kéo dài tới đây, chúng tôi sẽ nói rõ từng vụ việc, từ vụ giết Phạm Ngọc Thảo, dùng Huỳnh Văn Trọng nói chuyện với MTGPMN rồi bỏ rơi Huỳnh Văn Trọng khi CIA khám phá ra... Có nhiều người cần biết những sự thật này thì cũng nên cho biết.
Trong bài trước chúng tôi đã đưa ra những tài liệu với nhiều chi tiết chứng minh Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu và Sư Đoàn 5 do ông chỉ huy là lực lượng chính được CIA dùng để lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đưa miền Nam vào những ngày đen tối. Có thể nói, không có Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu và Sư Đoàn 5, CIA không thể tổ chức được cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.
LẤY NÓN CỐI ÚP LỊCH SỬ
Người Việt có câu tục ngữ “Lấy thúng úp voi”, tức cố che giấu một chuyện không thể che giấu được. Ca dao cũng có câu:
Cha đời lấy thúng úp voi,
Úp qua, úp lại cũng lòi cái đuôi.
Mặc dầu vậy, hiện nay có nhiều người còn hành động khôi hài hơn, đó là “lấy nón cối úp lịch sử” hay “lấy nón cối úp sự thật”!
Trong 34 năm qua, thỉnh thoảng Bộ Ngoại Giao và cơ quan CIA của Mỹ đã cho giải mã dần những tài liệu mật liên quan đến cuộc chiến Việt Nam, số tài liệu này hiện nay đã lên đến trên nữa triệu trang. Ngoài ra, các cuộc khảo cứu của các học giả và các sử gia cũng đã khám phá ra rất nhiều sự kiện lịch sử mới liên quan đến cuộc chiến này. Những tài liệu đó đã giúp chúng ta nhìn lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam một cách chính xác hơn.
Tuy nhiên, nhiều người không chịu nghiên cứu, không đọc tài liệu, cứ suy nghĩ và lập luận theo cảm tính và cảm tình cá nhân, bất chấp lịch sử đã thật sự diễn biến như thế nào.
Chúng tôi đã nhiều lần nói rằng cuộc chiến Việt Nam là “những chương bi thảm” đối với cả VNCH lẫn đảng CSVN, vì thế cả hai bên đều rất ghét sự thật lịch sử, và cả hai bên đều chủ trương phải viết lịch sử “theo lề đường bên phải” để che đậy những sai lầm và bảo vệ những huyền thoại đã được tạo ra. Đảng CSVN còn đưa cả huyền thoại vào sách giáo khoa để đánh lừa giới trẻ!
Ngày 24.7.2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg về các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN). Mục đích chính của quyết định này là ngăn chận các nhà nghiên cứu nói lên các quan điểm của mình liên quan đến các vấn đề “nhạy cảm”, bị coi là không phù hợp với quan điểm của chế độ. Quyết định này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15.9.2009.
Điều 2 của quyết định quy định rằng các ý kiến phản biện, "không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ". Điều 4 yêu cầu "rà soát lại các tổ chức KH&CN do cá nhân đã thành lập để hướng dẫn đăng ký lại hoạt động".
Để chống lại quyết định “bịt miệng” này, Viện Nghiên Cứu Phát Triển (Institutes of Development Studies, viết tắt là IDS), đã quyết định “tự giải thể” và một số cá nhân trong tập thể này đã đưa ra những lời phát biểu chống đối quyết định 97.
Hôm 14.10.2009, Văn Phòng Chính Phủ đã họp và Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu xử lý "những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân" thuộc IDS. Văn Phòng này cho rằng Viện ISD đã nhận tiền của nước ngoài và có hoạt động chống đối Nhà nước".
Ở hải ngoại, tuy không có “Đảng lãnh đạo và Nhà Nước quản lý”, không có công an nhân dân... như ở trong nước, nhưng một số người, nhất là nhóm tự coi mình là “công an nhân dân chống cộng”, lúc nào cũng đòi hỏi các nhà chính trị và các cơ quan truyền thông Việt ngữ phải “đi theo lề đường bên phải”, không được nói hay viết những gì bị họ coi là “không có lợi cho việc chống cộng” hay “không có lợi cho VNCH”..., mặc dầu đó là những sự thật không thể chối cãi được. Nói một cách khác, họ muốn áp dụng tại hải ngoại một chế độ rập khuôn như chế độ toàn trị ở trong nước, một chế độ mà gần như ngày nào họ cũng đưa lên Internet hàng ngàn bài để chửi rủa đủ 36 kiểu!
Ở trong nước, những ai bất tuân, sẽ bị nhà cầm quyền dùng bạo lực để “bịt miệng”. Đây là một hình thức răn đe, ngăn cản không cho các nhà đấu tranh vượt ra khỏi “lề đường bên phải”. Tuy nhiên, bất chấp những sự răn đe, nhiều nhà đấu tranh vẫn tiếp tục nói lên lẽ phải, nói lên sự thật, bênh vực cho công lý, tranh đấu cho tự do dân chủ.
Ở hải ngoại, nhóm “công an nhân dân chống cộng” không thể xử dụng bạo lực như nhà cầm quyền CSVN, vì đây là nước Mỹ chứ không phải VNCH nối dài. Họ cũng không đủ khả năng để phản biện theo phương pháp khoa học. Thường họ chỉ nêu lên những phản biện vớ vẫn như: Tài liệu do CIA giải mã hay tác giả (như Liên Thành) công bố là tài liệu giả, đáng nghi ngờ... Tại sao nó có được những tài liệu đó? Không lẻ khi ra khỏi nước công an để cho nó mang đi hay sao? Làm sao nó có thể nhớ đúng từng chi tiết như vậy, v.v. Nhưng biện pháp phản biện cố hữu vẫn là NÓN CỐI! Cứ cãi không lại là tung NÓN CỐI.
Nhìn lại, chúng ta thấy những nỗ lực của nhà cầm quyền CSVN cũng như NHÓM SỢ SỰ THẬT ở hải ngoại đều là những nỗ lực vô vọng. Tài liệu lịch sử được tàng trử trong các thư viện và văn khố trên khắp thế giới, dù có nhập cảng hàng ngàn tấn nón cối của Việt Cộng còn lại, cũng không thể phủ lấp được. Vã lại, những người muốn che giấu sự thật cần biết rằng khoảng 10 hay 20 năm nữa, khi thế hệ của chiến tranh Việt Nam qua đi, BẠO LỰC và NÓN CỐI sẽ không còn, lúc đó ai sẽ nối tiếp “sự nghiệp” bịt miệng lịch sử của họ?
Ngày nay, hệ thống mạng lưới toàn cầu đã đi tới được những nơi hẻo lánh nhất của trái đất. Do đó, tin tức không còn bị thu nhỏ ở từng địa phương. Một bài được phóng lên từ Loan Lý, Thừa Thiên, hay từ Westminster, California, chỉ vài phút sau đã đến được với cộng đồng người Việt và cơ quan truyền thông Việt ngữ trên khắp thế giới. Công an nhân dân ở Lăng Cô hay công an chống cộng ở Bolsa không còn có thể bịt miệng được.
Émile François Zola nói: “La vérité est en marche, rien ne peut plus l’arrêter”. Sự thật đang tiến bước, không có gì có thể làm cho nó ngưng lại được.
Còn đại thi hào Johann Wolfgang von Goethe nhấn mạnh: “Tôi thích một sự thật có hại hơn một sự sai lầm có lợi. Sự thật chữa được cái hại nó có thể gây ra.”
Nhà thơ Nguyễn Tài Năng có bài thơ “Lấy thúng úp voi” như sau:
Trùm voi bằng thúng được đâu
Voi to thúng nhỏ hở đầu lòi đuôi
Chớ hòng lấy thúng úp voi,
Xấu mà che đậy cũng lòi xấu ra.
Chi bằng em cứ thật-thà
Lỗi thì nhận lỗi rồi ta sửa mình.
“THÙ LAO” LÀM ĐẢO CHÁNH
Sau khi bài “Kẻ phản bội” được phổ biến, nhiều người đã gọi điện thoại cho chúng tôi yêu cầu làm sáng tỏ về số tiền mà CIA đã trả cho nhóm làm đảo chánh. Chúng tôi xin nói rõ:
Số tiền 3.000.000 đồng (42.000 USD) được Lucien Conein đưa cho Tướng Trần Văn Đôn được chia như thế nào, Tướng Trần Văn Đôn đã ghi rõ trong Phiếu Đệ Trình ngày 14.8.1971 (xem phụ đính của cuốn Việt Nam Nhân Chứng), như: Tướng Trần Thiện Khiêm 500.000$, Tướng Tôn Thất Đính 600.000$, Tướng Lê Nguyên Khang 100.000$, Tướng Nguyễn Văn Thiệu 50.000$, Đại Tá Trần Ngọc Huyến 100.000$, Thiếu Tá Phan Hòa Hiệp 100.000$ và Đại Úy Đào Ngọc Diệp 100.000$. Tổng Cộng 1.550.000$. Số còn lại là 1.450.000$ được chia riêng cho các tướng Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Khánh và Đỗ Cao Trí.
Tướng Trần Văn Đôn gọi số tiền này là “thù lao các đơn vị trong ngày cách mạng 1.11.1963”.
Không thể dựa vào sự phân chia số tiền “thù lao” nói trên để xét định ai “có công” lớn, ai “có công” nhỏ trong việc làm đảo chánh lật đổ và giết ông Diệm, vì ngoài số tiền “thù lao” này ra, các tướng lãnh đạo cuộc đảo chánh và những người liên hệ đã được lãnh một số thù lao khác nữa.
Tài liệu "Check-List of Possible U.S. Actions in Case of Coup," (Danh sách về những hành động Hoa Kỳ có thể làm trong trường hợp có đảo chánh) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 25.10.963 cho biết như sau về số tiền cung cấp cho nhóm đảo chánh:
“Mendenhall also compiles a set of options the Kennedy administration can take in support of a coup aimed at the Diem government. Note that he mentions providing money or other "inducements" to Vietnamese to join in the plot. The CIA would actually provide $42,000 to the coup plotters during the coup itself (other amounts in support are not known)”.
Xin tạm dịch:
“Mendenhall cũng đã hoàn thành một danh sách về những sự lựa chọn mà chính quyền Kennedy có thể thực hiện để yểm trợ cho một cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Cần lưu ý ông ta có đề cập đến vấn đề cung cấp tiền bạc hay “các sự xui khiến” (inducements) khác cho người Việt Nam tham dự vào âm mưu. Hiện tại, CIA phải cung cấp 42.000 USD cho những người âm mưu đảo chánh trong thời gian cuộc đảo chánh xẩy ra (những số tiền yểm trợ khác không được biết).”
(JFKL: Roger Hilsman Papers, Country File, box 4, folder: Vietnam 10/6/63-10/31/ 63)
Ngoài ra, vài ngày trước cuộc đảo chánh, Đại Sứ Lodge đã đề nghị Washington xử dụng một số tiền khác của CIA để đấm mõm (buy off) sự chống đối ngấm ngầm.
Sau đó, trong công điện gởi cho Đại Sứ Cabot Lodge ngày 30.10.1963, tức trước đảo chánh một ngày, ông McGeorge Bundy, Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Kennedy, đã viết:
“Về phần những lời yêu cầu của các tướng, họ có thể cần tiền vào giờ chót để mua chuộc những kẻ chống đối ngấm ngầm. Trong phạm vi mà những số tiền đó có thể được chuyển một cách kín đáo, tôi tin rằng chúng ta có thể cung cấp cho họ miễn là chúng ta được thuyết phục rằng cuộc đảo chánh đã được dự trù sẽ được tổ chức một cách hoàn hảo để có cơ may thành công.”
(FRUS 1961 – 1963, Volume IV, tr. 487).
Với những tài liệu được tiết lộ đã dẫn, chúng ta có thể tin rằng số tiền CIA đã cung cấp cho nhóm tướng lãnh làm đảo chánh chắc chăn lớn hơn số tiền “thù lao” nói trên nhiều, nhưng không thể biết được số tiền đó là bao nhiêu vì CIA đã xử dụng qũy mật, không ghi vào sổ sách nên không thể biết rõ được. Ngay trong tài liệu cũng đã ghi rõ “những số tiền yểm trợ khác không được biết”.
(FRUSS 1964 – 1968, Volum I, tr. 381).
TRANH NHAU “CHIẾN LỢI PHẨM”
Sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, ông Võ Văn Hải, chánh văn phòng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có làm ngay một báo cáo cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạnh về tài sản của chính phủ Ngô Đình Diệm còn lại trong Dinh Gia Long. Sáng ngày 3.11.1963, Tướng Dương Văn Minh đã ký giấy ra lệnh cho Đại Úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của Tướng Đôn, đến Dinh Gia Long gặp ông Võ Văn Hải và ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống, để nhận hồ sơ và tiền bạc còn lại trong Phủ Tổng Thống. Ông Võ Văn Hải đã bàn giao cho Đại Úy Đặng Văn Hoa 2.390.000$ và 6.297 USD trước sự chứng kiến của ông Quách Tòng Đức.
Theo Tướng Trần Văn Đôn, số tiền 2.390.000$ ông đã dùng để chi tiêu các việc cần thiết và “giúp đỡ các anh em binh sĩ” (?). Còn số tiền 6.297 USD, ông đã đưa cho Tướng Dương Văn Minh 6.000 USD, số còn lại ông giao cho Tướng Trần Thiện Khiêm khi Tướng Khiêm đi công tác Đại Hàn vào cuối tháng 12 năm 1963.
(Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California 1989, tr. 242).
Một nguồn tin nói rằng Tổng Thống Diệm có gởi ở dòng Chúa Cứu Thế 10.000.000$ Việt Nam thuộc quỹ mật của Phủ Tổng Tống. Số tiền này được gởi với mục đích khi có chính biến, có thể dùng để tạm thời nuôi Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống và Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Dương Văn Minh liền cho Tướng Trần Văn Minh đến lấy lại. Khi nhận tiền, Tướng Trần Văn Minh có làm biên nhận đàng hoàng.
Nhưng Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, lúc đó là Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, cho biết ông Võ Văn Hải có kể lại với ông rằng ông Diệm cho ông biết khi về hưu ông sẽ về Huế sống với bà cụ cố. Nếu cụ cố chết sẽ vào tu ở Dòng Chúa Cứu Thế. Vì thế, lương và phụ cấp của cụ đều gởi cho cha Toán là quản lý của nhà Dòng. Số tiền đã gởi cho cha Toán là hai triệu tám trăm ngàn (hay ba triệu, ông không còn nhớ rõ). Sau cuộc đảo chánh, theo lời khai của ông Võ Văn Hải, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã cho Tướng Trần Văn Minh đến gặp cha Toán để lấy, vì Tướng Trần Văn Minh là người Công Giáo và có quen biết với cha Toán.
Sau khi giao số tiền cho Tướng Trần Văn Minh, cha Toán sợ bị liên lụy nên đã lên Tây Ninh rối trốn qua Cambodia, từ đó ông đi qua Pháp.
(Nguyễn Hữu Duệ, Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, San Diego, California, 2003, tr. 21 – 22).
Số tiền này cũng không được nộp vào ngân khố. Không biết các tướng đã chia chác với nhau như thế nào.
Ngày 26.5.1964, Đại Sứ Cabot Lodge có gởi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ một văn thư, trong đó có đoạn trình như sau:
“Tướng Khánh nói với tôi ngày 25 tháng 5 rằng khi ông Diệm bị bắn ông ta có trong tay một cái cặp chứa một triệu đô la ‘loại tiền lớn nhất’. Khánh nói rằng Tướng Minh đã lấy cái cặp đó và chưa bao giờ giao nộp. Khánh nói thêm rằng cũng trong thời gian đó, Tướng Minh đã chiếm đoạt 40 kg vàng thoi.
“Tôi khuyên Khánh không nên công bố chuyện đó ra cho dân chúng biết để khỏi làm giảm sự tin tưởng của dân chúng ở đó vào các tướng lãnh. Ông ta hy vọng Tướng Minh sẽ ra đi một cách thầm lặng.”
(I advised General Khanh not to make this public lest it shake public confidence here in all generals. He hope that General Minh will make his exit quietly.)
(FRUSS 1964 – 1968, Volum I, tr. 381)
THƯỢNG CẤP KHEN RỒI NGUYỀN RỦA
Tướng Trần Văn Đôn kể lại lúc 4 giờ chiều ngày 3.1.1963, khi Tướng Đôn và Tướng Kim đến Toà Đại Sứ Mỹ báo cáo kết quả của cuộc đảo chánh, Đại Sứ Cabot Lodge ra đón từ ngoài đường và nói bằng tiếng Pháp:
“C’est formidable! C’est magnifique!”
Tạm dịch:
Thật phi thường! Thật tuyệt với!
(Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 288).
Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, khi tình hình miền Nam suy sụp, Tổng Thống Johson đã lên tiếng nguyền rủa quyết định của nhóm đảo chánh và các tay sai.
Trong một cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28.2.2003, cho biết vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Lyndon B. Johnson đã nói chuyện bằng điện thoại với Thượng Nghị Sĩ Eugene McCathy như sau:
Johnson: ... But they started with me on Diem, you remember.
McCathy: Yeah.
Johnson: [That] he was corrupt and he ought to be killed. So we killed him. We all got together AND GOT A GODDAM BUNCH OF THUGS and we went in and assassinated him. Now, we've really had no political stability since then.
Xin tạm dịch:
Johnson: ... Nhưng ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm.
MacCarthy: Có chứ.
Johnson: (Rằng) ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất cả chúng ta đã họp lại với nhau VÀ XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng ta thật sự không có sự ổn định chính trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”
“Bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” mà Tổng Thống Johnson nói ở đây là những ai?
Theo công điện ngày 27.8.963 của Trạm CIA Sài Gòn gởi CIA trung ương, Ủy Ban các Tướng Lãnh (Committee of Generals) tổ chức đảo chánh do Tương Dương Văn Minh cầm đầu gồm các tướng sau sau đây: Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim, Nguyễn Khánh và Nguyễn Ngọc Lễ. Các tướng này đã họp và quyết định cuộc đảo chánh sẽ xẩy ra trong vòng một tuần lễ. Tướng Trần Văn Đôn cũng là một thành viên của Ủy Ban, nhưng không đến họp vì bị theo dõi. Tướng Trần Tử Oai không phải là thành viên của Ủy Ban, nhưng đồng ý hợp tác.
(FRUSS 1961 – 1963, Volume III, tr.653 – 654)
Tướng Trần Văn Đôn cho biết các sĩ quan sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, T
__._,_.___
================================================
=======================================================

No comments:

Post a Comment

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================