VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Friday, February 12, 2010

--------------------------------------------------------------------------------


CÂU ĐỐI TẾT

Tạ-quốc-Tuấn




Ở Việt-nam, một trong những thứ không thể thiếu được vào dịp Tết để mừng đón xuân là câu đối, đúng như được diễn tả trong câu đối sau:


Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ;

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.(a)




Câu đối được dùng trong rất nhiều dịp: sinh con, sinh nhật, hôn nhân, tang ma, thăng quan tiến chức, thi đậu, xây chùa dựng đình, tự thuật, tự thán, v.v., và nhất là vào dịp Tết. Ở đây chúng ta chỉ nói đến câu đối Tết thôi.




Trong kho tàng câu đối Việt-nam có rất nhiều câu đối Tết, vì có thể nói là ngày xưa hầu hết các thi nhân, học giả, nho sĩ, quan chức đều có làm câu đối không nhiều thì ít. Chỉ có điều đáng tiếc là vì nhiều nguyên nhân, ngày nay chúng ta chỉ còn có được một số ít câu đối Tết của một vài thi nhân, như bà huyện Thanh-quan, Hồ-xuân-Hương, Nguyễn-công-Trứ, Nguyễn-Khuyến, Phạm-Thái (tức Chiêu Lỳ), Tản-đà (tức Nguyễn-khắc-Hiếu, Tú Xương (tức Trần-tế-Xương), v.v.


Đa số các câu đối Tết đều ngắn, như thấy trong câu đối dẫn trên, gồm 14 chữ.


Tuy nhiên, cũng có người làm câu đối Tết rất dài. Thí dụ câu đối sau đây của Phạm-Thái dài tới 124 chữ.


Xuân mới gọi là Xuân, Xuân thiều quang thục úc, Xuân xướng mậu huyên hòa, ai chẳng mong Xuân mãi để vui đời, kìa xem nơi kia đình, nơi nọ đáo, nơi ấy điếm đua cờ người, kéo hội, bắt chạch, gieo đu, Xuân năm ngoái vui lắm, năm nay lại vui ghê, muốn Xuân mãi để nhẩn nha ngày tháng Bụt;


Tuổi cũng thì là tuổi, tuổi phú quí vinh hoa, tuổi công danh sự nghiệp, ai chẳng muốn tuổi dài cho sướng kiếp, nhưng mà ngày nay cờ, ngày mai bạc, ngày kia chè rượu, quay đất, bài phu, tổ tôm, xóc đĩa, tuổi ngày trước dại vừa, ngày rày còn dại mãi, nhiều tuổi chi cho tổn ải nước non Trời.


Có những câu đối Tết thực là mộc mạc, đơn thuần kể những vật phải có trong ngày Tết, như là câu đối dẫn ở đầu bài này.


Có những câu đối Tết diễn tả nỗi hân hoan của mọi người mừng đón Xuân sang. Thí dụ như câu đối sau của Phạm-Thái:


Bật cần nêu đem mới lại cho mau, già trẻ gái trai đều sướng kiếp;

Đùng tiếng trúc đuổi cũ đi đã đáng, cỏ hoa non nước cũng mừng Xuân.

Tuy nhiên, theo Nguyễn-công-Trứ, Tết và Xuân thì năm nào cũng như năm nào, vẫn có ngần ấy thứ, không có gì là khác lạ cả.


Đuột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết;

Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mồng một rứa cũng Xuân.


Còn Tú Xương thì cho rằng năm mới chẳng khác gì năm cũ, người ta vẫn làm ngần ấy việc, ngần ấy thứ, cho dù có muốn níu kéo một cái gì tốt, một cái gì hay lại không cho nó đi để tránh những cái xấu, những cái không hay, chẳng hạn giữ Xuân ở lại mãi mãi để tránh khỏi cảnh hè nóng và đông lạnh, cũng không được.


Xuân về chớ để Xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấp lạnh;

Năm mới khác gì năm cũ, vạn người bán muối với mua vôi.


Trong một câu đối khác, Tú Xương cho rằng ở đâu thì người ta cũng vui Xuân vui cả một trời, giống như học sách, có học hết tất cả các sách trên đời nếu thấy hay thì người ở đâu cũng thấy hay vậy thôi.


Vui Xuân, vui cả một trời, có lẽ đâu đâu đâu cũng vậy;

Học sách, học cho hết sách, hay là thế thế thế mà thôi!


Lại có những câu đối Tết diễn tả một loại người nào, một nghề nghiệp nào, một tình trạng nào.

Về loại người chúng ta có thể kể câu đối sau của Nguyễn-công-Trứ vịnh Tết làm cho một người mù.


Tối ba mươi nghe pháo Giao-thừa, ờ ờ Tết;

Rạng mồng một vấp nêu Nguyên-đán, à à Xuân.


Toàn câu đối không có một chữ nào, một ý nào diễn tả cảnh sắc Xuân hay Tết cả. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì người mù đâu có thể trông thấy gì. Trái lại, người mù thường phải vận dụng thính giác nhiều hơn. Do đó, trong vế trên tác gỉả mới nói tới pháo. Đấy là chưa kể pháo là một vật không thể thiếu trong ngày Tết như thấy trong câu đối dẫn ở đầu bài này.


Ngoài ra, câu đối của Nguyễn-công-Trứ còn có cái khéo là đã dùng chữ “vấp” ở vế dưới. “Vấp” là đụng phải một vật gì nằm ở bên dưới mắt không nhìn thấy được. Người mù lẽ dĩ nhiên dễ bị vấp hơn người mắt sáng. Tuy nhiên, người mù của câu đối này không phải là vấp một vật nằm ở dưới đất mà lại là một vật đứng cao chình ình là cây nêu. Vật nằm ở dưới đất người mắt sáng cũng đôi khi vấp phải nếu không có đủ ánh sáng chiếu vào, nhưng cây nêu thì người mắt sáng bắt buộc phải trông thấy, dù không có đủ ánh sáng. Trái lại, đối với người mù thì cây nêu dù có to lớn đến đâu cũng không trông thấy được.


Cái khéo thứ hai là tác giả đã dùng hai chữ “ờ ờ ” ở vế trên và “à à ” ở vế dưới. Đó là tiếng người mù thường phát ra như để nhận một điều gì hay vật gì người ấy không thấy được.


Về nghề nghiệp có thể kể câu đối Tết của Nguyễn-Khuyến làm cho một anh hàng bán thịt lợn.


Nguyên gần ngày Tết, có anh hàng bán thịt lợn trong vùng đã đem biếu Nguyễn-Khuyến một bát tiết canh và một đôi bồ dục lợn, rồi xin đôi câu đối về dán Tết. Tác giả bèn đọc ngay câu đối sau:


Tứ thời bát tiết canh chung thủy;

Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.


Đây là một câu đối làm hoàn toàn bằng Hán văn, có nghĩa là: “bốn mùa tám tiết lần lượt thay đổi; bờ cỏ dậm liễu cũng muốn trang điểm”. Tuy nhiên, hai chữ “tiết ” và “canh” trong vế trên và “bồ ” và “dục” trong vế dưới nếu đọc liền nhau lại có thể coi là tiếng Việt thuần túy, với “tiết canh” và “bồ dục” là hai món anh hàng thịt lợn mang biếu tác giả.


Chúng ta cũng có thể kể câu đối Tết của Tản-đà Nguyễn-khắc-Hiếu làm cho mấy cô đầu(1) ở Hải-phòng.


Ai đẻ mãi ra Xuân, Xuân ấy đi, Xuân khác về, năm nay năm ngoái Xuân hơn, kém?

Nhà lại sắp có khách, khách quen vào, khách lạ đến, năm ngoái năm nay khách vắng, đông?


Chữ “khách” trong vế sau có thể hiểu hai cách. Dùng với nghĩa rộng, “khách” có nghĩa là người đến thăm, và cả người được đến thăm (chủ) lẫn người đến thăm (khách) có thể là bất cứ loại người nào, làm nghề nào, ngay cả có thể có liên hệ thân thích với nhau nữa. Mặt khác, dùng với nghĩa hẹp, “khách” chỉ khách làng chơi, người đến mua vui nơi cô đầu.


Hay là câu đối Tết của Nguyễn-Khuyến làm cho cô Tư Hồng:


Mở toang ra, toác toạc toàng toang, nền tạo hóa chia lìa đôi mảnh;

Khép kín lại, khít khịt khìn khin, máy âm dương đưa đẩy một then.


Câu đối này có thể hiểu hai lối.


Hiểu theo nghĩa thanh, câu đối nói tới sự chuyển vận tuần hoàn biến hóa của vũ trụ thiên nhiên.


Hiểu theo nghĩa tục, câu đối nói tới các “động tác nghề nghiệp” của cô Tư Hồng.


Câu đối này còn đặc biệt ở chỗ đã dùng các tiếng láy rất là bình dân trong cả hai vế, “toác toạc toàng toang” và “‘khít khịt khìn khin” (có tài liệu chép là “khìn khin khít khịt”), để diễn tả hai trạng thái rộng hay lỏng (toác toạc toàng toang) và hẹp hay chật (khít khịt khìn khin). Và đặc điểm này cũng có thể hiểu theo nghĩa thanh hay nghĩa tục.


Ngoài ra, còn có những câu đối Tết diễn tả tình cảnh của một người hay vật nào đó. Thí dụ như câu đối sau của Nguyễn-công-Trứ:


Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái;

Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.(2)


Tuy nhiên, những câu đối thuộc loại nói về tình cảnh này đa số nói đến sự nghèo của người. Vì nghèo nên người ta phải đi vay nợ; do đó mới tạo ra tình trạng nợ phải đòi cho xong trước lễ giao thừa, vì nếu để qua năm mới thì người ta không thể đòi được nữa, sợ làm giông người mắc nợ. Cho nên từ chiều ngày 30 (hay 29, nếu là tháng chạp thiếu) Tết, chủ nợ hay người đại diện đi đòi nợ và réo gọi con nợ ra trả nợ, lắm khi còn chửi bới bằng những lời lẽ nặng nề, bẩn thỉu; còn con nợ thì phải bỏ nhà lẩn tránh đi nơi khác, cho tới giờ giao thừa mới dám trở về nhà. Sang đến ngày mồng một, nếu chủ nợ và con nợ có gặp nhau thì cũng đều đưa ra những lời chúc Tết rất hay, rất đẹp, làm như là không có sự gì đã xảy ra cho nhau chiều ngày hôm trước.


Tục này đã được diễn tả trong nhiều câu đối Tết.


Chẳng hạn, Nguyễn-công-Trứ đã có những câu đối sau:


1.- Tối (b) ba mươi, nợ réo(c) tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa;

Sáng mồng một, rượu(d) say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà.


2.- Chiều ba mươi công nợ rối canh tân, ước những mười năm dồn lại một;

Sớm mồng một rượu chè tràn quí tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.


3.- Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha tết(e);

Trời để sống lâu nữa, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ đời(f) .


4.- Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi;

Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng.


Hơn nữa, còn có không ít câu đối nói lên cái phù phiếm của một số tập tục ngày Tết.


Chẳng hạn bà huyện Thanh-quan có câu đối Tết nói rằng những người làm câu đối là vì có duyên với văn chương, chứ ai đâu có nợ gì với trời đất mà phải trồng nêu; nói cách khác, theo bà, làm câu đối là việc có ý nghĩa, còn việc trồng nêu thì không.


Duyên với văn chương nên dán chữ;

Nợ gì trời đất phải trồng nêu.


Hay như Nguyễn-Khuyến quan niệm rằng người ta thật là vô cùng dại dột, chẳng những mất bao nhiêu tiền mua pháo đốt mà lại còn bị mất chó nữa vì pháo nổ đì đùng làm cho chó hoảng sợ chạy đi mất. Còn như ông là một người rất tinh khôn cho nên ngày Tết ông chỉ uống rượu say rồi nằm nghỉ không cần phải làm gì hết cả.


Chúng nó dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó;

Ông đây khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo.


Hoặc như Nguyễn-công-Trứ cho rằng việc mua pháo đốt chẳng qua cũng chỉ là để cho mọi người nghe, cũng như việc trồng cây nêu chỉ là để nói cho làng nước biết, chứ không có công dụng gì khác.


Mua pháo đốt chơi, để anh em nghe có tiếng;

Giật nêu đóng lại, cho làng nước biết không xiêu.


Còn Tú Xương, đã làm câu đối sau:


Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo;

Nhân tình trắng thế lại bôi vôi.


Ý ông muốn nói là người ta đã nghèo xác nghèo xơ, nghèo đến không có tiền mua thực phẩm để ăn cho no, mua quần áo để mặc cho ấm, thế mà lại còn phí tiền đi mua pháo về đốt, pháo đốt rồi thì cũng tan tành chứ có mang lại cái ích gì cho người đâu. Cũng vậy, người có cảnh sống bạc phếch, nghĩa là sống gieo neo khốn khó, mà lại còn cuối năm rắc vôi bột trước nhà thành hình cánh cung, nỏ, giáo, v.v., để mà trừ ma quỉ không cho tới quấy nhiễu, như vậy là làm việc vô ích, vì đã kiệt quệ lắm rồi thì còn có gì để hấp dẫn cho ma quỉ lại.


Một câu đối nữa của Tú Xương nói rằng thực là nực cười, dù không có cây nêu, không có pháo và không có cả vôi bột thì Tết vẫn là Tết, chứ đâu bắt buộc phải có những thứ này thì Tết mới thực là Tết. Chỉ cần có rượu, có nem, có bánh chưng, nghĩa là có đồ ăn thức uống, cũng đủ là Xuân rồi, đâu có cần những thứ vô ích và vô dụng như là cây nêu, tràng pháo, hay vôi bột, v.v.


Nực cười thay: nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết;

Thôi cũng được: rượu có, nem có, bánh chưng cũng(g) có, thừa Xuân.


Cũng có những câu đối nói lên cái ngông nghênh của tác giả. Thí dụ Tú Xương có những câu đối như:


1.- Đào tiên đã chín hay chưa, bác mẹ em già, chắp cánh bay lên xin một quả;

Đối Tết không hay cũng dán, bà con ai biết, dừng chân đứng lại ngắm vài câu.


2.- Không dưng Xuân đến chi nhà tớ;

Có lẽ nào trời đóng cửa ai.(h)


Trước khi chấm dứt bài này, chúng tôi xin dẫn một bài thơ của Tú Xương, nhan đề Dán Câu Đối Tết (có tài liệu chép là Tết Dán Câu Đối ).


Nhập thế tục bất khả vô văn tự,(3)

Chẳng hay ho cũng nghĩ một vài bài.(i)

Huống chi mình đã đỗ Tú tài,(j)

Ngày Tết đến cũng phải một hai câu đối.(k)

Đối rằng:

Cực nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài,(4)

Tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt.(5)

Viết vào giấy dán ngay lên cột,

Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay.

“Rằng hay thì thực là hay,(l)

Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú tài?

Xưa nay em vẫn chịu ngài.”



Chú Thích

(1) Còn gọi là “cô đào”, “ả đào”, hay “ả đầu”.


(2) (a) Tam dương khai thái: ba khí dương mở sự thịnh vượng, yên vui, may mắn, tức chỉ mùa Xuân bắt đầu. (b) Ngũ phúc lâm môn: năm điều phúc tới cửa nhà; năm điều phúc đó là: thọ (sống lâu), phúc (giàu có), khang ninh (mạnh khỏe), du hảo đức (có đức hạnh), và khảo chung mệnh (chết già, chết yên lành).


(3) Vào cuộc đời chẳng thể không có chữ nghĩa.


(4) Phẩm giá tột cùng ở nhân gian là tấm tình với gió trăng.


(5) Sự phong lưu bậc nhất trên đời là cốt cách giang hồ.



Bản Chép Khác

(a) nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh. (b) chiều. (c) công nợ hỏi. (d) rượu chè. (e) cha cóc. (f) mẹ bò. (g) đều. (h) có lẽ trời mà đóng cửa ai. (i) chẳng hay ho cũng húng hắng một vài bài. (j) huống thân danh đã đỗ tú tài. (k) ngày tết đến cũng phải một vài câu đối. (l) thưa rằng: hay thực là hay.



Tro ve dau trang

=======================================

=====================================================







No comments:

Post a Comment

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================