Lê Duẩn và Trung Quốc
Lê
Duẩn, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam là một khuôn mặt về mưu mô và
thao lược có lẽ chỉ đứng sau ông Hồ Chí Minh. Đó là một trong những lý
do Hồ Chí Minh chọn ông làm Bí thư thứ nhất sau cuộc cải cách ruộng đất
nhiều tai tiếng. Là một người cộng sản, Lê Duẩn kiên trì theo đuổi đường
lối của Hồ Chí Minh là thống nhất Việt Nam và đặt cả nước dưới chế độ
cộng sản. Ông đã chống lại một cách có kết quả chính sách của Mao Trạch
Đông không muốn thấy miền Bắc chiếm miền Nam dù bằng hiệp thương bầu cử
hay bằng vũ lực. Đối với Trung quốc một Việt Nam chia đôi, miền Bắc
không thể mạnh để thành
một mối lo cho Trung quốc, đồng thời làm trái độn ở biên giới phía Nam
giúp Trung quốc tránh sự tiếp cận với các lực lượng quân sự Hoa Kỳ.
Từ khi bị áp lực của Trung quốc ký Hiệp định Geneve
chia đôi dất nước, Lê Duẩn thấy rõ chính sách của Trung quốc đối với
Việt Nam trong hơn một ngàn năm qua không có gì thay đổi. Thay đổi chăng
là thay đổi lối nói mồm miệng, từ “thiên triều và thuộc quốc” thành
“anh em trong khối xã hội chủ nghĩa” môi hở răng lạnh giả dối.
Theo
hồi ký “Cuối đời nhớ lại” của ông Nguyễn Thành Thơ một đảng viên từng
có chân trong Trung ương đảng ghi lại rằng, khoảng cuối năm 1978 khi
tình hình biên giới Việt – Kampuchia và Việt –Trung căng thẳng, quân
lính Kampuchia thường vượt biên giới cướp của và giết người mà Việt Nam
không có đối sách gì. Trong một dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn đi thăm huyện
Cần Giờ tháp tùng bởi Huyện ủy và 30 cán bộ cao cấp khác, Nguyễn Thành
Thơ ghi:
“Lê
Duẩn nói ‘Các anh có gì hỏi tôi giải đáp’ . Anh em phấn khởi rộ lên
‘Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man điên
cuồng, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu’. Anh Lê Duãn trả
lời ‘Các đồng chí hỏi đúng là một tình hình cả nước đều quan tâm, chúng
tôi đau đầu lắm ngủ không được, không phải là vấn đề Khmer đỏ, vấn đề
Pôn Pốt mà là vấn đề ai đằng sau Khmer đỏ, Pôn Pốt. Lần này ta có đưa
đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung quốc
đánh ta thôi, nhưng ta không chiếm K, Trung quốc cũng không chiếm ta.” (Cuối Đời Nhớ Lại của Nguyễn Thành
Thơ) Nhưng để hiểu trọn vẹn cái nhìn của Lê Duẩn đối với Trung quốc
trong suốt thời gian từ những năm 1949 sau khi Mao chiếm Trung hoa lục
địa thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, chúng ta cần đọc bài nói
chuyện của Lê Duẩn với các tướng lãnh quân đội cộng sản Việt Nam (?) vào
một thời điểm trong năm 1979 sau khi Trung quốc tấn công vào biên giới
Việt Nam (Bài nói chuyện của Lê Duẩn năm 1979 ) . Bài nói chuyện này
được lưu trữ tại Thư viện Quân đội Nhân dân ở Hà Nội
và do Christopher Goscha có được và dịch ra Anh ngữ cho Chương trình
Lịch sử quốc tế về Chiến tranh Lạnh (Cold War International History
Project – CWIHP) thuộc Trung tâm Nghiên cứu
Woodrow Wilson ở Washington D.C. [TBN: 1. giáo sư Gosha tốt nghiệp tiến sĩ sử học đại học Sorbonne, Paris chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại các nước Đông Nam Á. 2.
Chúng ta đang nghiên cứu một bài nói chuyện của một Tổng bí thư đảng
cộng sản Việt Nam. Ngôn từ trong những đoạn trích dẫn sau là ngôn từ của
một lãnh tụ cộng sản Việt Nam sau khi vừa chiến thắng Hoa Kỳ, có lúc
cường điệu và tự phụ. Cốt lõi ở đây là chắt lọc cái nhìn của ông Lê Duẩn
đối với Trung quốc để rút ra những kinh nhiệm đáp ứng trong hoàn cảnh
Việt Nam đang bị áp
lực nặng nề của Trung quốc]
Lê
Duẩn cho biết sau Hiệp định Geneve và sau khi không có hiệp thương
chuẩn bị bầu cử như Hiệp định dự liệu, Trung quốc gây sức ép cho Bắc
Việt Nam không được khởi động cuộc chiến tranh tại miền Nam, nhưng đảng
cộng sản Việt Nam vẫn cương quyết phát động cuộc chiến. Lê Duẩn không
nói ra, nhưng ai cũng biết đảng cộng sản Việt Nam có thể làm vậy vì có
hậu thuẫn của Liên xô. Lê Duẩn nói với các cán bộ:
“Khi
chúng ta ký Hiệp Định Geneve, rõ ràng là Chu Ân Lai đã [ép] chia đất
nước ta làm hai. Sau đó ông ta gây sức ép buộc chúng ta không được làm
gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn chúng ta đứng lên nhưng họ không
thể làm gì để ngăn cản chúng ta”
Theo
Lê Duẩn, sau khi miền Bắc đã phát động chiến tranh du kích tại miền
Nam, biết không ngăn được nên Mao Trạch Đông đổi cách suy nghĩ, lợi dụng
cuộc chiến tại miền Nam để đưa quân vào Bắc Việt dòm ngó, chuẩn bị cho
chương trình xâm lấn Việt Nam về sau: Trích bài nói của Lê Duẩn:
“Sau
khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến
đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ
đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội đến giúp chúng ta xây dựng đường
sá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau
này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông
Nam Á. Không có lý do nào khác. Chúng
ta biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi
người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải
chịu điều này.
Sau
đó, Mao bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con
đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ. Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng
tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi
đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.
Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước
ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.” Năm
1960 khi chiến tranh du kích tại miền Nam bắt đầu tăng cường độ, tại
đại hội 3 của đảng cộng sản Việt Nam, [TBN: từ 5-10/9/1960 tại Hà Nội,
Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất đảng cộng sản
Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn giữ danh vị Chủ tịch đảng.] Trung quốc đã
thuyết phục đảng cộng sản Việt Nam khuyến cáo Pathet Lào trả hai tỉnh
giáp biên giới Việt Nam cho chính phủ Vientaine, nói là để tránh Mỹ đổ
quân vào Lào, nhưng ý đồ thật của Mao là cắt tay cắt chân của Việt Nam,
và sau này dùng chi viện rộng rãi mua chuộc Lào bủa một gọng kềm bên
trái cùng với gọng kềm bên phải của căn cứ hải quân Yulin nằm ở cực nam đảo Hải Nam làm hai gọng kềm kẹp Việt Nam vào giữa.
Lê Duẩn nói với các cán bộ của mình:
“Khi
chúng ta chuẩn bị chiến tranh du kích tại miền Nam sau khi ký Hiệp định
Geneve, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay
lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho
chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một
tình huống rất nguy hiểm theo cái nhìn của Trung Quốc! Mao đã bức hiếp
chúng ta và chúng ta đã phải làm điều đó.”
Lê
Duẩn giải thích sở dĩ Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam vì Liên xô
và Trung quốc bất hòa nhau, và chính sách của Liên xô và Trung quốc về
Việt Nam đối nghịch nhau. Liên xô muốn Hà Nội khởi động chiến tranh tại
miền Nam, Trung quốc thì không muốn. Lê Duẩn dẫn chứng năm 1961 khi Liên
xô, Trung quốc, Việt Nam còn là một khối (TBN: lúc đó dấu hiệu bất hòa
chưa hiện ra bên ngoài) tổng thống Kennedy đã không dám can thiệp vào
Lào nên cùng với Nga và Trung quốc trung lập hoá Lào và lập chính phủ
liên hiệp quốc cộng tại Vientaine. Hoa Kỳ và Trung quốc có cùng mục tiêu
trong việc trung lập hóa Lào, chủ yếu là chắn con đường tiếp vận quan
trọng từ bắc Việt Nam vào miền Nam để giảm
thiểu khả năng xâm lăng miền Nam của Bắc Việt.
Lê Duẩn nói:
“Nếu
Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám
đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để
giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã
đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam,
Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp
ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công
Lào nữa.
Sau
đó, khi Liên Xô và Trung Quốc xung đột với nhau, Mỹ được Trung Quốc
thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ sự trả
đũa của Trung Quốc.”
Trong
một đoạn khác Lê Duẩn phán đóan rằng nếu không có sự đồng ý của Trung
quốc, Hoa Kỳ đã không dám gài mìn phong tỏa hải cảng Hải phòng mùa hè
năm 1972 và dùng B52 bỏ bom Hà Nội tháng 12 năm đó.
Lời Lê Duẩn:
“…
Tuy nhiên, Trung quốc và Hoa Kỳ đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng
ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải
Phòng. Rõ ràng là như thế..”
Buổi
nói chuyện của Lê Duẩn đã giải thích tại sao Hà Nội phát động cuộc
chiến tranh vào các thành phố và trung tâm dân cư miền Nam trong dịp Tết
Mậu Thân. Cường độ và địa bàn tấn công, gồm cả tòa đại sứ Hoa Kỳ tại
Sài gòn đã làm cho bộ tham mưu của tướng Westmoreland
ngạc nhiên. Ngạc nhiên không phải vì không đoán trước Bắc Việt sẽ tấn
công. Tình báo Hoa Kỳ đã ghi nhận sự chuyển quân của Bắc Việt. Ngạc
nhiên vì tướng Westmoreland và Bộ quốc phòng Hoa Kỳ nghĩ rằng bộ đội
cộng sản sẽ đánh mạnh vào các đơn vị quân đội Mỹ sau Tết và trong dịp
ngưng bắn Tết họ
chỉ quấy phá nhỏ. [TBN: Victory At any Costs by Cecil B. Currey, page
266-267].
Ngoài
ra song hành với cuộc tấn công Mậu Thân nhiều sư đoàn thiện chiến của
Bắc Việt bao vây căn cứ Khe Sanh, và các chiến lược gia Hoa Kỳ vẫn còn
bình luận về mục tiêu chính của Bắc Việt là thu đoạt một thắng lợi dứt
điểm tại Khe Sanh như họ đã thắng trước đây tại Điện Biên Phủ hay tấn
công đồng loạt vào các trung tâm dân cư để tạo một cuốc nổi dậy. Lê Duẩn
cho thấy Hà Nội không có ảo tưởng hạ căn cứ Khe Sanh trước hỏa lực của
Hoa Kỳ. Bao vây Khe Sanh chỉ là kế “điệu hổ ly sơn” [TBN: đúng hơn là
“điệu trâu lên rừng”].
Hà
Nội cũng không có ảo tưởng gì nhân dân miền Nam sẽ nổi dậy. Vào năm
1967 Hoa Kỳ có hơn 500 nghìn quân tại Việt Nam. Quân đội chính quy
Bắc Việt đã chạm trán với quân đội Hoa Kỳ trong thung lũng Ia Drang
trong năm 1965 và phải trốn qua biên giới Lào để khỏi bị tiêu diệt nên
biết rằng không thể đụng trận mãi với các sư đoàn quân Hoa Kỳ được. Lê
Duẩn và Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam tính rằng nếu Hoa Kỳ đưa
thêm quân vào Việt Nam thì trước sau Bắc việt cũng thất bại. Nên chiến
lược của Lê Duẩn là đánh một trận xả láng vào các thành thị miền Nam bất
chấp quy
ước, chấp nhận mọi tổn thất để tạo xúc động tâm lý tại Hoa Kỳ để Hoa Kỳ
ngưng tăng quân và dọn đường thương thuyết.
Mục
tiêu của Lê Duẩn đã đạt được. Bắc Việt đã tổn thất nặng nề về mặt quân
sự, nhưng thắng lớn về mặt chính trị. Tổng thống Johnson đã không gởi
thêm quân theo yêu cầu của tướng Westmoreland và đề nghị thương thuyết.
Trớ trêu là lúc đó Trung quốc ngăn cản không cho Hà Nội thương thuyết.
Trung quốc hứa sẽ gởi thêm súng đạn, đồng thời xúi dục Hoa Kỳ đổ thêm
quân vào. Trung quốc muốn Việt Nam đánh để kiệt quệ đến người lính cuối
cùng.
Lời Lê Duẩn:
“Sau
khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát
động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh
bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo
thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ
thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu
chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ
thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm
nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không
cho phép họ đưa thêm quân.
Đến
lúc Hoa Kỳ muốn thương lượng với chúng ta, đại sứ Trung quốc tại Hà Nội
Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các anh không thể
ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các anh phải dụ quân Mỹ vào miền Bắc
Việt Nam để đánh với họ”. Ông ta gây áp lực với chúng ta làm cho chúng
ta bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề đơn giản mà rất mệt mỏi.
Chúng ta không nghe lời của Ho Wei. Chúng ta ngồi xuống ở Paris.
Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo với Mỹ: ‘Nếu các ông không
tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông muốn đưa vào Việt
Nam bao nhiêu lính, tùy các ông’.
Lê
Duẩn cho biết rằng có một lần Mao giả vờ không nhớ sử để cảnh cáo Lê
Duẩn rằng, quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh bị Việt Nam đánh bại,
nhưng quân Mao sẽ thôn tính Việt Nam, và Lê Duẩn đã phản ứng bằng cách
cảnh giác rằng Việt Nam cũng sẽ đánh thắng quân Mao.
Lê
Duẩn thuật lại cho các cán bộ nghe một mẫu chuyện giữa ông ta và Trường
Chinh với Mao và Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh năm 1963.
“Trước
khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống
trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí,
tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi là chủ tịch của 500
triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống
khu vực Đông Nam Á”.
Ra
ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước
ta và Đông Nam Á bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế.
Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến
đánh Việt Nam!
Cũng trong dip đó Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất? Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông. Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu? Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu! Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà! Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan? Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông. Mao hỏi: Có bao nhiêu người? Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu! Mao
nói: Trời! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng
có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái
Lan!
Mao
không hỏi thẳng về Việt Nam, nhưng gián tiếp hỏi tôi: “Đồng chí, có
đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?”
Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã
đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa,
phải không?”
Hiểu
ý của Mao, tôi nói [nửa đùa nửa thật]: “Đúng. Nếu các ông đánh chúng
tôi chúng tôi cũng sẽ đánh thắng các ông. Các ông có biết điều đó
không?”
Qua
bài nói chuyện của Lê Duẩn chúng ta thấy Trung quốc, dù thuộc thể chế
nào, vương triều, dân chủ hay cộng sản đều có mộng thôn tính Việt Nam.
Và Việt Nam dù thuộc thể chế chính trị nào cũng cảnh giác manh tâm của
Trung quốc.
Quá trình cảnh giác của người cộng sản Việt Nam bắt đầu từ những năm 1954 khi Trung quốc ép ông Hồ Chí Minh ký Hiệp Định Geneve
chia đôi đất nước. Và chính quyền hiện nay cũng có sự cảnh giác cao độ.
Tuy nhiên không gian xoay xở mỗi thời mỗi khác, và cách đáp ứng của
chính quyền hiện nay chưa được xem là thích ứng với hoàn cảnh.
Thời
đại của Hồ Chí Minh Hà Nội dễ xoay xở hơn vì có Liên xô đối trọng với
Trung quốc. Và cho đến năm 1975 Trung quốc còn yếu kém về cả hai mặt
kinh tế và quân sự so với Hoa Kỳ.
Bối
cảnh hôm nay khác hẵn. Liên xô sụp đổ Hà Nội phải dựa vào Trung quốc
hơn để tồn tại. Kinh tế Trung quốc hiện chỉ thua Hoa Kỳ, với một lực
lượng quân sự hùng mạnh gấp nhiều lần quân đội cộng sản Việt Nam. Về mặt
lãnh đạo, Lê Duẩn vừa có tài thao lược vừa có quyền quyết định (ngay cả
khi ông Hồ Chí Minh còn sống vì được Hồ Chí Minh tin cậy) nên tuy có
lúc ông phải nhượng bộ áp lực Trung quốc, ông vẫn rất cứng rắn trước các
đòi hỏi qúa đáng của Trung quốc. Sau khi Lê Duẩn chết (7/1986) các Tổng
bí thư kế tiếp không ai mưu lược và có nhiều quyền quyết định như Lê
Duẩn. Nhất là từ đại hội 9 năm 2001 khi Nông Đức Mạnh lên Tổng bí thư,
sự lãnh đạo tại
Hà Nội càng ít bén nhạy hơn, và hiện nay với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không có gì khá hơn.
Về
mặt chiến lược từ tháng 4/2006 Hà Nội đã tìm cách xích lại gần Hoa Kỳ
một cách dè dặt để tìm thế đối trọng với Trung quốc. (Quan Hệ Việt Trung
1991-2008). Nhưng về mặt chiến thuật cung cách đối đáp của Hà Nội trước
áp lực của Trung quốc không thích hợp và được xem là nhu nhược đến độ
người ta nghi ngờ Trung quốc đã nắm trọn Bộ chính trị đảng cộng sản Việt
Nam trong tay.
Nước
nhỏ cạnh nước lớn cẩn trọng về ngoại giao là cần, nhưng không được để
cho sự cẩn trọng làm quốc gia bại liệt. Phải biết phản ứng khi cần
thiết. Không thể để cho Trung quốc bắn giết ngư dân hay cấm đánh cá
trong vùng biển quốc tế mà không mạnh mẽ lên tiếng hay đưa nội vụ ra
trước Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc dù biết Trung quốc sẽ dùng phiếu
phủ quyết. Không thể để cho tàu hải giám Trung quốc húc chìm thuyền đánh
cá của ngư dân Việt Nam mà không dám minh danh tố cáo Trung quốc mà chỉ
nói là “tàu lạ”. Không thể nể Trung quốc mà không đưa vụ tranh chấp
Hoàng Sa, Trường Sa ra trước tòa án quốc tế trong khi Việt Nam có nhiều
bằng chứng pháp lý chủ quyền, dù
biết rằng tòa án quốc tế không thể thụ lý vì Trung quốc sẽ không đồng ý
kiện về chủ quyền đất đai. Việt Nam cần nghiên cứu các án lệ kiện chủ
quyền đất đai trên thế giới để chuẩn bị cần làm gì để có nhiều may mắn
thắng trước tòa quốc tế. Việc chính quyền Hà Nội vì tế nhị ngoại giao
không lên tiếng chính thức và kịp thời trước các vụ lấn đảo lấn biển của
Trung quốc có thể là một bất lợi về sau. Và lệnh cấm nhân dân biểu tình
chống hành động xâm lấn của Trung quốc cũng có thể là một bất lợi pháp
lý khác.
Trong
bài nói chuyện Lê Duẩn có nói đến khung cảnh quốc tế mới để chứng minh
rằng Trung quốc không thể đánh Việt Nam mà không bị phản ứng của thế
giới. Ông nói:
“Bây
giờ Trung Quốc có âm mưu đánh nước ta để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng
trong thời đại hiện nay họ không thể đánh một cách dễ dàng. [Đầu năm
nay] Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên:
“Không được đụng đến Việt Nam”! Thời đại hiện nay không giống như thời
xưa. Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa
hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người
đều muốn độc lập và tự do. Ngay cả trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn
độc lập, tự do.”
Ông
Lê Duẩn nói đúng. Nhưng quan hệ giữa Liên xô và Hoa Kỳ bấy giờ và bây
giờ đối với Việt Nam khác nhau. Năm 1979 Việt Nam có Hiệp ước an ninh
vừa ký với Liên xô và Liên xô là một đồng minh tin cậy được. Khi Trung
quốc đánh Việt Nam Liên xô đã đưa hạm đội đến đóng ngoài khơi Thanh Hóa
Nghệ An, và Hồng quân Liên xô sẵn sàng mở mặt trấn biên giới phía bắc
Trung quốc nếu Trung quốc tiến sâu hơn vào Hà Nội.
Hiện
nay Việt Nam chỉ có quan hệ lỏng lẻo với Hoa Kỳ. Nhưng dù có liên minh
chặt chẽ Hà Nội cũng không thể hoàn toàn tin cậy vào quyết tâm của Hoa
Kỳ. Hai nước vừa đánh nhau (1965-1975) và bài học của Việt Nam Cộng Hòa
còn nóng hổi. Giả thuyết Hoa Kỳ và Trung quốc chia đôi thiên hạ để cùng
thống trị thế giới không phải chỉ là một giả thuyết suông. Nó có thể trở
thành hiện thực và Việt Nam sẽ là con bò sữa làm lễ tế thần.
Nhưng
nếu vào thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa bó tay chịu chết khi Nixon và
Kissinger nói chuyện với Mao và Chu Ân Lai trên đầu mình, thì hiện nay
Hà Nội có thế xoay xở hơn.
Trước
hết Hà Nội cần xích lại thật gần với Ấn Độ, Nhật Bản, thân thiện với
Liên bang Nga, Cộng đồng Âu Châu và liên minh chặt chẽ và cụ thể với Hoa
Kỳ. Sau đó Hà Nội có thể mở một mặt trận ngoại giao và “lobby” để cảnh
giác Hoa Kỳ rằng nếu Hoa Kỳ thông đồng với Trung quốc để bỏ Việt Nam thì
ngày đó cũng là ngày tàn của siêu cường Hoa Kỳ. Tương quan Hoa Kỳ –
Trung quốc của thế kỷ 21 khác với tương quan đầu thập niên 1970 thế kỷ
trước.
Đối
nội các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam cần huy động nội lực của
nhân dân qua một chương trình cải tổ chính trị và chỉnh đốn vũ trang với
chiến thuật du kích trên không, trên biển và đất liền.
Hoàn
cảnh Việt Nam hôm nay có khó, nhưng không phải Việt Nam không có đường
thoát ra khỏi nanh vuốt Trung quốc. Những anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Quang Trung thời nào cũng có.
|
No comments:
Post a Comment