-
Saturday, September 3, 2011 3:59 AM
Message body
Nguyễn Chí Vịnh đã khỏa lấp một cách trắng trợn rằng:
“Có một
thực tế là Trung Quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam và
Việt Nam không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ quyền. Và Việt Nam
cũng không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”. Để biết TQ có lấy biển hay không thì Nguyễn Chí Vịnh cứ thử đi đánh cá với ngư dân trong hải phận cuả Việt Nam gần Hoàng Sa thì biết liền.Vì sao Nguyễn Chí Vịnh lại mặt dầy mặt dạn dối gạt dân đến nỗi này. Phe Trung Quốc trong nhóm lãnh đạo đảng cộng sản việt nam đang thao túng?
Tại sao cần hủy Công hàm Phạm Văn Đồng?
Trung Điền
Tham dự Hội nghị “Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh
Việt – Trung” cấp thứ trưởng lần thứ hai tại Bắc Kinh vào ngày 29 tháng 8
năm 2011, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ quốc phòng CSVN đã
“thông báo chủ trương kiên quyết xử lý vấn đề tập trung đông người ở
Việt Nam (biểu tình chống Trung Quốc) với tinh thần không để sự việc
tái diễn” với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc.
Phát biểu của Nguyễn Chí Vịnh đã cho thấy là CSVN cố tình dẹp cuộc
biểu tình chống Trung Quốc xâm lược xảy ra vào mỗi sáng chủ nhật từ
tháng 6 đến nay, đặc biệt cuộc đàn áp ngày 21 tháng 8 như một món quà
cho đàn anh trước khi đi Bắc Kinh dự Hội nghị nói trên. Điều này cũng
cho thấy là CSVN đã thực hiện đúng lời hứa mà Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng
Ngoại giao CSVN đã xác định với Đối Bình Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện
Trung Quốc trong Hội nghị thảo luận về biển Đông hôm 25 tháng 6 cũng tại
Bắc Kinh là “sẽ ngăn chận những luận điệu chống Trung Quốc” tại Việt Nam.
Thái độ khúm núm đối với Bắc Kinh của Nguyễn Chí Vịnh và Hồ Xuân Sơn
cho chúng ta thấy là CSVN đã không dám phản kháng mạnh mẽ những hành vi
xâm lấn của Bắc Kinh chỉ vì họ bị đuối lý khi phía Trung Quốc đem công
hàm Phạm Văn Đồng ra biện giải về các hành vi xâm lược. Mặc dù phía CSVN
chối rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hề xác định chủ quyền của Trung
Quốc trên hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) mà chỉ
công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc vào lúc đó; nhưng Trung Quốc
đã “cố tình” coi công hàm Phạm Văn Đồng là mấu chốt để buộc CSVN phải
tuân thủ, không tranh cãi.
Chính vì “khúc xương” công hàm Phạm Văn Đồng này mà CSVN đã phải thân
hành đến Bắc Kinh thảo luận, đối thoại nhiều lần… nhưng rốt cuộc đều
phải làm theo ý của Trung Quốc là “hợp tác phát triển, đấu tranh tất
bại”. Do đó, mấu chốt của vấn đề Biển Đông chính là công hàm Phạm Văn
Đồng. Ngày nào mà công hàm này không được giải quyết trên căn bản “đặt
quyền lợi dân tộc lên trên hết”, thì những vụ xâm lấn của Trung Quốc sẽ
tiếp tục xảy ra và hòa bình sẽ không bao giờ có trên Biển Đông. Tại sao?
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Quốc đưa ra Bản tuyên bố khẳng định
vùng biển Đông với hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa)
thuộc lãnh thổ của Trung Quốc. Hai hôm sau, ngày 6 tháng 9 năm 1958, tờ
Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng CSVN đã tường thuật chi tiết về bản
tuyên bố này nêu rõ rằng “kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa nhân
dân Trung hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh
thổ của phía Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung
Hoa”.
Tám ngày sau, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ là
Thủ tướng đã gửi 1 công hàm cho Chu Ân Lai, tuyên bố chính thức rằng
“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4 tháng 9 năm 1958… Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn
trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mối quan hệ
với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc trên mặt bể”.
Vào năm 1977, Phạm Văn Đồng cho biết lý do vì sao ký công hàm này:
“Đó là thời chiến phải làm như vậy”. Đúng như cán bộ ngoại giao CSVN Lưu
Văn Lợi và cựu Bộ trưởng ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm giải thích
rằng khi đó, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) đã coi hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc của họ mà là thuộc lãnh thổ
của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) vì nước ta chia đôi ở vĩ
tuyến 17 qua Hiệp định Genève năm 1954. Những lý luận “quái gở” của cán
bộ CSVN nói trên đã giúp tô đậm thêm những hành vi bán nước của họ.
Tuy nhiên, để che giấu hành vi bán nước này, các bộ phận tuyên truyền
của CSVN đều cố tình giải thích rằng việc Phạm Văn Đồng ký tên vào bản
công hàm chỉ là cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý
của Trung Quốc, để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc hầu
tiến hành cuộc chiến tại Miền Nam. Dù giải thích thế nào đi nữa, qua
công hàm Phạm Văn Đồng công bố vào năm 1958, đảng CSVN đã đặt quyền lợi
của đảng cao hơn quyền lợi của dân tộc và đất nước.
Dựa vào công hàm Phạm Văn Đồng, Trung Quốc ngày hôm nay đã bắt chẹt
CSVN hai điều: 1/ Từ chối không bàn thảo về chủ quyền hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa mà họ đang chiếm đóng; 2/ Thuyết phục CSVN phải chấp
nhận bàn thảo song phương dựa theo tinh thần hữu nghị của Phạm Văn Đồng.
Ngoài hai điều này, Bắc Kinh còn dựa vào 16 chữ Vàng và 4 Tốt để
“khuyến dụ” lãnh đạo CSVN đi theo con đường của Bắc Kinh với những biện
minh mà Nguyễn Chí Vịnh đã khỏa lấp một cách trắng trợn rằng: “Có một
thực tế là Trung Quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam và
Việt Nam không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ quyền. Và Việt Nam
cũng không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
Rõ ràng là lãnh đạo đảng CSVN đang cố tình bao che cho những hành vi
bán nước của Phạm Văn Đồng để tiếp tục nói ngược lại những thực tế đang
xảy ra là Trung Quốc đã xâm chiếm Hoàng Sa (1974), Trường Sa (1988) và
tuyên bố chủ quyền 80% diện tích Biển Đông qua đường lưỡi bò. Có thể đa
số đồng bào trong nước vì thiếu thông tin và sợ bị quy chụp là phản
động, nên đã không thấy được sự nguy hiểm của công hàm Phạm Văn Đồng. Do
đó, bên cạnh việc khuyến khích nhiều người cùng xác định Hoàng Sa,
Truờng Sa là của Việt Nam, chúng ta phải có nỗ lực vận động để kêu gọi
mọi người đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội chính thức hủy bỏ công hàm Phạm
Văn Đồng.
Trong một quốc gia, khi một bộ phận ban hành một văn kiện sai trái
hay không còn phù hợp với quyền lợi quốc gia, bộ phận ngang bằng hoặc
cao hơn có quyền thu hồi hay hủy bỏ. Công hàm Phạm Văn Đồng do Thủ tướng
ký và không phải là văn kiện có phê chuẩn quốc tế hay quốc hội để phải
thông qua những thủ tục rườm rà. Công hàm Phạm Văn Đồng có thể được hủy
bỏ bởi một quyết định của Thủ tướng hay Chủ tịch nước. Đây chính là
trách nhiệm của ông Trương Tấn Sang hay ông Nguyễn Tấn Dũng.
Tóm lại, để buộc Trung Quốc phải trả lại Hoàng sa, Trường sa vô điều
kiện và giải quyết sòng phẳng chủ quyền trên Biển Đông trên bàn Hội nghị
quốc tế đa phương, CSVN trước hết phải tuyên bố hủy bỏ công hàm Phạm
Văn Đồng. Đây là điều kiện tiên quyết và khởi đầu của mọi nỗ lực “đàm
phán” dù là song phương hay đa phương với Trung Quốc. Không dám hủy bỏ
một sai phạm của lịch sử, CSVN tiếp tục đi bằng gối giữa Bắc Kinh và Hà
Nội như Nguyễn Chí Vịnh và Hồ Xuân Sơn đang làm hiện nay mà thôi.
Trung Điền
Ngày 1/9/2011.
http://www.viettan.org/spip.php?article11519
No comments:
Post a Comment