Lý Đông A Là Tác Giả Đích Thực Của Tập Thơ Vô Đề
            ChuSa
Bài 1.
          Trong  nhiều năm qua, hàng trăm ngàn độc giả trên khắp thế giới nêu ra nhiều  nghi vấn về tập thơ Vô Đề và con người thật của ông Nguyễn Chí Thiện,  nên bài viết này của ChuSa tôi dựa trên các câu hỏi đó để giải đáp phần  nào những bí mật trong tập thơ Vô Đề một trường thiên bất hủ có một  không hai trong lịch sử nước nhà. Tác giả viết ra tập thơ Vô Đề chỉ muốn  người đời gọi ông là một Thi Sĩ Vô Danh, vì ông đã dâng hiến tất cả  cuộc đời ông cho công cuộc chống Cộng và kể hết tội ác của con người  Cộng Sản từ Đông sang Tây. Thơ của Thi Sĩ Vô Danh đã trở thành bia miệng  lịch sử cho nhiều thế kỷ nữa để cho ngàn đời sau hiểu rằng đã có một  giai đoạn trong thế kỷ 20, dân tộc Việt đã bị chính những kẻ Nội Xâm,  Nội Thù Cộng Sản, du nhập một chủ nghĩa và chính sách cai trị bóc lột nô  lệ ngoại lai kinh tởm nhất loài người, gọi là Cộng Sản Mác Xít, Lê Nin  Nít, để tàn phá đất nước dân tộc Việt Nam tới mức tang hoang, kiệt quệ,  và có thể diệt chủng.
          Bài  viết này cũng để tìm hiểu về con người “thật” nhưng “Vô Danh Văng Vẳng”  của ông và tập thơ Vô Đề sau này được đặt tên là “Bản Chúc Thư Của Một  Người Việt Nam”, “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực”,hay “Hoa Địa Ngục I ”. Vậy tác giả Vô Danh là ai? Nghi vấn về tác giả Vô Danh và tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục I). Ai tạo dựng lên chuyện ông Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ Vô Đề từ năm 1980? Phân tích và so sánh sự khác biệt giữa 2 tập thơ để tìm “thi sĩ thật” và thi sĩ giả!. Trong đống bùn đen nhầy nhụa, Đồng Lầy Cộng Sản, một đóa Hoa Sen nẩy sinh!.  Một người, ta gọi là Vô, đã sinh ra và lớn lên giữa quê hương miền Bắc,  nhìn thấy nỗi bi thương của đất nước bị chế độ Cộng Sản đọa đày, với  một ý chí mãnh liệt là phải làm sao phanh phui, tố cáo, tố giác tội ác  của bọn “quỷ sứ” lưu manh, tàn bạo tàn ác, tự nhận là “Cộng Sản”, đã làm  cho cả nước Việt đã trở thành một trại tù cung cấp lao động nô lệ, toàn  dân Việt đã trở thành tù nô lệ của chế độ Cộng Sản. Mọi người, từ trẻ  con trong nằm bụng mẹ cho đến người già đều bị chúng bắt ở tù trong, tù  ngoài, tù đủ cách, đủ kiểu, bị một bọn quỷ sứ mặt người dạ thú Cộng Sản  hành hạ cũng đủ cách đủ kiểu, làm cho toàn thể dân tộc sống dở, chết dở,  có thể đi đến tiêu diệt, suy tàn.
          Thi  Sĩ Vô Danh đã kín đáo làm nhiều bài thơ “trong ngục tù” trong cảnh ngộ  khủng khiếp, kinh hoàng của người dân Việt miền Bắc mà ông gọi đó là  “những người tù”. Thi  Sĩ Vô Danh đã ôm hoài bão là có một ngày nào đó ông có dịp sẽ phổ biến  những bài thơ kể tội ác Cộng Sản với thê giới bên ngoài.  Nhiều năm tháng sống trong lòng chế độ Cộng Sản nhìn thấy chung quanh  ông, chỉ toàn tù đầy chết chóc với bao nhiêu nỗi cơ cực cơ hàn của người  dân miền Bắc, tù đày, với bệnh tật, hàng ngày chỉ thấy toàn là tù bệnh  chung quanh ông, cho nên thể xác của ông cũng muốn tàn lụi dần trong sự  tuyệt vọng, chán chường, nhưng với một ý chí sắt đá rằng: ông phải sống  để làm cái gì cho đất nước và để cứu dân tộc, thoát khỏi gông cùm Cộng  Sản. Vào một ngày cuối tháng 6 năm 1979  tập thơ Vô Đề đã được bắn ra hải ngoại như một tiêu lệnh của tác giả Vô  Danh, tập thơ Vô Đề đã trở thành bất hủ và bất tử. Tác giả Vô Danh đã, do ý muốn của ông là “phổ biến tập Thơ” cho thế giới, cho nhân loại và cho hậu thế, mà không bao giờ nghĩ đến cá nhân được vinh danh hay nổi danh. Chủ đích của tác giả là chỉ đặt tựa đề cho bài thơ trường thiên “Đồng Lầy”, còn những bài khác đều không có đặt tên. Nhận  xét về tình huống của thi sĩ Vô Danh, người viết nghĩ rằng ông hiện  đang sống kín đáo ở một nơi nào đó từ ngày tập thơ Vô Đề được xuất bản  tại hải ngoại. Bài viết này cần phải có để “minh oan” cho ông. Để  trả lại tác quyền cho ông, và ước mong ông tỏ lộ tông tích, để chúng ta  có thể vinh danh ông trước lịch sử, trước dân tộc, trước Văn Học Quốc  Gia và Thế Giới. 
          Những  dữ kiện liên quan đến quá khứ và cá nhân của ông Nguyễn Chí Thiện quá  rõ rệt về sự che dấu chức vụ quyền hành của ông trong Ðảng Cộng Sản, và  mục đích ông Thiện sử dụng tập thơ Vô Ðề như một lá chắn chứng tỏ ông  Thiện là nguời Quốc Gia để hoạt động cho Cộng Sản ở Hoa Kỳ.  Có thể ông Nguyễn Chí Thiện, các bạn hữu của ông xếp đặt vai trò của  hai ông Trần Nhu, Minh Thi làm nhân chứng“đúng và thật” nếu âm mưu này  bị phanh phui ra. Do đó Trần Nhu và ông Minh Thi nói rằng ông Nguyễn Chí  Thiện là “thật” không phải giả. Phải chăng vì đây là một màn kịch Quốc gia và Quốc tế  ( vận động giải Nobel) nên cần phải “tạo ra nhân chứng” để che đậy “  cái giả” hay biến “cái giả thành thật”?. Cán bộ Cộng Sản lừa lọc bất cứ  ai, lừa lọc toàn thể dân tộc để bảo vệ đảng tồn tại lâu dài. Chúng  có đủ phương tiện báo chí, tiền bạc, và mưu kế lường gạt, bịp bợm, lưu  manh nhất để đánh lừa người Việt, nhất là người Việt hải ngoại.  Tiếp tay cho bọn cán bộ Cộng Sản trung kiên này gồm có các tổ chức chính  trị, liên minh kháng chiến ma mãnh, và lũ chính trị gia chạy theo thời,  xanh vỏ đỏ lòng, hợp tác hoạt động với cán bộ Cộng Sản thứ thiệt và một  nhóm văn nô bồi bút nằm vùng hải ngoại.
          ChuSa cũng sẵn sàng đón nhận mọi sự đóng góp thêm, kể cả sự phê phán của quí độc giả để giúp cho vấn đề lịch sử, một nghi án thơ văn, được sáng tỏ, rõ ràng. Biết đâu khi viết bài này về đến Việt Nam. Cục  Phản Gián hiểu rằng kế hoạch bịp bợm, dối trá của họ đã bị đổ vỡ, và  biết đâu mai đây khi tình thế thay đổi thì buộc lòng ông Nguyễn Chí  Thiện phải nói lên sự thật và trả lại tên tuổi của một nhà thơ vĩ đại  trong thế kỷ 20 của dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Chí Thiện hiện đang ở  Hoa Kỳ có anh ruột là một cựu sĩ quan VNCH ở tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ và chị em ruột. Chúng tôi đã nhiều lần đặt vấn đề ông Nguyễn Chí Thiện, người đã đến Hoa Kỳ ngày 1/11/1995, thật sự ông là ai?. Giờ đây, chúng tôi đưa ra câu hỏi Ai  là thi sĩ “thật” của tập thơ Vô Đề, một tập thơ mà chính ông Nguyễn Chí  Thiện cũng “không thể” đặt tên cho tập thơ vì tên Hoa Địa Ngục là do  người khác đặt rồi ông Thiện ung dung sử dụng.... Người viết bài biết rõ  kế sách, ý đồ chiếm đoạt của Cộng sản để xóa “tên Vô Danh” là tác giả  “thật” của tập thơ, và xin kính cẩn mong rằng những lý luận, lý đoán  trong bài này không bị hiểu lầm hay hoen ố. Nếu ta hiểu Cộng Sản thì  chúng ta cũng hiểu rằng chúng lợi dụng bất cứ một tình huống nào để đạt  mục tiêu tuyên vận chính trị hải ngoại, hầu tạo cách gỡ một thế bí cho  Cộng sản tìm đường lột xác (từ Đỏ sang Xanh).
          Ông  Nguyễn Chí Thiện, sinh năm 1939 năm nay 2004 là 65 tuổi. Biết tiếng  Anh, Pháp nhưng không biết trình độ cao thấp ra sao, có trí nhớ rất  mạnh, chưa hề bị bệnh lao và rất khỏe mạnh, có tài diễn thiết, hùng biện  nhiều giờ không mệt mỏi, được các ông Trần Nhu, Minh Thi, Bùi Duy Tâm  làm “chứng nhân” rằng đã biết ông Nguyễn Chí Thiện “trong tù” từ năm  1980. Và xác nhận rằng ông Thiện “chính là” tác giả tập thơ Vô Đề của tác giả Vô Danh.  Tất cả những gì ông Thiện khai về lý lịch thì rất sơ sài, ít chi tiết  và có thể nói là không rõ ràng, khá “một chiều” vì không ai có thể kiểm  chứng. Sau này, sau khi tiêu diệt Cộng Sản, người ta mới có thể hiểu rỏ  hơn về cái tung tích “bí mật” của ông Nguyễn Chí Thiện chăng?.  Ông Thiện đã nhận được giải thưởng quốc tế chưa..???, đã cầm khoảng 8  lạng vàng “khoảng 4,000 đôla” của Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh  giao cho tại Hải Phòng kèm theo là nhiều quà cáp giải thưởng khác nữa.  Sau đó, ông Thiện được nhà nước Cộng Sản thu xếp cho đi Mỹ và ông đến Mỹ ngày 1/11/1995, Đây là trường hợp hiếm có và duy nhất trong gần 60 năm Cộng Sản cai trị miền Bắc.
          Bài  viết này khá dài vì phải mổ xẻ, so sánh lại những bài thơ của cả hai  người Tác Giả Vô Danh và ông Nguyễn Chí Thiện, cho vấn đề luận bàn về  thơ Vô Đề vì có nhiều độc giả chưa có dịp đọc những bài thơ bất hủ, với  phần viết về thơ Vô Đề của Tác Giả Vô Danh( Tập Hoa Ðịa Ngục l) khác  biệt với phần viết về thơ có ký tên của ông Nguyễn Chí Thiện là những  bài trong cuốn Hoa Địa Ngục 2 hay là "Hạt Máu Thơ" xuất bản khoảng tháng  3 hay tháng 4, 1996. Trong một ngày đẹp trời của tháng 6/1979 đánh dấu cuộc gặp gỡ của người đàn ông lớn tuổi với một người “Anh”.  Ông khoảng trên 50 tuổi, gầy gò ốm yếu, nhưng với ánh mắt quắc thước  trao cho “người Anh” một tập giấy, bằng một giọng thản nhiên từ tốn, ông  nói bằng tiếng Pháp thật lưu loát với người Anh. Đại ý là ông muốn gởi  gấm tập thư của ông và mong người “Anh” sẽ phổ biến ra hải ngoại dùm,  đây là tiếng pháo lệnh cũng là  tiếng nói cho hàng triệu nạn nhân Cộng Sản, người này không ngỏ ý xin  bất cứ một ân huệ nào nơi người “Anh”. Dĩ nhiên người Vô Danh này không  yêu cầu người “Anh” “xin Cộng Sản ban nhân quyền cho người Việt Nam” ông  cũng không đòi “ hòa hợp hòa  giải bất bạo động” với Cộng Sản. Ông cũng hiểu rằng đất nước của ông  muốn thoát khỏi gông cùm Cộng Sản chỉ có một phương cách duy nhất là lật  đổ bạo quyền Cộng Sản bằng “bạo lực” thế thôi. Trong tình huống đó, nhà thơ Vô Danh không muốn để tên thật của mình vào tập thơ. Ông chỉ viết một bức thư  bằng tiếng Pháp “rất rõ ràng lưu loát” và không ký tên. Ông Thi Sĩ Vô  Danh cũng không hề trao hình ảnh nào cho người “Anh” hay bất cứ ai. Những  hình ảnh được in trong cuốn Hạt Máu Thơ về gia thế Nguyễn Chí Thiện và  đại gia đình cha mẹ đều là sự dàn xếp khoe khoan của cá nhân ông Thiện  mà thôi (hình ảnh đó không liên quan gì đến gia thế tác giả Vô Danh).  Trong mạng lưới Công an dày đặc ở Hà Nội và Bắc Việt thời đó, những bài  thơ của ông Thi Sĩ Vô Danh đã được tuyệt đối giữ bí mật, cấm thố lộ với  bất cứ ai, cấm phổ biến, nếu ai “nổi hứng” ngâm thơ, thì có nghĩa là sẽ  bị giết ngay và tập thơ cũng bị thủ tiêu. Hoàn  toàn khác với lời khoe khoan của Nguyễn Chí Thiện rằng ông có dịp “bàn”  với Phùng Cung về bài thơ “Anh Gặp Em” (sáng tác năm 1965) và Phùng  Cung đề nghị thêm chữ “thôi” để bớt “tội” cho tên y sĩ công an.
          Thi  sĩ Vô Danh là một danh nhân có cái nhìn sâu rộng về, vũ trụ, con người  và xã hội. Với sự hiểu biết của ông, ta có thể hiểu rằng: ông không cần  phải “bàn” với ông Phùng Cung hay với bất cứ ai về chữ “thôi” trong bài  thơ “Anh Gặp Em”. Khi nói lên hoàn  cảnh tù tội, đọa đày, đau khổ của hàng triệu người khiến ông “Thi Sĩ Vô  Danh” không thể gặp bất cứ ai để bàn về thơ. Nếu “Phùng Cung” có  thấy ông “Vô Danh” thì cũng phải tránh né hay tảng lờ vì công an có thể  bắt vì “tội” dám nói chuyện với thành phần “tù tội” xấu. Do đó chuyện  “bàn thơ” giữa ông Nguyễn Chí Thiện và ông Phùng Cung về chử“ thôi” hay  “tội?” là hình thức đánh bóng cho Nguyễn Chí Thiện vì Cộng sản có thói  quen là phải nổi danh “Kách mệnh”, để lất áp người khác. Sau này ông  Thiện còn khoe đã gặp và mạn đàm để bàn về thơ với Hoàng Minh Chính tức  Thượng Tướng Công An Phản Gián Trần Ngọc Nghiêm. Ông Thiện cũng tiếc rằng ông quen biết nhưng không được gặp Trung Tướng Trần Độ mà chỉ được nói chuyện qua điện thoại.  Ông Thiện nói vậy thôi, chứ đâu ai biết là ông Thiện và Tướng Trần Độ  “phê đảng để xây dựng đảng” đã có nhiều liên hệ sâu rộng thắm thiết, đã  cùng nằm trong một chiến dịch “dân vận hải ngoại” ?. (Ai cũng biết Trung Tướng Trần Độ (đã chết).  Nói về sự quen biết với Hoàng Minh Chính tức là Thượng Tướng Công an  Phản Gián Trần Ngọc Nghiêm, chủ nhiệm Hội Nghiên Cứu Mác Lê hậu thân của  Đệ Tam Quốc Tế kiêm lý thuyết gia hàng đầu của đảng Cộng Sản Việt Nam  và khi nói về nhân vật nổi danh tên là Hà Sĩ Phu "sĩ phu Bắc Hà" và các  hoạt động "chống đảng giả vờ" thì phải vạch trần tiểu sử của Hà Sĩ Phu  đích thực là Trung Tướng Công an Phản Gián Nguyễn Xuân Tụ họat động với  người hải ngoại). Mục đích của Tác giả “Vô Danh” không muốn đưa ra tên  tuổi để được nổi danh, nổi tiếng, nguyện vọng duy nhất của ông là chuyển  đạt những dự kiến tương lai, trong tập thơ viết bằng máu và nước mắt  của ông làm trong khoảng 20 năm trời, và ước mơ được nói lên nổi đau  chung của dân tộc Việt Nam với thế giới bên ngoài. Tập thơ đã thể hiện  sự đau khổ thầm lặng và ghê rợn của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới bạo quyền Cộng Sản công an trị!.  Chỉ có tác giả “Vô Danh” là người duy nhất có đủ tài năng thực hiện  những án văn thơ bất hủ, để phơi trần sự đọa đày trong ngục tù Cộng Sản  dã man tàn bạo đến mức khủng khiếp
          Thi  Sĩ Vô Danh đã chuyển ra hải ngoại những bài thơ hùng hồn là những bản  án kể tội Cộng Sản thì tập thơ này sẽ “tồn tại” với lịch sử văn học  trong dân gian, và được phổ biến thành tài liệu chống Cộng, trở thành  huyết thư hay “nhân chứng bia miệng” về tội ác Cộng Sản, và đó là phương  thức quan trọng và cần thiết không kém sự sáng tác.
Thơ Của Tôi
…………………………………
Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương 
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng 
Nó thật như tù, như đói, như đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỉ đỏ.
                   thơ Vô Đề - (1975)
          Hồ Chí Minh đã dạy Công an, Cán bộ và Quân đội Cộng Sản: “tất cả mọi người ngoài đảng đều là kẻ thù của đảng” và của chế độ “mắt chúng nhìn ai cũng hóa kẻ thù”!.  Lũ ma, quỷ Cộng Sản đã nhìn người “không cộng sản” hay là toàn thể dân  tộc Việt là kẻ thù của chúng, chúng đã coi sự tra tấn, tàn ác, giết  người dã man chỉ là trò chơi như giết ngóe. Ông Thi Sĩ Vô Danh, nhiều  năm tháng sống trong lòng Cộng Sản đã dạy ông biết rằng: Cộng Sản không  bao giờ khoan hồng, tử tế, thành thật, hay hòa giải hòa hợp, nhân quyền  bất cứ ai. Hể lọt vào tay chúng thì phải chết, chết chính là một giải  thoát ân huệ của “thượng đế”!. Đó là “thực tế cộng Sản” không ai có thể phủ nhận!.  Những người có quá nhiều kinh nghiệm về sự tàn ác của Cộng Sản, ai cũng  hiểu rằng: sống dưới chế độ Cộng Sản, chống chúng dù bất cứ dưới hình  thức nào đều phải lãnh án  chết. Chỉ đặc biệt riêng trường hợp ông Nguyễn Chí Thiện “làm thơ chống  đảng” mà vẫn sống phây phây, huy hoàng, khỏe mạnh, “không có bệnh lao”  thêm 16 năm nữa để được nhậu nhẹt với trùm Công an Cộng Sản Hoàng Minh  Chính, được mạn đàm với Chánh Sở Công an Hà Nội và quản giáo trại giam  tù cải tạo, được Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh tiếp tế tại Hải  Phòng, kèm theo 8 lạng vàng giá trị 4,000 đôla và lo lắng giúp cho đi  Mỹ, được học ăn, học nói, học chính sách chính trị, học đóng kịch cho  thật giỏi, học diễn thuyết, để rồi được nhà nước ta ưu ái “gửi”  đi  Mỹ, để được hải ngoại đón rước rầm rộ như một vĩ nhân, như một cứu tinh  của dân tộc, như một chính trị gia đại tài, đi đến đâu cũng được hoan  hô với những tràng pháo tay rộn rã, được quay phim chụp hình ảnh với báo  biếu, đăng tải tiếp ứng, được Mặt Trận Kháng Chiến Ma Hoàng Cơ Minh ứng  hơn 5 triệu Mỹ kim tiền đài thọ, tổ chức đi khắp nơi kể cả Liên Hiệp  Quốc, để “lạy van xin” Cộng Sản ban cho dân Việt Nam chút nhân quyền là  đủ!
          Vào  đầu năm 1980, Việt Cộng mới “nghe” những bài thơ Vô Đề trên đài BBC,  nhận thấy sơ hở không tác giả nên thừa cơ hội tức tốc tìm người để thay  thế cho tác giả Vô Danh. Vì tính kế hoạch kiếm người thay thế, nên Việt Cộng “không cần” phải tìm ra tung  tích, lý lịch tác giả Vô Danh. Nhưng Cục Phản Gián lại không được”  thông minh” nên dù có đọc toàn bộ tập thơ, cũng không rõ những chi tiết  quan trọng“ ẩn dấu” bên trong tập Thơ đợi dịp bừng sáng ở hải ngoại,  cách dùng từ ngữ trong tập thơ, các danh từ Triết Học (Thiền) trong các  bài thơ, cũng như các tín hiệu mà chỉ có một số người đặc biệt nào đó  mới khám phá ra được, hoặc tiểu sử cá nhân của ông được tỏ lộ là: con  một, độc thân, chỉ có cha mẹ già, trình độ Pháp văn thật thông thạo, lưu  loát theo lá thư ông viết kèm theo tập thơ, và tuổi tác đã cao.... Cộng  Sản Hà Nội khó có thể tìm được người tương đương về tuổi tác với ông  Thi Sĩ Vô Danh, luôn trình độ Pháp văn khá ở miền Bắc vào năm 1980.  Ba yếu tố: tuổi tác, trình độ Pháp văn, trình độ thơ văn khó tìm được  trong thành phần “bần cố nông”, vì chính sách tiêu diệt tất cả thành  phần trí thức, chỉ có thành phần đảng viên, cán bộ cao cấp với tiêu  chuẩn “thật bần cố nông” mới tồn tại. thì  làm sao đào tạo được người “đem chuông đi đánh xứ người” !. Trước năm  1979, không ai biết về Nguyễn Chí Thiện, chỉ sau khi ông Thi Sĩ Vô Danh  đã chuyển tập thơ ra hải ngoại và được in tại Hoa Kỳ sau năm 1979 nhiều  tên khác nhau được đặt cho tập thơ Vô Đề, mặc dầu Thi Sĩ Vô Danh không  muốn như vậy. Sau khi xếp đặt và “tạo” ra một nhân vật mới với cái tên  Nguyễn Chí Thiện trở thành tác giả để “ẳm trọn” tập thơ Vô Đề, Cộng Sản  đã thổii phồng, tạo danh, gây ấn tượng cho tên tuổi Nguyễn Chí Thiện  “chính là” tác giả tập thơ Vô Đề, sự thành công mau lẹ đến nỗi mỗi người  hải ngoại đều “yên chí” tác giả Vô Danh chính là Nguyễn Chí Thiện!.  Tiếp theo, Cộng Sản thu xếp người như các ông Trần Nhu và Minh Thi gài  khéo cho ở cùng trong “tù” với ông Nguyễn Chí Thiện, để ông Thiện ngâm  “thơ” cho họ nghe và gây ấn tượng là đã gặp thi sĩ thứ “thiệt”!. Tiện  đây, ChuSa cũng xin nhắn với Công an Phản Gián Hà Nội biết rằng: muốn bịp người Việt hải ngoại cũng khó lắm. Chuyện đời “đâu còn đó”.  Văn sỡi Công an Nguyễn Huy Thiệp đi Mỹ hồi tháng 9/1996, rồi lại về êm  ru vì chỉ có thời gian ngắn và Thiệp cũng không dám “gáy” khi phải đối  diện sự văn minh tân tiến của người Mỹ và người Việt hải ngoại. Dù cây kim  đươc che đậy khéo léo ở trong bọc, thời gian sẽ lòi ra huống chi thành  phần cán bộ háo danh ham lợi gian ngoan. Chúng tôi cũng nhắn cho Cục  Phản Gián biết rằng: kế hoạch nhà quê của Vẹm và cán bộ nhà quê Nguyễn  Chí Thiện bao giờ bịp nổi chúng tôi.
          Có thể nhiều độc giả đi trước tháng tư đen 1975!. Nhất  là những người trẻ tuổi không thể hiểu Cộng Sản tàn ác đến mức nào,  những người “thân cộng” binh vực Cộng Sản và nói rằng lập luận trên đây  có vẻ mơ hồ. Nhưng xin các bạn bình tĩnh suy luận mẫu tin nhỏ  dưới đây do Việt Cộng đăng tải như sau…...”Viện Kiểm Soát Nhân Dân ở Sài  Gòn mới mở cuộc điều tra, và cũng theo báo chí trong nước cho biết qua  một cuộc phỏng vấn Nguyễn Minh Chánh, Phó Giám Đốc Sở Lao Động, thì ông  này nói rằng một năm ông ký đến 9,000 quyết định đưa đi cưỡng bức lao  động, nên không có thì giờ để cứu xét từng hồ sơ. Một năm có tới 9,000  người bị bắt vì tội đi.... tản bộ ngoài đường và nhiều trường hợp bị  công an Cộng Sản đánh chết  kiểu “vô tội vạ”…. Dựa trên bảng thông tin trên, ta có thể phỏng đoán là  9,000 người này không mấy người được sống hay được tha mà trở về nhà.  Thí dụ không bị đánh chết ngay thì cũng bị giam cầm không án xử, không  thời hạn để bị bóc lột lao động cho đến chết. Trong chế độ Cộng Sản, Công an có toàn quyền bắt người bỏ tù không thời hạn, không xử án mà không cần biết có tội hay không. Chúng giết người vô tội vạ, hay là “giết trước báo cáo sau” hay không cần báo cáo là quyền “tiền trảm hậu tấu”. của Công An Cộng Sản . Vả lại ai cần để ý đến một xác chết?.  Năm 1947, Hồ Chí Minh ra tiêu lệnh (standing order) giết “hết Việt  Gian” thì có mấy chục vạn người bị bắt và bị thủ tiêu ngay trong đêm  tối, xác cho trôi sông, mà không bao giờ có giấy tờ sổ sách hay báo cáo.  Đầu năm 1961, Phạm Văn Đồng (do lệnh của Hồ) ký tiêu lệnh bắt giam “học  tập cải tạo” tất cả những thành phần bất mãn, bất hảo, chống đối, phản  động, phản “kách mệnh”, chửi cộng Sản, cán bộ mắc bệnh công thần... thì  Công an cứ việc theo đúng “tiêu chuẩn” đưa ra, rồi bắt hàng triệu nạn  nhân trong mọi thành phần xã hội đi học tập cải tạo trong hàng ngàn trại  tập trung... Hồ Chí Minh “chúc mừng năm mới” nghe như tiếng yêu tinh,  vì y “chúc Tết” này là chỉ thị giết và là bắt bỏ tù cả nước!. Ông Thi Sĩ Vô Danh viết về việc này để kể tội Hồ Chí Minh như sau:
Chuyên Chính Vội May
…………………………………..
Tiếng mừng năm mới, tiếng yêu tinh!
Ôi cái mùa xuân gieo khiếp kinh 
Vào trong tim óc, phá gia đình
Ngục tù dứng gấp không vơ xuể
Vạn ức Mường, Mèo, Thái, Thổ, Kinh!.
                   thơ Vô Đề (1962)
          (Ghi chú: Mường, Mèo, Thái, Thổ là người sơn cước vùng thượng du Bắc Việt. Người Kinh là người Việt.  Những người sơn cước bị công an Cộng Sản bắt đi tù khá nhiều vì họ quen  sống lối tự do, không thê chấp nhận Cộng Sản ngu dốt và trái với tự  nhiên, thiên nhiên. Cộng Sản thù ghét nhất người Mường tức Hmong.  Từ năm 1975 tới nay năm 2004 khoảng 250,000 người Hmong đã bị Cộng Sản  tàn sát.số còn lại chạy trốn qua biên gìới Lào tiếp tục bị truy lung, và  Ủy Hội Liên Hiệp Quốc cứu giúp và đang định cư tại North Carolina, Hoa  kỳ ). 
Từ  khi Người “Anh” nhận tập thơ và đem ra hải ngoại, Công an hoàn toàn  không biết ông Thi Sĩ Vô Danh là ai, tên gì, và Người “Anh” cũng im lặng  không nói !. Lãnh đạo Cộng Sản Hà Nội cũng không biết, và không cần biết cái gì đã xảy ra. Mấy tháng sau, người Anh cho phổ biến nhiều bài thơ Vô Đề trên đài BBC nhưng không cho biết tên tác giả.  Trong một dịp khác, người “Anh” đưa tập thơ này cho một cựu chính khách  Việt Nam Cộng Hòa (ông Châu Kim Nhân???) và tập thơ này đã đến tay  ông chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong. Ông Hồ Anh chủ nhiệm VNTP đã  cho in tập thơ này ngay để phổ biến theo sự mong ước của tác giả, với  tên tác giả là “Khuyết Danh”, dưới tên đề “Bản Chúc Thư Của Một Người  Việt Nam”, theo tinh thần của lá thư, cũng có nghĩa là “chúc thư” của  một người, đại diện cho hàng triệu triệu người Việt nam đang sống ngắc  ngoải dưới gông cùm Cộng Sản. Sau đó, có tin một người khác đã lẹ tay in  photocopie “đánh cắp” và in sang một ấn bản khác để...” thương mãi kiếm  lời” vào cuối tháng 9/1980. Bản in của VNTP thời đó chỉ bán với giá tượng trưng là $1.50 một cuốn và ông chủ nhiệm Hồ Anh đã lỗ một số tiền khá lớn.
          Ông  “Thi Sĩ Vô Danh” sinh khoảng 1920 hay 1925 và có thể đỗ Tú Tài Pháp  (Baccalauréat) năm 1943 hay 1944, trước khi người Pháp bị Nhật đảo chính  ngày 9/3/1945 với hầu hết các giới chức cai trị thuộc địa Pháp bị Nhật  cầm tù. Một vài sĩ quan cao cấp Pháp khác (tướng Alessandri) đã cố gắng  mang một ít tàn quân Pháp từ (Tông) Sơn Tây chạy bộ sang Vân Nam (Yunnan) và trú ngụ tại Côn Minh (Kunming). Thời xa xưa, trước năm 1945, rất ít người học và đậu Tú Tài Pháp. Học trong các trường phần nhiều phải theo chương trình Pháp. Tiếng Pháp đã khó, nhưng thi đậu hai phần Tú Tài Pháp có thể nói là thiên nan  vạn nan. Mục đích “ngu dân” của Pháp là hạn chế tối đa công việc đào  tạo nhân tài, thành phần trí thức bằng cách hạn chế tồi đa bằng nhiều  hình thức khó khăn để carn trở không cho mấy người được đỗ đạt, tốt  nghiệp trung học, rồi từ đó có thể nhập đại học. Chính sách thực dân quả thâm độc. Người Pháp không cần mở trường Đại Học tại Sài Gòn. Các gia đình khá giả miền Nam  thường có quốc tịch Pháp, có tên “Tây”, và gửi con đi Pháp học. Thời  đó, nhiều người miền Nam loại dân tỉnh, giới giàu có “trí thức”, nói sõi  tiếng Pháp hơn tiếng Việt và thường hãnh diện với quốc tịch Pháp của  mình. Nhưng thực dân Pháp lại mở trường Đại Học ở Hà Nội với mục đích kềm chế không cho người Trung và Bắc đi Pháp học. Nếu học đại học ngay tại Hà Nội thì người Pháp có thể theo dõi quan sát thanh lọc. Nếu “thân” Pháp thì sẽ học đại học suông sẻ, rồi ra làm “quan cho Pháp” hay công chức “ngạch” cao cấp. Nếu  manh nha hội họp chống Pháp thuộc địa, chống thực dân, gia nhập các tổ  chức đảng phái Cách Mạng.... thì sẽ được Sở Mật Thám Đông Dương (Sureté  Fédérale) chiếu cố ngay.
          Trong  Đệ Nhị Thế Chiến, từ 1940 đến 1945, số sinh viên đại học ở Hà Nội chỉ  có khoảng chưa đến 100 người. Nghiên cứu kỹ thơ của ông Thi Sĩ Vô Danh,  ta thấy ông là con trai “một”, con nhà khá giả, nên đã được song thân cố  gắng cho đi học trường trung học Pháp, có lẽ là Lycée Albert Sarraut.  Ngoài trường Lycée Albert Sarraut, còn có trường “thầy dòng” do các sư  huynh Thiên Chúa Giáo Puginier cũng dạy nhiều tiếng Pháp. Trường Lycée Albert Sarraut lấy tên viên toàn quyền thực dân Pháp nổi tiếng thực dân ngày trước.  Albert Sarraut đã có nhã ý “không xây dựng” bệnh viện, trường học tại  các vùng đông dân cư xứ Bắc Kỳ, để cho “dân Annam chúng chết bớt” để  khỏi gây ra hậu quả xấu về chính trị và xã hội!. Trường Bưởi dành riêng cho người Việt Nam cũng đã nổi danh một thời và cũng có dạy tiếng Pháp. Sau này, khi tái lập sự học tại Hà Nội năm 1948, 1949, trường Bưởi được đổi tên thành trường Chu Văn An và dạy nhiều tiếng Việt hơn tiếng Pháp. Trước năm 1945, một trường tư thục trung học khác có tên là Thăng Long, (Võ Nguyên Giáp đã từng là giáo sư trường này).
          Tiếng Pháp không “dễ” như tiếng Anh vì mẹo mực (grammar) rất phúc tạp.  Nội một việc “chia véc bờ” (verb) và phân tích mẹo mực, phân đoạn câu  cú, (analyse grammaticale và analyse logique) và ghi nhớ đến thuộc lòng  đã làm nhiều trẻ nhỏ Việt Nam  nhức đầu trong nhiều ngày đêm. Nói tiếng Pháp có vẻ... dễ nói, dù đó là  tiếng Tây... bồi, nhưng viết được tiếng Pháp trôi chảy, có đủ lý lẽ,  văn hoa, đúng mẹo mực câu cú, cần phải có trình độ thật cao và kinh  nghiệm thực tập hay làm việc, viết lách, có khi cao hơn trình độ Tú Tài  Pháp rất nhiều. Ngày xưa, những học giả như Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Duy  Khiêm, Trần Đức Thảo, Nguyễn Thế Truyền.... kể cả ông Đàm Quang Thiện  “vạn quốc đốc tờ hàm”, đã từng nổi danh trên văn đàn qua tiếng Pháp thật  giỏi và lưu loát, hơn cả nhiều người Pháp trí thức!. Ông  Thi Sĩ Vô Danh đã chứng tỏ một học lực uyên thâm với kiến thức quảng  bác già dặn trước khi Cộng Sản cướp chính quyền tháng 8, năm 1945 (năm  này ông Thiện mới 6 tuổi, Thiện sinh năm1939). Những độc giả nào  rành tiếng Pháp, nhất là các vị sống bên Pháp, đọc bản thư “tuyệt mệnh”  hay là di bút của ông Thi Sĩ Vô Danh với bút ký, thì có thể đánh giá  trình độ và kinh nghiệm tiếng Pháp của ông lá thơ viết như sau:.
          Monsieur!
C'est  au nom des millions de victimes innocentes de la dictature, déjà  succombés ou subissant encore une mort lente et douloureuse dans les  bagnes communistes, que je vous prie de faire publier ces poèmes dans  votre pays libre. C'est le fruit de mes vingt ans de travail. La plupart  en ont été créés dans mes années de détention. Je pense qu'à nous, les  victimcs, il appartient plus qu'à personne d'autre de montrer au monde  les souffrances incroyables de notre peuple opprimé et torturé à  merci...
De  ma vie brisée, il ne reste qu'un seul rêve, c'est de voir le plus grand  nombre possible d'hommes prendre conscience de ce que le communisme est  un grand fléau de I'humanité.
Veuillez agréer, monsieur, 1'expression de ma profonde reconnaissance ainsi que celle de mes compatriotes infortunés!
          Dịch: 
          Thưa ông!
Nhân  danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chính thể độc tài đã ngã gục hay  còn đang phải kéo dài cái chết chậm chạp và đau đớn trong ngục tù cộng  Sản. Tôi xin ông vui lòng cho xuất bản tập thơ này tại phần đất tự do  của quý quốc. Đây là kết quả của hai mươi năm làm việc của tôi. Phần lớn  được sáng tác trong những năm dài bị giam cầm. Tôi nghĩ rằng không phải  ai khác mà chính chúng tôi, những nạn nhân, có trách nhiệm phải phơi  bày cho thế giới thấy sự khổ nhục không thể tưởng tượng nổi của dân tộc  tôi còn đang bị áp bức và hành hạ thẳng tay...
Cuộc  đời tan nát của tôi chỉ còn một ước mơ, đó là được thấy nhiều người hơn  nữa trên thế giới ý thức rằng Cộng Sản là một đại họa khủng khiếp cho  nhân loại.
Xin ông nhận nơi đây lòng biết ơn xâu xa của tôi cũng như của đồng bào bất hạnh của tôi.
(Bức thơ không ký tên.)
          Sau  một thời gian dài sống trong chế độ ngục tù Cộng Sản, mà Thi Sĩ Vô Danh  còn viết được một lá thư bằng tiếng Pháp gọn ghẽ ngắn ngủi nhưng đầy đủ  ý nghĩa với tư tưởng cao cả như thơ của ông. Người viết bài này có hiểu  tiếng Pháp chút đỉnh, nhưng chỉ biết cúi đầu bái phục. (Chu-sa, người  viết còn được biết là ông Nguyễn Chí Thiện được bà chị tên là Hảo biết  tiếng Pháp, dạy tiếng Pháp cho ông Thiện trong khoảng 6 tháng, trước khi  đi Mỹ. Nếu học để nói viết lưu loát tiếng Pháp trong 6 tháng là điều  không thể thực hiện, 6 tháng học tiếng Pháp may ra đủ để đi.... chợ!.  Quả thật, ông Thiện không bao giờ đả động đến cái lá thơ viết bằng  tiếng Pháp này. Trở lại tâm nguyện của Thi Sĩ Vô Danh. Ông đã quyết tâm,  bằng bất cứ giá nào, để phổ biến được tập thơ ra ngoại quốc, ông phải  cho thế giới hiểu được tất cả tội ác của Cộng Sản và những tội ác đó của  Cộng Sản sẽ được phanh phui. Ông không nghĩ đến đề tên ông hay đặt tên  cho tập thơ. Vả lại đây cũng không phải là “một tác phẩm” văn học theo ý  nghĩa sáng tác thông thường. Mỗi bài thơ, mỗi câu thơ, mỗi chữ là một  tiếng nói căm hờn, một ngọn roi quất vào mặt chế độ Cộng Sản, thì cần gì  phải đặt tên!. Ý muốn của Thi  Sĩ Vô Danh là tập thơ như một tín hiệu được gởi đến những nguời mà ông  muốn gởi, đến tay người đọc ở hải ngoại và những điều ông viết ra sự  thật khốn cùng của người dân miền Bắc sống trong chế độ lao tù Cộng Sản  sẽ được thế giới biết đến là đủ!.  Nếu đọc tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục I) của ông Thi Sĩ Vô Danh, ta sẽ  thấy ông không bao giờ chủ trương “hòa hợp” hay “đòi nhân quyền” với  Cộng Sản. Thi Sĩ Vô Danh cũng hiểu Cộng Sản cỡ nhỏ từ quản giáo trại  giam trở lên đến cỡ gộc cấp cao như phó tiến sĩ Hà Sĩ Phu  tứcTrung  Tướng Công An Nguyễn Xuân Tụ, cán bộ giáo vận cấp thành ủy Đỗ Trung  Hiếu, viện trưởng viện nghiên cứu Mác Lê Hoàng Minh Chính, đại tướng  công an Nguyễn Hộ, Thượng tướng Công an La văn Liếm tức Bảy Liếm và  trung tướng Công an bảo vệ, cựu thứ trưởng Công an Lê Văn Quý tức Lê  Hồng Hà... toàn là một thứ sắt máu, bịp bợm, đểu cán như nhau, và ông Vô  Danhkhông cần phải gặp họ, “nói chuyện, mạn đàm” ( Ngược lại, ông  Nguyễn Chí Thiện được “nói chuyện, mạn đàm” với những tên trên đây, vì  ông Thiện cũng cao cấp ngang hàng với họ, như ông Thiện đã cho mọi người  biết). Ông Thi Sĩ Vô Danh  cũng hiểu rằng phải là cộng Sản  cỡ trung kiên nhất, phải tiêu diệt rất nhiều “kẻ thù của đảng, kẻ thù  giai cấp, và bọn phản động, phản cách mệnh”, nên mới leo lên được tới  những cấp bực cao cấp như vậy. Bọn này có thể lừa bịp, gạt gẫm và “giết”  bất cứ ai để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ Cộng Sản, vì chúng là bọn người  được sinh ra để lừa bịp và gây tội ác, thì có hành động tàn bạo và độc  ác mà chúng không dám làm.?, người dân càng khốn khổ thì chúng càng phung phí xa hoa.
          Đồng Lầy
……………………………………
Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy (cộng Sản)
là lừa thầy, phản bạn
và tuyệt đối trung thành vô hạn
với Đảng, với Đoàn, với Lãnh tụ (Hồ) thiêng liêng!
………………………………………………..
                   (thơ Vô Đề - Đồng Lầy - 1972)
          Cộng  Sản thích thú khi đánh lừa được người khác cho lọt vào bẫy để cho chúng  lột sạch sẽ, bỏ tù, tra khảo để bắt thêm người khác nữa, rồi giam cầm  bóc lột lao động cho tới chết. Thi Sĩ Vô Danh cũng thừa hiểu rằng chống  Đảng, chống Cộng Sản, là phải bị bắt, bị tra tấn và bị giết ngay, nói gì  đến được nhà nước khoan hồng và cho đi Mỹ dễ dàng!.  Nếu nhà nước cho đi Mỹ thì phải có kế hoạch phản gián và dụng ý chiến  lược bên trong, không thể khơi khơi “được” đi Mỹ để tiếp tục chửi nhà  nước cộng Sản!. Cộng Sản Hà  Nội cũng vui mừng đánh lừa người Việt hải ngoại: “cho chúng bay hoan hô  vỗ tay, tôn vinh, đề cao, trọng vọng, kính cẩn một cán bộ cộng Sản loại  gộc nhất, sắt máu nhất, nguy hiểm nhất, trung kiên nhất... cho vui”!.  Như vậy ta có thể thấy ông Thi Sĩ Vô Danh bắt đầu làm thơ tố giác tội  ác Cộng Sản và những thủ đoạn gian manh, ác bá của tập đoàn Cộng Sản Hồ  Chí Minh ngay từ những năm 1956,1957 cho đến năm 1978 . (Đây là kết quả của hai mươi năm làm việc của tôi - như ông đã viết trong lá thơ). Bằng chứng ông Thi Sĩ Vô Danh 20 tuổi hoặc có thể 21, 22... (tuổi  20...) vào năm 1945, khi Hồ Chí Minh và Việt Minh Cộng Sản cướp chính  quyền 19/8/1945, ngay ở đầu bài thơ trường thiên Đồng Lầy (lúc này  Nguyễn Chí Thiện mới có 6 tuổi – 1945, ông Thi Sĩ Vô Danh 20 tuổi hoặc  hơn) ông đã viết:.
          Đồng Lầy
Ngày ấy, tuy xa mà còn đấy
tuổi hai mươi (20) tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi...
bốn phía bao la chỉ thấy
chân mây, rộng mới tuyệt vời!
……………………………….
Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại ( mùa thu 1945)
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngờ cờ sao rực rỡ
Tô thắm màu xứ sở yêu thương?
          (thơ Vô Đề - Đồng Lầy - 1972)
          Năm 1945, Nhật đã đảo chính Pháp từ tháng 3, và đến mùa Thu tháng 8 tin  Nhật đầu hàng loan khắp nơi. Thanh niên tuổi hai mươi là ông Thi Sĩ Vô  Danh đang tràn đầy nhựa sống và, với một tâm hồn nồng nàn tình yêu nước,  ông có nhiều ước mơ cho dân tộc. Ông Thi Sĩ Vô Danh không mơ mộng hão  huyền viển vông, cũng như tất cả lớp thanh niên thời đó, ông Thi Sĩ Vô  Danh mơ đến một nước Việt Nam hùng mạnh trong một chính thể Dân Tộc,  Nhân Quyền và Nhân Chủ. Lúc này Bùi Bằng Đoàn, (bố Bùi Tín), làm Tổng  Đốc Hà Đông đã được Việt Minh móc nối để yểm trợ cho chúng cướp chính  quyền mà “không cho” lính dẹp. Ông Quản Dưỡng, Quản cơ tỉnh Hà Đông,  không biết sự thỏa thuận bí mật này nên đã ra lệnh cho lính nổ súng làm  cho Việt Minh cuống cuồng. Sau đó Việt Minh điều đình ngưng bắn, “hòa  giải hòa hợp”, rồi bắt ông và trả thù ngay. Ông Quản Dưỡng có thể là vị  anh hùng quốc gia chống Cộng đầu tiên và cũng là người quốc gia đầu tiên  bị cộng Sản thủ tiêu dưới chiêu bài “hòa giải hòa hợp”. Nhờ công lao  này mà Tổng Đốc Bùi Bằng Đoàn được Hồ Chí Minh cho làm chủ tịch quốc  hội, khi chết, cho làm lễ quốc táng, cả nước để tang 3 ngày. Bùi Tín,  lúc đó độ 19 tuổi, được “cụ Hồ” ưu ái cho tập ấm làm quan Cộng Sản, làm  Công an bảo vệ và cần vụ hầu hạ điếu đóm bưng ống nhổ cho “cụ” Hồ. Năm  1947, Tín được “cụ” Hồ cho đi học trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Nhờ giỏi  ngoại ngữ (tiếng Pháp) với học lực tú tài Pháp, lại được gia nhập làm  đảng viên thực thụ, lại được “cụ” Hồ giới thiệu gởi gấm, Tín được điều  động làm việc cho Cục Phản Gián. Năm 1947,1948 Bùi Tín làm đại đội  trưởng đại đội đặc công quyết tử chuyên tàn sát những người sáng giá tại  nông thôn vùng Quảng Trị, Quảng Bình. Mang cấp bậc đại tá kiêm phó Tổng  Biên Tập tờ báo “Chính Thống” của nhà nước Cộng Sản, báo Nhân Dân, thì  Tín chỉ có thể là Đại tá phản gián, không phải Đại tá chiến trận. Hiện  nay, ta chỉ cần đọc những bài viết của Tín trong tờ Phụ Nữ Diễn Đàn, hay  vài tờ báo khác, ta sẽ thấy Tín vẫn viết “lách”, nói những chuyện không  tưởng, “như” một phó Tổng Biên Tập báo Nhân Dân, không có vẻ gì là thay  đổi, đổi mới hay bỏ đảng.
          Cũng  từ tháng 8 mùa thu năm 1945. Thi Sĩ Vô Danh đã tuổi hai mươi (từ 20 trở  lên) đã biết trước và đã ‘Ngờ’ lá ‘cờ’ đỏ ‘Sao’…. vàng sẽ không làm gì  được để ‘Tô Thắm’ cho đất nước cho ‘Xứ Sở Yêu Thương’ của mình. Nhưng  toàn dân lúc đó hầu như chưa hiểu Cộng Sản là cái gì cả, cho nên một số  lớn trí thức họ đã tin và đi theo Cộng Sản để rồi lỡ bước sa chân ôm hận  ngàn thu, chứ người đã hiểu và biết Cộng Sản, thì lúc nào họ cũng nghi  “Ngờ” những lời tuyên truyền của bọn Cộng Sản, vì họ biết Cộng Sản chỉ  giỏi lừa bịp và sống trong sự dối trá. Thi Sĩ Vô Danh khi nhìn những ‘lá  cờ đỏ sao vàng rực rỡ’ ông biết rằng bọn hung bạo Việt Minh đã “lên  đường” với “cách mệnh tháng 8”, thẳng tay phá bỏ truyền thống, nền tảng  và giềng mối quốc gia dân tộcViệt Nam. Ông Nguyễn Chí Thiện lúc đó mới  có 6 tuổi và mới đi học lớp 1, nhưng khi khói lửa chiến tranh chống Pháp  nổi lên cuối năm 1946, thì ông Thiện, cũng như hầu hết thanh thiếu niên  Hà Nội và Hải Phòng và tất cả thị xã lớn miền Bắc vào đến Thanh Hóa,  lúc đó phải tản cư vì chiến tranh và tiêu thổ kháng chiến, và coi như  mất một năm học. Với cái tuổi 16 năm 1955, dù có “tốt nghiệp trung học”  đi chăng nữa, làm sao ông Thiện có thể hiểu nổi sự đau xót bị Cộng Sản  lừa gạt, sự tàn bạo của đấu tố cải cách ruộng đất giết nửa triệu người  (1955-1956) như ông Thi Sĩ Vô Danh?. Ta hãy coi ông Vô Danh “tả chân tướng” Hồ Chí Minh và cải cách ruộng đất trong bài “Không có gì quý hơn độc lập tự do”:
Không có gì quý hơn độc lập tự do
Không có gì quý hơn độc lập tự do!
Tôi biết nó, thằng (Hồ) nói câu nói đó!
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó!
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao?
Nó đầu tiên đem râu nó bện vào
hình xác lão Mao lông lá
Bàn tay Nga đầy băng tuyết giá
Cũng nhoài qua lục địa Trung Hoa
Không phải xoa đầu, mà túm tóc nó từ xa.
Nó đứng không yên, tất bật, điên đầu
Lúc rụi vào Tàu, lúc rúc vào Nga
Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh
……………………………………….
Đường nó đi trùng điệp bất nhân
Hầm hập trời đêm nguyên thủy
Đói khổ dựng cờ đại súy
Con cá lá rau nát nhầu quản lý
Tiếng thớt, tiếng dao vọng từ hồi ký
Mắt nó nhìn ai cũng hóa kẻ thù
Vì ai cũng đói mòn nhục nhằn cắn răng tạm nuốt
Hiếm có gia đình không có người bị nó cho đi suốt
Đất nó thầm câm cũng chẳng được tha
Tất cả phải thành loa
Sa sả đêm ngày ngợi ca nó và Đảng nó
………………………………………
                   thơ Vô Đề - (1968)
          (Cộng  Sản đưa thanh niên vào xâm lăng miền Nam đã bị Mỹ giết khoảng 3.2 triệu  người. Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Rober McNamara nói như vậy ở Hà  Nội ngày 8/11/1995). Cái quái gở và đểu giả của Hồ Chí Minh là bắt bỏ tù  cả nước, biến cả nước thành cái nhà tù khổng lồ, rồi nói đểu: “Không có  gì quý hơn độc lập tự do”!.  Hồ bắt cả nước vào tù, phá tan nát gia đình, phá nát truyền thống ông  cha Lạc Việt để áp dụng chuyên chính Cộng Sản, lạy Mác Xít, lạy Mao là  cha, là tổ tiên, hành hạ nhân dân cho đói khổ và bóc lột lao động cho  đến chết, rồi lại bắt cả nước phải thành loa để “ca ngợi nó và đảng  nó”... Thơ của ông Vô Danh tả cái đểu và cái ác của cộng Sản đến thế,  thật là tuyệt!. Để so sánh ta  hãy đọc bài “thơ”, nếu ta có thể gọi là thơ, bài thơ “bác Hồ” dưới đây  của ông Nguyễn Chí Thiện đọc vào buổi trưa thứ Bảy 11/11/1995, tại Trung  Tâm Eden, thành phố Fall church và có in trong tập Hạt Máu Thơ:
          Bác Hồ
Mấy chục năm xa nước,Bác không viết một phong nào về thăm gia đình trong nước
Cách mạng thành công, Bác vịn cớ bận, bất cần!
Bác Hồ ơi!. Bác không yêu nhà, Bác làm sao yêu được nước?
Không yêu người thân, Bác làm sao yêu được nhân dân?
Chỉ những kẻ ngu đần
bị mê lóa bởi tuyên truyền điêu trá
mới tin Bác là đạo cao đức cả
Yêu nước thương nòi, có nghĩa có nhân
Đến chị ruột Bác kia khi sống ở dương trần
…………………………………………….
                   thơ Nguyễn Chí Thiện - Hạt Máu Thơ – (1968)
          Đọc  lên ta thấy ngay ông Nguyễn Chí Thiện không biết làm thơ và cũng chưa  bao giờ biết thơ là gì, so sánh Văn phong và Khẩu khí giữa Thi Sĩ Vô  Danh và ông Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ Vô Đề và Hạt Máu Thơ thì ta  thấy rõ ràng nhất, ông Thiện cũng không hề bị cộng Sản bỏ tù bao giờ.  Trái lại ông Thiện chỉ kể “tội” Hồ Chí Minh “xấu đến nỗi” không viết thư  về thăm bà chị, đến nỗi bị bà chị (Thanh) từ bỏ, không nhận làm em  bà... ông Thiện vẫn quen mồm, quen miệng kính cẩn gọi “Bác Hồ” một cách  thân mến. Ông Thiện gián tiếp xác nhận “Bác” Hồ quá lo việc nước đến nỗi  không còn nghĩ đến người thân, không nghĩ đến lập gia đình. cái  chuyện Hồ Chí Minh có bà chị tên là Thanh, không viết thư cho chị, và  bị chị từ bỏ rồi vu cho bà Thanh là bị điên (tâm thần), có lẽ là chuyện  do Cục Phản Gián phịa ra để nói “xấu” “bác” Hồ với người hải ngoại. Vì  nếu chỉ có vậy, thì “bác” Hồ hiền khô, chẳng bỏ tù ai, chẳng đấu tố và  chẳng giết ai bao giờ!. Ông Thiện cũng khen “bác Hồ” của ông ranh ma, tinh quái, và tài giỏi đến nỗi Tây chưa bao giờ bắt nổi!,  “bác Hồ” của ông Thiện “giỏi” thế là “nhất” rồi còn gì?. Thi Sĩ Vô Danh  gọi Hồ “là Hồ ly tinh, là quỷ, là ma, là thú dữ”, là kẻ đê tiện, quỉ  quái, hút máu, hút mủ dân đen, nên khi gọi bọn Cộng Sản hay Hồ Chí Minh,  thì tiếng người không đủ chữ và cũng khó tìm trong ngôn ngữ, tiếng gì  nguyên si để gọi bọn Việt cộng
          Thi  Sĩ Vô Danh làm bài thơ dưới đây sau khi miền Nam thất thủ năm 1975:  Nhưng ông và các đồng đội của ông vẫn bền gan chiến đấu, cho dù ở bất cứ  hoàn cảnh nào và cho dù thời gian có làm cho con người họ luống tuổi  (Ta vẫn sống và không hề lẫn lú), nhưng với một ý chí sắt thép, ông Thi  Sĩ Vô Danh và đồng đội của ông vẫn sống và chiếc đấu cho đến ngày chiến  thắng, và họ nhất định phải chiến thắng, họ nhất định phải hát khúc hát  khải hoàn như bài thơ như sau:
          Cuộc Chiến Đấu Này.
Cuộc chiến đấu này chưa phân thắng phụ!
Ta vẫn còn đây, và sắt thép còn kia!
Chết chóc thầm câm, cốt nhục chia lìa!
Ta vẫn sống và không hề lẫn lú
Ta muốn nói với loài dã thú (cộng Sản):
Khúc hát khải hoàn ta sẽ hát thiên thu! 
                   (thơ Vô Đề - 1975)
          Cũng tại Fall Church đêm 19/11/1995. Ông Nguyễn Chí Thiện đọc bài “thơ” dưới đây có vẻ muốn “nhái” theo  bài thơ “Cuộc Chiến Đấu Này” của Thi Sĩ Vô Danh. Xin quí đọc giả bình  tĩnh đọc lời văn bài thơ “Cuộc Chiến Đấu” của Nguyễn Chí Thiện dưới đây  xem sao?.
          Cuộc Chiến Đấu.
Cuộc chiến đấu trong mấy chục năm qua và trong hiện tại
mang đầy tính chất bi ai
Mấy chục năm chỉ là thảm bại
Nhưng anh dũng vô song cực kỳ vĩ đại
Lũ vô lại, vô thần thẳng tay đày ải
Danh dự lương tâm đòi chúng ta chống lại
Dân tộc cơ hàn xiết rên quằn quại
Rất mong chờ được thấy ngày mai
Chế độ này quái vật một không hai
Gieo rắc bao là đau đớn họa tai
Không thể để chính quyền trong tay chúng mãi
Không thể để lũ giết người ngự mãi trên ngai 
Bằng giá nào phải cứu tương lai 
Đâu phải đơn thuần chuyện nếm mật nằm gai 
“Mười mất một còn”, tỷ số này sai! 
Nhưng dù hy sinh thế nào cũng không quản ngại 
Non nước này mới thấy được ngày mai 
Non nước này trông đợi những tài trai!
          thơ Nguyễn Chí Thiện - Hạt Máu Thơ - 1983
          Nếu  ta chỉ thay đổi những “từ” “vô lại vô thần” thành “thực dân đế quốc”,  đổi danh từ “chế độ” (dòng 9) thành “đế quốc”, đổi “ giết người ” (dòng  12) thành “đế quốc”... thì ta thấy bài "thơ" này là bài văn tuyên truyền  vận động kêu gọi và động viên thanh niên nhập ngũ chống đế quốc, thực  dân xâm lăng, dù phải "mười người thì hy sinh chết chín chỉ còn một",  thế nào cũng không quản ngại. Như vậy non nước này mới có ngày mai (cộng  Sản), nhờ những “tài trai”..., và khi đọc lên ta thấy văn phong thật sự  của những kẻ Bần Cố Nông, không có một cái gì tối thiểu là Thơ cả, phải  chăng Cục Phản Gián đã “biến” nó ra thành “thơ” của ông Nguyễn Chí  Thiện ?
Cuộc chiến đấu trong mấy chục năm qua và trong hiện tại
mang đầy tính chất bi ai
Mấy chục năm chỉ là thảm bại
Nhưng anh dũng vô song cực kỳ vĩ đại
Lũ thực dân đế quốc thẳng tay đày ải
Danh dự lương tâm đòi chúng ta chống lại
Dân tộc cơ hàn xiết rên quằn quại
Rất mong chờ được thấy ngày mai
đế quốc này quái vật một không hai
Gieo rắc bao là đau đớn họa tai
Không thể để chính quyền trong tay chúng mãi
Không thể để lũ đế quốc ngự mãi trên ngai 
Bằng giá nào phải cứu tương lai 
Đâu phải đơn thuần chuyện nếm mật nằm gai 
“Mười mất một còn”, tỷ số này sai! 
Nhưng dù hy sinh thế nào cũng không quản ngại 
Non nước này mới thấy được ngày mai 
Non nước này trông đợi những tài trai!
            ChuSa
còn tiếp 
            Lý Đông A Là Tác Giả Đích Thực Của Tập Thơ Vô Đề
Bài 2.
            ChuSa.
          Hiện  nay ở hải ngoại có nhiều vị “sợ” Cộng sản và hèn nhát đến mức chê những  người viết bài tố Cộng sản, mà là dùng lời lẽ thiếu lịch sự và lễ độ  với... Cộng sản!. Bọn bồi bút Cộng sản còn cố gắng “chụp mũ” những người viết bài tố Cộng sản là Cộng sản!.  Những người đã dại dột, lầm lẫn, tin Cộng sản thì cuộc đời phải tiêu  tùng là lẽ đương nhiên. Thủ đoạn dùng “thi sĩ” Nguyễn Chí Thiện đưa ra  hải ngoại đã khiến cho Cục Phản Gián và đầu não Cộng sản khá “thành  công”. Nhưng Cộng sản và Tổng Cục Phản Gián Hà Nội không thể thành công  trong việc tạo một Nguyễn Chí Thiện trở thành “Lãnh Tụ” của hơn 3 triệu  người Việt Nam tị nạn Cộng sản tại hải ngoại, để dễ chơi trò hòa hợp hòa  giải bịp, vận động “xin” Cộng sản “ban cho” nhân quyền, dân chủ và ý  chúng còn chửi sỏ rằng: Tụi tao cho bọn hải ngoại “chúng mày” hoan hô  một tay “Mỹ ký” (false, impostor) cho... vui!”. Phải công nhận cái gì  thì Cộng sản dốt, chứ cái trò lưu manh bịp bợm thì không ai qua mặt được  Cộng sản. Hàng triệu người đã sớm nhìn thấy mặt thật của Cộng sản ngay  từ tháng 8/1945, nên đã căm thù Cộng sản tàn phá đất nước và đưa cả nước  vào chiến tranh, chết chóc và gông cùm Cộng sản, muốn chiến đấu và  chiến thắng tiêu diệt Cộng sản, trước hết ta cần phải sống trước đã. Tuy  nhiên mỗi người có một nhiệm vụ trước lịch sử, Thi Sĩ Vô Danh đã làm  nhiệm vụ lịch sử với ngòi bút và vần thơ của ông, bằng ngòi bút với suy  nghĩ đoán trước, biết trước và sự tiên đoán vượt thời gian của Thi Sĩ Vô  Danh đã làm cho Cộng sản bị thảm bại ê chề, không thể đánh lừa người  Việt và người Mỹ. Hoài bão của Thi Sĩ Vô Danh khi làm thơ “tả chân” sự  tàn ác Cộng sản, ông muốn phổ biến tập thơ của ông ra thế giới bên  ngoài, để cho mọi người đều hiểu Cộng sản là gì và khi mọi người đều  hiểu rõ bản chất Cộng sản, thì chúng không còn có thể gạt gẫm hay lừa  bịp mọi người được nửa, sự suy nghĩ của ông đã thể hiện trong bài thơ  Thế Lực Đỏ như sau: 
          Thế Lực Đỏ
Thế lực đỏ, phải đồng tâm đập nát 
Để nó hoành hành, họa lớn
 
No comments:
Post a Comment