VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Monday, August 22, 2011


Re: Công hàm Phạm Văn Đồng

Gop y:
Kinh quý vi,

Khi đọc bài viết này ngưòi có ít hiểu biết, chút thông minh đều nhìn thấy rõ rằng tập đoàn việt gian cs đang chạy tội bán nưóc trưóc dư luận của nhân dân VN 1 cách gưọng gạo, vụng về khi họ dùng những luận điệu hàm hồ, nguỵ biện để che lấp bằng chứng quá rõ ràng về việc csvn bán nưóc cho Tàu.   Dù csvn cố gắng che dấu, bao che những bằng chứng bán nưóc của viet gian Ho Chi Minh (HCM), Phạm Van Đồng (PVD) cũng không thể xoa bỏ, phủ nhận tội bán nưóc của viet gian cs.   Kể từ khi CS cai trị VN, nạn buôn ngưòi, nô lệ tình dục mới xảy ra. Trong lịch sử VN chưa có 1 chế độ nào buôn dân bán nưóc như bọn viêt gian CS.

Tại sao csvn không lên tiếng biện hộ ngay sau khi tài liệu bán nưóc của HCM và PVD đưọc phổ biến trưóc dư luận quần chúng VN mà họ phải chờ 1 thời gian dài mới dám lên tiếng biện hộ?  Việc làm này làm ngưòi Việt nhớ tới sự kiện cuả MTKC của ông Hoàng Cơ Minh.  Nhưng ở đây có 1 sự khác biệt là phía MTKC đã thú nhận cái chết của ông Hoàng Cơ Minh phía csvn thì không. họ vẫn cố gắng dùng các luận điệu bịp bợm vụng về để bào chữa, chạy tội bán nưóc của HCM và PVD.   Giấy bán nưóc do  Phạm Văn Đồng đã soạn thảo và ký tên với sự đồng thuận của "Vua CSVN" HCM.  Sự việc hoàn toàn rõ ràng, dù bè lũ viet gian cs có nguỵ biện cách mấy càng làm biểu hiện rõ thêm mặc cảm tội ác buôn dân bán nưóc của chúng.  Nên biết rằng trong quá khứ , csvn thưòng dùng những luận điệu ngây ngô, ngớ ngẩn lừa bịp những dân quê chất phác, những ngưòi Yêu Nưóc ngây thơ về chính trị theo chúng để làm công cụ, bia đỡ đạn cho đảng và nhà nưóc việt gian CS...những luận điệu chúng đã dùng để bịp trong quá khứ khi nhắc lại làm nguòi ta nhận thấy ý nghĩa, luận diẹu của csvn thật khôi hài, ấu trĩ 1 cách thảm hại.  Chúng ta hảy thông cảm việc nguòi dân VN bị lừa trong thời gian đó khi xét về sự hiểu biết chính trị của ngưòi Viet vào lúc đó rất nông cạn, giói hạn... vì tình trạng thiếu thốn, lạc hậu của 1 nưóc Thuộc Địa đang đòi Độc Lập lại bị 1 bè lũ viet gian đưọc huấn luyện chuyên nghiệp bởi CS Quốc Tế bịp bợm, lừa đảo, 

Cổ nhân có câu " Một điều bất tín vạn điều bất tín."   Một kẻ đã có tiền án bịp bợm dối trá thì khó làm ngưòi ta tin.  Đàng này đảng csvn đã từng dối trá bịp bợm (gần 1 thế kỷ) ngưòi dân VN và cho tới nay họ vẫn tiếp tục lừa dối, bịp bợm.  Hãy thử nghĩ xem, với 1 đảng và nhà nưóc CS có 1 quá trình dài chuyên dối trá, lừa bịp..thì những luận điệu, lập luận của ho có thể đáng tin không?  Dĩ nhiên là không.  Chế độ viet gian CS vẫn giữ nguyên bản chất độc tài, gian dối bịp bợm, tham lam, tàn ác của chúng không hề thay đổi.  Bản chất tham tàn, dôi trá của csvn đã trở thành 1 hệ thống cai trị, trấn áp đưọc nghiên cứu ngày càng tinh vi và quy mô hơn.   Trong thời đại Thông Tin hiện nay,  với đà tiến hóa Khoa Học Kỹ Thuật, Tin Tức đầy đủ đã làm hiểu biết của con ngưòi mở rộng hơn trưóc rất nhiều.   Họ đâu dễ chấp nhận những luận điệu ngây ngô, ngớ ngẩn chạy tội bán nưóc của bè lũ viet gian cs. 

Hãy xác định đích chính của sự tuyên truyền này đánh vào đâu?   Nhắm vào các cđ ngưòi Việt ở Hải Ngoại. Lý do: CSVN muốn kiểm soát các cđ này, họ phải tìm cách gỡ tội bán nưóc của triều đại cs trưóc,     csvn đề cập tới vai trò Quốc Hội(QH) cs trong việc bán nưóc của HCM và PVĐ.  Tại sao csvn lại đề cập tới vai trò QH? Bởi vì csvn biết rõ ngưòi Việt tại Hải Ngoại không biết rõ hoặc hiểu lầm function của QH trong chế độ CS khi so sánh với QH các nưóc Tự Do Tây Phưong không cs.  Ngưòi ở VN thì đã quá rõ hệ thống đảng trị, độc tài của CS,  Vì thế khi nhắc tới QH, Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ), Tôn giáo Quốc Doanh(TGQD), Thành Đoàn(TĐ), .... họ đều biết rõ những tổ chức, cơ quan này chỉ là những công cụ của đảng, nhà nưóc viet gian cs dùng để trấn áp nhân dân VN nhưng nguoéi VVet ở HN thì dê bị lừa. 

Trở lại việc QH của viet gian cs, như đã trình bày, cơ quan này chỉ là 1 công cụ của đảng csvn dựng lên để bịp thế gìói rằng csvn cũng có đủ lệ bộ .. ra vẻ 1 nưóc có Dân Chủ.   Các chuyen gia chính trị, chính khách các nưóc Tây Phưong biết rõ việc này nhưng vì quyền lợi làm ăn khai thác, buôn bán với csvn họ cứ giả vờ như không biết khiến nhiều ngưòi Viet ngây thơ cứ mất thì giờ giải thích, kiện cáo nhung thủ doan bip bom csvn.  Nếu chịu để y thì chúng ta nhận thấy những chính trị gia Tây Phưong đa số là những kẻ hypocrites.   Họ chỉ khoác loác, phô trưong, nói những điều mị dân để kiém phiếu, khi dắc cử họ luôn làm ngưọc lại hoặc nuốt lời đã hứa với cử tri.  Họ chỉ để ý tới Nhân Quyền khi Quyền Lợi của Tư Bản nưóc họ bị đụng chạm.  Thí dụ:  ông cựu TT Bush Junior đã hùng hồn tuyên bố trong lần nhậm chức TT ở nhiệm kỳ 2 "....những nưóc mà ngưòi dân đang bị những thể chế độc tài cai trị, áp bức ....nưóc Mỹ sẽ không bao gìò quên họ..." làm nhiều ngưòi Viêt mừng rỡ cứ nghĩ Mỹ sẽ giúp VN thóat khỏi hoạ cs nhưng chờ hoài ..chỉ thấy Mỹ quan tâm tới Tự Do Dân Chủ của nưóc Iraq, Iran.  Bất ngờ 1 hôm, ông TT Bush Junior lại tuyên bố 1 câu làm nhiều ngưòi Việt ngỡ ngàng .." Ngưòi Việt không đáng hưỏng Tự Do vì họ không chịu chống cs ".   Tuy ho coi thuòng nguòi Viêt tại HN nhung các chính tri gia nay vẫn luôn mị dân để kiếm phiếu... hẹ thống QH Tây Phưong có những điểm khác biệt với QH của csvn là họ có những đảng đối lập với đảng cầm quyền, những đại biểu QH của những nưóc này muốn đưọc đắc cử họ phải làm việc.... tuong đói... đáp ứng nguyện vọng của cử tri nếu không họ sẽ thất cử ở nhiệm kỳ tới vì ngưòi dân không bầu họ nữa.  Ngưòi giúp họ có jobs Dân Biểu chính là ngưòi dân.

Trong khi đó, chế độ CSVN là  chế độ  của 1 đảng cưóp, (đảng csvn cai trị VN do cưóp đưọc chính quyền bằng bạo lực), nhà nưóc cs không hề đưọc dân VN bầu, tuy nhiên đảng và nhà nưóc cs đã độc tài cai trị VN hơn nửa thế kỷ.  Và trong gần thế kỷ qua ở VN không hề có đảng đối lập, chỉ có mội đảng csvn độc diễn, đảng trị.   Vì chỉ có 1 đang chính trị tại VN, nên QH của csvn gồm những tên cán bộ, đảng viên cs đưọc Đảng CS chọn để ra ứng cử đại biểu QH.  Những đại biểu này đã đưọc đảng cs sàng lọc và chọn đ" trở thành Đại Biểu QH.   Ngưòi dân VN bị bắt buộc phải đi bầu những ứng cử viên của đảng csvn chọn( theo Luật của csvn nhân dân VN bắt buộc phải đi bầu nếu không muốn bị buộc tội phản động hay chống phá nhà nưóc).  Qua những điều trên, cho thấy  QH VN dưói thời CS chỉ là 1 trò hề rẻ tiền, thực trạng QH cs đơn thuần chỉ là 1 công cụ cai trị nối dài của đảng csvn.  Cơ Quan Lập Pháp này đáng lẽ phải ở vị trí Độc Lập( QH của những nưóc Dân Chủ Tây Phưong không CS) nhưng ở hệ thống CS, nó lại Lệ Thuộc và chỉ biết tuân lịnh của đảng csvn.  Như thế những đại biểu QH csvn chỉ là những loại hữu danh vô thực(có tiếng mà chẳng có quyền hạn gì cả), ngồi chơi xơi nưóc.   Những đại biểu này, ngoài việc thi hành lịnh phát ra từ Bộ Chính Trị Trung Uong Đảng CSVN (BCT), Thành Ủy... đôi khi họ đưọc cho phép phát biểu phê bình linh tinh 1 chút để Medias Tây Phưong của Tư Bản làm ăn với csvn thổi len 1 chút để bịp Nhân Loại ra vẻ ở VN cũng phê bình nhà nưóc.   Lý do để họ khỏi bị lên án, mang tiếng là Tư Bản kết hợp với độc tài CS để vơ vét, đục khoét tài nguyên, khai thác nô lệ tại VN.   Vì yếu tố này nên mục đích của việc gỡ tội bán nưóc của 2 viet gian HCM, PVD rò ràng nhắm vào các cđ ngưòi Viet tại Hải Ngoại.

Bây giờ, chúng ta hãy thử bàn về lập luận chạy tội bán nưóc Hoàng Sa, Truòng Sa(HS, TS) của Ho Chi Minh (HCM) và Phạm Văn Đồng (PVD) có đủ sức thuyết phục ngưòi dân VN không?.  Đäy là sự giao ưóc, thoả thuận giữa 2 thế lực CS trên thế giới,vị thế của csvn là chư hầu của CS Tàu, 1 kẻ dưói(CSVN) dâng đất biển VN lên kẻ trên( Thiên Triều)  vì thế không thể nói là vô giá trị.  Dựa trên các điều kiện khách quan thực tế, thẳng thắn mà nói csvn chỉ có thể thất hứa, phủi tay, trở mặt với Tàu cs... nếu thế lực của csvn mạnh hơn hoặc ngang ngửa với Tàu thì họ mới có thể phế bỏ những giao ưóc cũ với Tàu.   Than ôi,  thế lực của csvn ai cũng biết chỉ là thế lực của 1 nưóc nhỏ ( cho dù có khoác loác, khoe khoang thành tích bao nhiều thì ngưòi ta cũng biết rõ thực trạng thế lực csvn) chỉ là 1 chư hầu của Thiên Triều Tàu thì việc phủ nhận HS, TS  thuộc về Tàu là 1 hành vi vô lý không thể thuyết phục đuọc ai . 

Mặt khác, cứ theo những lập luận của báo ĐĐK thì dưòng như họ muốn khoe  rằng " Mao và Chu Ân Lai đã bị mắc lừa HCM, PVD khi nhận HS, TS.." Đây cũng là 1 việc rất khó thuyết phục ngưòi ta phải tin bởi vì Mao và Chu tính về đẳng cấp CS thuộc bậc Thày, đàn anh của 2 việt gian HCM, PVĐ cả về trình độ thông minh, nghiệp vụ..hiểu biết, vị trí trong CS Quốc Tế những gì 2 tên "tiểu lưu manh" việt gian HCM, PVĐ làm những tên "tưóng cưóp" Mao, Chu đều biết(HCM đã từng tuyên bố rằng những gì Ho muon nói,tuyên bô.. thì Mac, Lê Mao đã nói, đã tuyên bố...trich HCM Toàn Tập do nhà xb Su Thât của csvn)  Ngoài ra, nên biết rằng CS Tàu có 1 hệ thống tình báo, quân sự, cố vấn khổng lồ ở đàng sau..chẳng lẽ họ không đủ khả năng để cung cấp tin tức cho Mao và Chu biết ở thời điểm Mao Chu nhận giấy bán nưóc HS, TS của HCM, PVD lúc đó HS, TS chưa thuộc về csvn? Điều này lại chứng minh sự vụng về, ngu dốt của bọn csvn( chúng quen cái thói làm ăn cẩu thả, dối trá, độc tài ở VN cứ tưỏng sẽ hiệu nghiệm trên thế giới).  Thêm nữa, trận hải chiến giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) và Hải Quân Trung Cộng ( TC) ở HS chẳng lẽ bọn Tàu nó không nhìn thấy sự việc nếu HS, TS thuộc về CSVN thì mắc mở gì Hải Quân của VNCH lại phải ra bảo vệ HS, TS? csvn lại lòi thêm cái dốt.

Qua sự việc này có thể khẳng định rằng Mao và Chu đã biết trưóc việc Mỹ sẽ giao VN cho cs cai trị trưóc đó khá lâu, có lẽ bọn Lãnh Đạo Tư bàn Mỹ, Tàu, Do Thái đã có những thoả thuận bí mật với nhau từ lâu về số phận VN vì thế bọn Tàu mới hoan hỉ nhận giấy bán nưóc của PVD và HCM dâng cho chúng.

Nếu tất cả những suy đoán trên không đúng... thì HS, TS hiện nay vẫn phải thuộc về của csvn.   Nhưng, ai cũng nhìn thấy rõ là... HS, TS nay đã thuộc về ngưòi Tàu.   Trên 2 đảo, Tàu đã cho xây dựng nhiều cơ quan, phi trưòng, hải cảng...quân đội Tàu hiện đang đóng quân trên đó...ngư phủ VN không dám bén mảng tới gần như thế thì làm sao có thể nói rằng HS, TS là của csvn?  Ở đây xin để ý là HS, TS là của csvn chứ không phải của nhân dân VN.  Sự khác biệt ra sao?Xin thưa là HS, TS cũng như nô lệ VN, tài nguyên, đất của VN bị bọn đảng viên cs coi như là tài sản riêng của chúng,  Chúng cho thuê, bán các tài sản, nô lệ, đất đai, tài nguyên VN ...Lợi Lộc chúng nhét vào túi riêng làm giàu.  Vì thế, hiện nay ở VN mới có nhiều Tư Sản, Đại Gia Đỏ, mức độ chênh lệch giữa ngưòi giàu và nghèo trong xã hội VN ngày càng to lớn khủng khiếp, điển hình là hình ảnh xảy ra hàng ngày ở VN, bọn gia đình, thân nhân cán bộ đảng viên csvn ăn xài hoang phí mua những xe hơi đắt tiền, máy bay, Yatch, sang trọng..đánh bạc ở những casino ở Macao, Honkong, Las Vegas, Monaco, Thailand... 1 đêm xài hàng chục,trăm ngàn, triệu dollars mua những căn nhà sang trọng hàng chục triệu dollars ..ở Mỹ, Europe, Australia, Canada...trong khi dân nghèo VN phải bán máu, thận, bán vợ con...để sống, nhiều ngưòi bị cán bộ cs cưóp nhà đất phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất ở các công viên, các mái hiên nhà, những sạp ngoài chợ...").        Nếu HS, TS thuộc về của csvn thì có lien hẹ gì tới ngưòi dân VN mà ngưòi dân VN phải quan tâm? Quyền Lợi về HS, TS chỉ có cán bộ, đảng viên csvn hưỏng..... ngưòi dân Viet có đưọc hưỏng cái gì trong đó mà chúng ta phải có bổn phận, trách nhiệm đẻ đấu tranh? Nếu đòi lại đưọc HS, TS, csvn lại đem gạ bán cho 1 thế lực, 1 nưóc khác..để lấy thêm 1 mớ tiền hay gán nợ...rồi ngưòi Việt lại phải lãnh cái trách nhiệm đi trả nợ hay đòi lại đất biển mãi mãi dùm cho csvn?

Kết luận: Luận điệu nói rằng thời gian HS, TS mà HCM, PVD bán cho Tàu là 1 văn bản không giá trị là luận điệu hồ đồ, hàm hồ không đủ sức thuyết phục ai cả, nếu không nói là vô lý.  Dù phía csvn có dùng đủ quỷ kế, lừa bịp nhân dân VN bao nhiêu đi nữa, câu châm ngôn bất hủ " ĐÙng Nghe Những Gì CS Nói Mà Hãy Nhìn Kỳ Những Gì CS Làm " vẫn lột trần mạt nạ lừa đảo, dối trá bịp bợm của bè lũ việt gian buôn dân bán nưóc CS trưóc nhân dân VN.  Trân trọng.

QH


--- On Fri, 8/5/11, Tu Tran <trantu60@yahoo.com> wrote:

From: Tu Tran <trantu60@yahoo.com>
Subject: [GoiDan] Re: Công hàm Phạm Văn Đồng


Liar
 

 
Công hàm Phạm Văn Đồng
Lữ Giang
Ngày 20.7.2011, báo Đại Đoàn Kết ở trong nước đã cho phổ biến bài “Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam” của nhóm PV Biển Đông. Bài này được các báo chí trong nước đăng lại và phổ biến rộng rãi. Nội dung của bài báo gồm hai điểm chính:
Trước hết, bài báo phản bác lập luận của Trung Quốc cho rằng bằng công hàm ngày 14.9.1958 chính phủ Việt Nam đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Bài báo nói Trung Quốc đã “giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.”
Sau đó, bài báo gián tiếp trả lời bài “Trở lại chuyện bán đất” của chúng tôi phổ biến ngày 13.7.2011, trong đó chúng tôi dựa vào hai luật lý để nói rằng công hàm của Thủ Tướng Văn Đồng có tính cách ràng buộc. Bài báo cho rằng công hàm đó không hội đủ điều kiện để áp dụng thuyết “promissory estoppel” (sự ràng buộc của lời hứa) mà chúng tôi đưa ra.
Láng giềng khốn nạn

Từ trước đến nay, nhà cầm quyền CSVN và báo chí trong nước đã tránh né không đề cập đến công hàm ngày 14.9.2011 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, mặc dầu đây là một vấn đề không thể không làm sáng tỏ. Bài “Trở lại chuyện bán đất” của chúng tôi đặt nhà cầm quyền vào tình trạng phải lên tiếng vì chúng tôi dựa vào những luật lý có tính cách thuyết phục để phân tích.
Bài lên tiếng của báo Đại Đoàn Kết tuy không phải là một tuyên bố chính thức, nhưng nó phải được sự chấp thuận của nhà cầm quyền mới được phổ biến, nên cũng có thể coi đó là tiếng nói của nhà cầm quyền. Qua bài này, chúng ta có thể biết được lối giải thích của nhà cầm quyền. Chúng tôi rất hoan nghênh về sự lên tiếng này vì nó có thể giúp chúng ta làm sáng tỏ vấn đề hơn và tìm ra được lối thoát để bảo vệ quyền lợi của tổ quốc tại Biên Đông.
Để độc giả dễ dàng theo dõi, trước tiên chúng tôi xin tóm lược nội dung của bài báo, sau đó sẽ phân tích các sự kiện và lý luận được bài báo nêu ra.
Thế lực thù địch

NÓI VÒNG VO TAM QUỐC
Vì các sự kiện và lý luận được đưa ra thiếu chính xác nên bài báo không được xây dựng theo một hệ thống chặt chẽ mà viết theo lối “hỏa mù”. Chúng tôi xin tóm lược 4 điểm sau đây được nêu ra trong bài báo:
1.- Bài báo đã đưa ra những bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc vào thập niên 1950s như chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Chu Ân Lai tuyên bố giải phóng Đài Loan, Hoa Kỳ dự tính tấn công Trung Quốc bằng võ khí nguyên tử, v.v. Từ đó bài báo dẫn lời của Hoàng Việt thuộc Quỹ Nghiên cứu Biển Đông ở trong nước để giải thích lý do tại sao có công hàm 1958: Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH - Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em".
2.- Theo bài báo. nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
3.- Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
4.- Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel" (mà chúng tôi đã đưa ra). Lời tuyên bố của VNDCCH, thiếu 2 điều kiện nên không thể áp dụng thuyết này được.
MỘT VÀI NHẬN XÉT
Bài “Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam” của nhóm PV Biển Đông là một bản “biện minh trạng”, chỉ đưa đưa ra những sự kiện và những lý luận giúp cho việc biện hộ cho chế độ, nên thiếu giá trị khách quan.
1.- Bối cảnh thật sự của Hà Nội lúc đó.
Bối cảnh “phức tạp và cấp bách” của Hà Nội lúc đó không phải là các vấn đề của Trung Quốc mà Hà Nội đã nêu ra. Bối cảnh thật sự của Hà Hội lúc đó là cần có viện trợ của Trung Quốc để đánh chiếm miền Nam. Nhưng theo Hà Nội, lúc đó Trung Quốc chủ trương “trường kỳ mai phục”, “tích trử lương thực” “chờ đợi thời cơ”... chứ không cho đánh liền. Vì thế, Hà Nội phải chấp nhận trao hai quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa cho Trung Quốc để đổi lấy viện trợ đánh chiếm miền Nam. Sau khi có sự hứa hẹn của Trung Quốc, tháng 1 năm 1959, Hội Nghị lần thứ 15 của Trung Ương Đảng đã họp và đưa ra quyết định “giải chóng miền Nam”.
Nội các Ba Đình

Tài liệu của Trung Quốc cho biết trong chuyến bí mật viếng thắm Bắc Kinh vào tháng 4/1965 cùng với Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn đã nói với Lưu Thiếu Kỳ, đại diện Trung Ương Đảng CSTQ rằng Việt Nam "luôn luôn tin tưởng rằng Trung Quốc là người bạn đáng tin cậy nhất của Việt Nam," và "sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam luôn đứng đầu về số lượng cũng như chất lượng." Lưu Thiếu Kỳ cám ơn Lê Duẩn và nói với Lê Duẩn rằng "chính sách của Đảng Trung Quốc trước sau như một, và Trung Quốc sẽ thỏa mãn tối đa những gì mà mà Việt Nam cần." Tiếp theo, ngày 16.5.1965, Hồ Chí Minh lại qua Trung Quốc gặp gặp Mao Trạch Đông tại Trường Sa, tỉnh lỵ của tỉnh Hồ Nam, và nói với Mao về những gì Việt Nam cần để có thể gửi người đi chiến đấu tại miền Nam. Mao hứa sẽ cung cấp "bất cứ sự trợ giúp nào mà Việt Nam cần."
Báo Đại Đoàn Kết nhìn nhận: “Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ.”
Nói tóm lại, không có viện trợ của Trung Quốc, sẽ không có ngày 30.4.1975.
2.- Công hàm 1958 đã gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc.
Chỉ cần đăng lại nguyên văn tuyên bố ngày 4.9.1958 của Trung Quốc và Công Hàm ngày 14.9.1958 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, chúng ta có thể thấy rõ ngay Hà Nội đã gián tiếp công nhận của quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 4.9.1958, nước CHNDTQ đã đưa ra lời tuyên bố gồm 4 điểm. Sau đây là điểm 1 liên hệ đến Hoàng Sa và Trường Sa
Quân đội nguỵ và Quân đội Nhân dân

Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc.”
BỘ CHÍNH TRỊ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CSVN: MỘT LỦ HÈN VỚI GIẶC ÁC VỚI DÂN

(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Tài liệu của Trung Quốc cho biết sáng ngày 21.9.1958, ông Nguyễn Khang, Đại sứ Việt Nam tại Trung-quốc, đã đến gặp ông Cơ Bàng Phi, Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc, chuyển giao công hàm ngày 14.9.1958 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng có nội dung như sau:
Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.”
Nhóm “PV Biển Đông” cho rằng Công Hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã viết rất thận trọng, không tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lập luận này không đứng vững: Khi Trung Quốc tuyên bố hải phận của Trung Quốc bao gồm cả hải phận của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chính phủ VNDCCH chẳng những không phản đối về điểm này mà tuyên bố “ghi nhận và tán thành” toàn bản tuyên bố của Trung Quốc. Điều này có nghĩa là Hà Nội đã gián tiếp công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc.
3.- Hội Nghị San Francisco 1951.
Báo Đại Đoàn Kết cho rằng tại Hội Nghị Hội nghị San Francisco 1951 Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  16 chữ dzàng

Đây là lối viết theo kiểu lập lờ đánh lận con đen. Hội Nghị San Francisco tại California, Hoa Kỳ, được tổ chức từ ngày 5 đến 8.9.1951, còn được gọi là Hội Nghị Cựu Kim Sơn, do 51 nước đồng minh trong Thế Chiến II họp lại để bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại Châu Á-Thái Bình Dương và quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Cả Trung Quốc lẫn Đài Loan đều không được mời tham dự vì giữa Mỹ và Nga không đồng ý ai đại diện cho nước Trung Hoa. Dĩ nhiên là VNDCCH cũng không được tham dự, trái lại, Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo đã đại diện cho Việt Nam tại hội nghị.
Trong hội nghị này, Thủ Tướng Trần Văn Hữu đại diện cho Chính phủ QGVN tuyên bố:
Và vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống tranh chấp, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
(Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour estouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur iles Spratly et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet-Nam).
Ông Andrei A. Gromyko, Ngoại trưởng Liên Xô, đại diện cho Trung Quốc, yêu cầu ghi vào Hiệp ước Hòa bình với Nhật một điều khoản nói “Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”. Với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này của Liên Xô.
Chúng ta cần biết rằng trong thế chiến thứ hai, năm 1938, Nhật Bản đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và đổi tên thành Hirata gunto. Năm 1939, quân đội Nhật Bản đổ bộ lên đảo đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa và đổi tên thành Itu Aba. Ngày 31.3.1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tuyên bố rằng ngày 30-3-1939 chính phủ Nhật Bản quyết định đặt quần đảo Trường Sa dưới sự kiểm soát của Nhật Bản.
Nhân dân đứng, Đảng quỳ

Việt Nam đã chấp hữu Hoàng Sa và Trường Sa từ 1884 đến 1951 dưới họng súng của Pháp. Nhật chỉ chiếm đoạt hai quần đảo này trong khoảng 5 năm, nên Hội Nghị San Francisco không phản đối lời tuyên bố về chủ quyền của Thủ Tướng Trần Văn Hữu, nhưng hội nghị này không phải là một cơ quan tài phán, có thể xác định chủ quyền thuộc về ai. Điều oái oăm là năm 1972, khi quyết định bỏ Miền Nam VN, Hoa Kỳ đã đem Miền Nam giao cho Bắc Kinh chứ không giao cho Hà Nội, vì biết rất rõ Hà Nội chỉ là cánh tay nối dài của Bắc Kinh.
4.- Sự ràng buộc của lời hứa
Báo Đại Đoàn Kết đã lặp lại hai lý do mà chúng tôi đã đưa ra từ lâu để cho rằng Công Hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý.
Lý do thứ nhất: Lúc đó hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VNCH. Tục giao pháp lý Latin có câu: “Nemo dat quod non habet”, tức không ai cho cái mình không có. Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc miền Bắc nên Đảng CSVN không thể giao cho Trung Quốc được.
Lý do thứ hai: Điều 23 của Hiến Pháp ngày 9.11.1946 quy định: “Nghị viện nhân dân (tức quốc hội)... chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.” Công hàm ngày 14.9.1958 không được quốc hội phê chuẩn nên không có giá trị.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu lại luật lý, chúng tôi thấy Công Hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng chỉ là một lời hứa bán (promesse de vente): Hà Nội hứa với Bắc Kinh rằng nếu Bắc Kinh viện trợ cho Hà Nội đầy đủ phương tiện để chiếm miền Nam, sau khi chiếm được, Hà Nội sẽ giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Trong bài “Trở lại chuyện bán đất”, chúng tôi đã đưa ra hai học lý để chứng minh rằng trên một khía cạnh, công hàm ngày 14.9.2011 có thể bị coi như có giá trị cưỡng hành, đó là nguyên tắc “Promesse de vente vaut vente” (Hứa bán có giá trị như bán) trong hệ thống Roman Law và nguyên tắc “promissory estoppel” (sự ngăn chận việc làm trái với lời hứa) trong Common Law.
Condom đại thắng 
Báo Đại Đoàn Kết nhìn nhận theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel", nhưng cho rằng lời tuyên bố của VNDCCH thiếu 2 điều kiện nên không thể áp dụng thuyết này được, đó là: (1) Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (2) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.
Nếu lý luận kiểu này, Trung Quốc có thể chứng minh dễ dàng hai điều kiện nói trên đã hội đủ: Dựa vào Công Hàm của Phạm Văn Đồng, Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội đầy đủ để đánh chiếm Miền Nam và Trung Quốc đã bị thiệt hại lớn khi Việt Nam không thực hiện lời hứa sau khi đã chiếm Miền Nam. Sợ Hà Nội sẽ lật lộng, Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa trước khi Hà Nội chiếm Miền Nam.
NHÌN VÀO THỰC TẾ TRƯỚC MẮT
Hôm 29.7.2011, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Raul Hernandez cho báo chí biết Philippines muốn phân định vùng tranh chấp Biển Đông. Ông nói: "Nếu chúng ta có thể xác định những phần tranh chấp, chúng ta sẽ có khả năng khai thác chung. Các khu vực không có tranh chấp thì đương nhiên thuộc quyền quản lý của quốc gia có chủ quyền”. Giải pháp này nghe rất giản dị, nhưng làm thế nào để phân biệt vùng tranh chấp và vùng không tranh chấp?
Ngựa Troix Made in China
1.- Trung Quốc coi chủ quyền Biển Đông là không thể tranh cãi.
Trong vụ kiện về khu vực đánh cá giữa Anh và Na Uy năm 1951. Na Uy coi vùng biển Anh đòi chủ quyền là vùng biển mà Na Uy đã khai thác qua nhiều thế kỷ và không có nước nào tranh chấp, nên phải coi đó là “vùng nước lịch sử” (historic water) và Na Uy có “quyền sở hữu lịch sử” (historic title). Lý thuyết này đã bị Công Ước LHQ về Luật Biển 1982 bác bỏ và thay vào đó vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý của mỗi quốc gia.
Mặc dầu bị Luật Biển 1982 bác bỏ, Trung Quốc vẫn dùng lý thuyết “vùng nước lịch sử” để coi Biển Đông là ao hồ của họ, tuy Trung Quốc không chứng minh được trong lịch sử họ đã chấp hữu một cách hợp pháp vùng Biển Đông trong “đường lưởi bỏ”. Nếu Trung Quốc tiếp tục xử dụng lý thuyết không được chấp nhận này, toàn Biển Đông trở thành “vùng tranh chấp” và không còn khu vực nào cho các quốc gia khác khai thác.
2.- Xác định quyền sở hữu về các đảo đá và đảo đá ngầm.
Các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều là đảo đá (rocks) hay đảo đá ngầm (reefs), không thể có cuộc sống tự nhiên được, nên rất khó chứng minh quyền sở hữu theo các điều kiện luật định.
Luật “Corpus Juris Civilis” của La Mã được ban hành giữa năm 527 và 565 đã xác định chủ quyền về các hải đảo nổi lên ở biển (Insula in mara nata) như sau:
“Một hải đảo nổi lên ở biển là vật vô chủ (nó không thuộc về ai) và vì thế nó trở thành tài sản của người chiếm hữu đầu tiên”
[An island which arose in the sea was res nullius (it belonged to nobody) and as such it become the property of the first occupant].
Điều luật này đã gây ra những tranh chấp không giải quyết được vì quốc gia nào cũng đưa ra những tài liệu chứng minh họ đã chiếm đầu tiên và bác bỏ tài liệu của phe đối kháng. Đây là trường hợp tranh chấp về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và nhiều nơi khác trên thế giới. Sau này, học lý và án lệ đưa ra những tiêu chuẩn về “sự thụ đắc bằng chiếm hữu”“sự thụ đắc theo thời hiệu” để xác định chủ quyền đồi với các đảo trên biển. Gần như không quốc gia nào trong Biển Đông đáp ứng được các tiêu chuẩn này nên Trung Quốc phải dùng bạo lực để chiếm hữu. Hiện nay, các quốc gia thuộc khối ASEAN đang cố gắng đưa ra một Bộ Luật Ứng Xử (Code of Conduct) để giải quyết các tranh chấp này.
Vietnam Today
3.- Vấn đề quần đảo Hoàng Sa
Trung Quốc không những đã chiếm hữu bằng võ lực quần đảo Hoàng Sa mà còn biến đảo này thành một đảo có thể có vùng đặc quyền kinh tế.
Theo khoản 3, điều 121 Công ước Luật biển 1982, các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì chỉ được có vùng lãnh hải tối đa 12 hải lý, không được phép có vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền về kinh tế. Đảo Hoàng Sa ở trong tình trạng này.
Tuy nhiên, sau khi chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc đã xây dựng đảo này thành một đảo mà con người có thể ở với những phương tiện phải đem từ bên ngoài đến và tuyên bố đảo này có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Đây là một sự nguỵ tạo.
Vì Hoàng Sa chỉ cách Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 230 hải lý, nên vùng đặc quyền kinh tế của Hoàng Sa do Trung Quốc tuyên bố đã chồng lên vùng đặc quyền kinh tề của Việt Nam và ngăn chận Việt Nam đánh cá trong khu vực này.
Theo nguyên tắc, khi vùng đặc quyền kinh tế của hai nước tiếp giáp chồng lên nhau như trên, phải chia đôi bằng một đường trung tuyến. Do đó, dù Hoàng Sa có vùng đặc quyền kinh tế, Trung Quốc cũng không thể lấn chiếm qua giới hạn luật định. Nhưng Trung Quốc có súng lớn, Việt Nam chỉ có súng nhỏ, nên Trung Quốc đã tự áp đặt quyền lợi của mình trên quyền lợi của Việt Nam.
ooOoo
Nhìn chung, Đảng CSVN đã coi việc đánh chiếm Miền Nam quan trọng hơn bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa thì đảng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử. Để cứu vãn tính thế, phải bám lấy Bộ Luật Ứng Xử (Code of Conduct) về Biễn Đông mà ASEAN sắp đưa ra để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam. Chịu áp lực và ký riêng với Trung Quốc bản Tuyên Bố về Ứng Xử (Declaration of Conduct) như mới đây, Việt Nam sẽ bị Trung Quốc đè bẹp.
Ngày 2.8.2011
Lữ Giang
Nghĩa trang Kiến Nghị
Danh sách tỷ phú VN
Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sãn có tài sãn vài trăm triệu Mỹ kimHãy xem lại những số tiền khổng lố của những CSVN. Làm sao chống tham nhũng khi CSVN là những tên tham nhũng chưa từng thấy trong lịch sữ.Phan Văn Khải và con trai trên 2 tỷ USD
1.  Nguyễn Thị Xuân Mỹ : Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Kiểm Soát 417 triệu USD
2.  Thích Trí Tịnh : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, TW GHP 250 triệu USD
3.  Lê Đức Anh : Cựu Chủ tịch nhà nước CSVN 2 tỷ 215 triệu USD
4.  Trần Đức Lương : Chủ tịch nhà nước 2 tỷ 100 triệu USD
5.  Đỗ Mười : Cựu Tổng Bí Thư CSVN 1 tỷ 90 triệu USD
6.  Nguyễn Tiến Dũng : Đệ nhát Phó Thủ Tướng 1 tỷ 780 triệu USD
7.  Nguyễn Văn An : Chủ tịch Ban Chấp Hành Trương Đảng CSVN 1 tỷ 70 triệu USD
8.  Lê Khả Phiêu: Cựu Tổng Bí Thư Đảng 1 tỷ 430 triệu USD
9.  Nguyễn Mạnh Cầm : Phó Thủ Tướng 1 tỷ 350 triệu USD
10.             Võ Văn Kiệt : Cựu Tổng Bí Thư Đảng 1 tỷ 15 triệu USD
11.             Nông Đức Mạnh : Chủ Tịch Quốc Hội 1 tỷ 143 triệu USD
12.             Phạm Thế Duyệt : Uỷ viên Thường vụ Thường trực TW Đảng 1 tỷ 773 triệu USDTrần Ngọc Liễng : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 900 triệu USD
13.             Hoàng Xuân Sính : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 784 triệu USD
14.             Lý Ngọc Minh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 750 triệu USD
15.             Nguyễn Đình Ngộ : Chủ tịch UBMTTQ 656 triệu USD
16.             Võ Thị Thắng : Phó Chủ tịch Trung ương HLHPN 654 triệu USD
17.             Ma Ha Thông : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 590 triệu USD
18.             Nguyễn Đức Triều : Chủ tịch TW Hội Nông dân VN 590 triệu USD
19.             Trần Văn Quang : Chủ tịch Hội Cựu chiến binh VN 587 triệu USD
20.             Nguyễn Đức Bình : Giám Đốc Viện Quốc Gia TPHCM 540 triệu USD
21.             Vương Đình Ái : Phó Chủ tịch Uỷ ban ĐKCĐVN 512 triệu USD
22.             Hoàng Thái : Thường trực Đoàn Chủ tịch 500 triệu USD
23.             Nguyễn Thị Nữ : Chủ tịch UBTW MTTQVN 500 triệu USD
24.             Nguyễn Tiến Võ : Uỷ viên UBTW MTTQVN 469 triệu USD
25.             Nguyễn Văn Huyền : Nhân sĩ thành phố HCM 469 triệu USD
26.             Nguyễn Xuân Oánh : Kinh tế Thành phố HCM 469 triệu USD
27.             Phạm Thị Trân Châu : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 469 triệu USD
28.             Thích Thiện Duyên : Giáo hội Phật giáo QN ĐN 469 triệu USD
29.             YA Đúc : uỷ viên UBTW MTTQVN 469 triệu USD
30.             Hà Học Trạc : Chủ tịch UBTW MTTQVN 400 triệu USD
31.             Hoàng Quang Đạo : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh 390 triệu USD
32.             Lê Hai : Tổng cục chính trị QĐNDVN 390 triệu USD
33.             Lê Truyền : Uỷ viên Ban Thường trực 390 triệu USD
34.             Lý Quý Dương : Dân Tộc Dao tỉnh Hà Giang 390 triệu USD
35.             Phạm văn Kiết : Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc 390 triệu USD
36.             Vương Đình Bích : Uỷ viên UBTW MTTQVN 390 triệu USD
37.             Trần Đông Phong : Thường trực UBTƯMTTQVN 387 triệu USD
38.             Trần Văn Đăng : Uỷ viên TƯ Đảng,Tổng Thư ký 364 triệu USD
39.             Hoàng Đình Cầu : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
40.             Lý Chánh Trung : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
41.             Ngô Bá Thành : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
42.             Trương Thị Mai : Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam 300 triệu USD
43.             Hồ Đức Việt : Bí Thư thứ nhất TW Đoàn TNCS 287 triệu USD
44.             Lâm Công Định : Uỷ viên UBTW MTTQVN 287 triệu USD
45.             Ngô Gia Hy : Uỷ viên UBTW MTTQVN 287 triệu USD
46.             Trần Văn Chương : Chủ tịch Hội người Viẹt Nam 287 triệu USD
47.             Trương Văn Thọ : Bác sỹ, dân tộc Chăm 287 triệu USD
48.             Đỗ Duy Thường : Vụ Trưởng vụ Dân chủ pháp luật 280 triệu USD
49.             Đỗ Tấn Sỹ : Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp 280 triệu USD
50.             Lê Văn Triết : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 280 triệu USD
51.             Lương Tấn Thành : Giáo Sư Bệnh viện Bạch Mai 280 triệu USD
52.             Nguyễn Phúc Tuần : Uỷ viên UBTW MTTQVN 280 triệu USD
53.             Phạm Thị Sơn : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 280 triệu USD
54.             Lê Bạch Lan : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 269 triệu USD
55.             Nguyễn Văn Vi : Uỷ viên UBMTTW 269 triệu USD
56.             Trần Thoại Duy Bảo : Uỷ viên UBTW MTTQVN 269 triệu USD
57.             Vũ Oanh Lão : thành cách mạng 269 triệu USD
58.             Nguyễn Thị Nguyệt : Cao đài Ban Chỉnh tỉnh Bến Tre 264 triệ USD
59.             Bùi Thái Kỷ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh 257 triệu USD
60.             Hoàng Hồng : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 257 triệu USD
61.             Lưu Văn Đạt : Tổng Thư ký Hội Luật gia Việt Nam 257 triệu USD
62.             Nguyễn Công Danh : T P. Hồ Chí Minh 257 triệu USD
63.             Nguyễn Túc : Uỷ viên Ban Thường trực 257 triệu USD
64.             Nguyễn Văn Bích : Uỷ Ban Kế hoạch Nhà Nước 257 triệu USD
65.             Hoàng Việt Dũng : Giám đốc Công ty TNHH 256 triệu USD
66.             Phan Quang : Hội nhà báo Việt Nam, Uỷ viên UBMT 256 triệu USD
67.             Vưu Khải Thành : Tổng công ty hữu hạn BITIS 256 triệu USD
68.             Cao Xuân Phổ : Viện Đông Nam á 254 triệu USD
69.             Chu Văn Chuẩn : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 254 triệu USD
70.             Đăng Thị Lợi : Chủ tịch Hội Thân nhân Việt kiều 254 triệu USD
71.             Hoàng Văn Thượng : Đại tá, Anh hùng quân đội 254 triệu USD
72.             Lê Quang Đạo : Trung ương Mặt trận Tổ quốc N 254 triệu USD
73.             Lợi Hồng Sơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 254 triệu USD
74.             Lý Chánh Trung : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 254 triệu USD
75.             Ngô Ngọc Bỉnh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
76.             Nguyễn Kha : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
77.             Nguyễn Văn Hạnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 254 triệu USD
78.             Nguyễn Văn Vĩnh : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
79.             Đinh Thuyên : Chủ tịch hội người mù Việt Nam 250 triệu USD
80.             Đoàn Thị ánh Tuyết : Thượng tá, Anh hùng quân đội 250 triệu USD
81.             Lê Thành : Phó Chủ tịch Thường trực 250 triệu USD
82.             Mùa A Sấu : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 250 triệu USD
83.             Trần Kim Thạch : Uỷ viên UBTW MTTQVN 250 triệu USD
84.             Lê Ngọc Quán : Mặt trận Tổ quốc tỉnh Vĩnh Phú 249 triệu USD
85.             Nguyễn Quang Tạo : Chủ tịch liên hiệp các hội hoà bình 249 triệu USD
86.             Nguyễn Văn Thạnh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 249 triệu USD
87.             Thào A Tráng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 249 triệu USD
88.             Trần Khắc Minh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 229 triệu USD
89.             Lê Minh Hiền : Thường trực UBTƯMTTQVN 215 triệu USD
90.             Hà Thị Liên : Thường trực UBTƯMTTQVN 214 triệu USD
91.             Ama Bhiăng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
92.             Âuu Quang Cảnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
93.             Bế Viết Đẳng : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
94.             Đàm Trung Đồn : Đại học Tổng hợp Hà Nội 200 triệu USD
95.             Đặng Đình Tứ : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
96.             Đặng Ngọc Bân : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
97.             Đinh Công Đoàn : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
98.             Đinh Gia Khánh : Viện Văn học dân gian 200 triệu USD
99.             Hà Phú An : Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
100.          Hoàng Đức Hỷ : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
101.          Lâm Bá Châu : Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp 200 triệu USD
102.          Lê Văn Tiếu : Việt kiều tại CHLB Đức 200 triệu USD
103.          Lương Văn Hận : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
104.          Nguyễn Văn Tư : Chủ tịch Hội Công Thương 200 triệu USD
105.          Phùng Thị Hải : Giám đốc Công ty TNHH Thuỷ Sản 200 triệu USD
106.          Rơ Ô Cheo : Dân tôc Gia Lai tỉnh Gia Lai 200 triệu USD
107.          Sầm Nga Di : Dân tộc Thái, tỉnh Nghệ An 200 triệu USD
108.          Thích Đức Phương : Thừa Thiên Huế 200 triệu USD
109.          Thích nữ Ngoạt Liên : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
110.          Trần Hậu : TWMTTQVN Trưởng Ban Nghiên 200 triệu USD
111.          Triệu Thuỷ Tiên : Dân tộc Nùng 200 triệu USD
112.       &

No comments:

Post a Comment

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================