Tác giả Bài Phê Bình : Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh
Thưa Quý Vị,
Khôn ngoan ở đời và nhất là trong chính trị dạy việc «Ôn cố tri tân» là quan trọng. Cám ơn quí vị Lữ Giang và Phan Anh Tuấn đã giúp cho chúng ta những tài liệu quí báu về vai trò của của Dương Văn Minh đối với Tổ quốc và nhân dân VN vào dịp kỹ niệm ngày mất Miền Nam năm 2009.
Xa thì từ 46 năm nay nghĩa là kể từ 1/11/1963, gần thì 34 năm kể từ 30/4/1975, tôi biết và nghe nhiều về ông Dương Văn Minh, xuất thân từ lính khố xanh khố đỏ (từ tuổi thơ tôi đã hiểu lính khố xanh, khố đỏ mặc áo dài xanh đỏ, quấn cạp chân xanh đỏ nên có tên như vậy, nếu sai sót xin quý vị niên trưởng chỉ bảo, xin cảm tạ. Xưa Tây thực dân mộ khố xanh khố đỏ làm lính đánh thuê chống Đức Quốc đô hộ Pháp) mà trong Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư của tiểu học VN có bài tả như sau (xin ghi lại cho hậu thế nghe vui) :
Ngang lưng thì thắt bao vàng(1)
Đầu đội nón dấu(2), vai mang súng dài,
Một tay thì cắp hỏa mai (3),
Một tay cầm giáo, quan sai xuống thuyền(4).
Thùng thùng trống đánh ngủ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa(5).
Chú thích : Lính thuê giúp Pháp đánh Đức khi trở về VN, Pháp biết ơn, cho thăng chức từ binh nhì lên úy, tá rất nhanh, và tin tưởng xử dụng vào Phòng II (2ème bureau của Tây bắt người Việt yêu nước). 1. Mặc áo dài xanh đỏ có đeo bao vàng như lính Nhà Nguyễn. 2. Nón lá nhỏ kiểu Huế sơn đỏ, xanh. 3. Có lẻ là lựu đạn. 4. Xuống thuyền đi Pháp. 5. Vợ chồng cha con từ giả nhau, khóc lóc.
Thưa Quý vị, 30/4/2009 năm nay tôi hân hạnh đọc 2 tài liệu lịch sử quí báu về ông đại tướng Dương Văn Minh của quí vị Lữ Giang và Phan Anh Tuấn. Cám ơn hai vị. Tôi xin góp ý thêm với từng tài liệu của Lữ Giang và PAT.
Trước hết xin nói về bài của Lữ Giang mà tôi đã lấy trên Vietcatholic đưa lên DĐ NVHN. Xin lưu ý: chữ màu xanh thẵng là của tôi (Nguyễn Thị Thanh), chữ đen xiên là trích dẩn của ông ông Lữ Giang Nguyễn Cần:
Ông cựu thẩm phán Lữ Giang viết : «Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh.» Câu nầy của LG có thể nói cố tình mập mờ như tiếng nói nhiều nghĩa của thẩm phán ? Nó có thể đánh lộn con đen. Chính là tên DVM đã làm cho thân phận nhân dân Miền Nam VN trở nên quá sức bi thảm. Bản thân ông ta thì đắc thắng khắp nơi, khắp thời trong chủ trương sát máu của ông. Ngay cái tính tham tiền tham danh của DVM cũng đã trúng mối với Hoa Kỳ. Chứ nếu không thì một tên vô học, vô lương, bất tài, độc ác như DVM ai lại cho ngồi vào cái ghế tổng thống của một quốc gia anh hùng bao giờ. Chỉ khi cái ghế TT trở nên ô nhục người ta mới kêu DVM mà biếu mà DVM ngu ngơ tưởng ngon. DVM là bất tài mà ra đời chỉ gặp toàn may mắn, như ý, cái may mắn của kẻ bất lương.
Lữ Giang Viết : «Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.»
Về chuyện 3 thùng phuy vàng và bạc thì nên tin lời của Đại tá Nguyễn Văn Y, vì ông nầy thân với gia đình ba tôi, tôi biết rõ, ông ta là người rất thanh liêm, ăn nói thành thật, đứng đắn. Nhà ông ĐT Nguyễn Văn Y ở trong cư xá Kiến Thiết, cuộc sống rất thanh đạm, hai ông bà có mời tôi đến chơi ăn cơm để ông nghiên cứu kỷ lá số tử vi giúp tôi.
Trong câu chuyện ông LG kể : TT Diệm sai đốt hết hồ sơ tội làm gián điệp của DVM, tha cho em ông DVM là Dương Văn Nhựt, rồi vẩn dùng DVM ngồi chơi xơi nước, là cụ Diệm muốn lấy đức hoán cải người. Nhưng Cụ Diệm lầm to vì bản chất của DVM là bất lương, phản phúc, ngu dốt và độc ác. Nó đâu biết ơn nghĩa tình của ai đâu, chỉ hám tiền tài danh lợi.
Vào thời ấy tuy chỉ là SV, tôi thường thấy mấy tổng trưởng đến bàn bạc với ba tôi mà phàn nàn rằng : «Những người có tài có đức làm được nhiều việc giỏi, thương ông cụ thì cụ không dùng lâu; cụ đem chức quyền giao trong tay kẻ ghét cụ với mục đích mua chuộc họ… mọi người đều than buồn…. Vì cho là chúng ‘đồng đồng’ ông cụ lên, nịnh bợ, ông cụ tưởng ngon, béo bở…. ! »
Trong phòng cụ Diệm có một tấm phãn ghế ngựa gổ (bộ ván một tấm rộng) dày làm giường ngủ cho cụ Diệm. Phía vách tường trên cao, cụ Diệm cho ghi hàng chữ : «Xin Chúa cho con biết đem hết đức độ, tài năng ra phục vụ dân tộc, nếu con không làm tròn bổn phận thì con xin lấy cái chết đền tội.» Câu chuyện do ba tôi kể cho nghe. Mọi sự đã xẩy ra đúng như vậy. Thật đau đớn.
Tôi xin lổi mà nói ông Lữ Giang là thầm phán mà nói như chẵng biết luật :
Thật quá thương mấy ông Tá rất thanh liêm và trung thành rất mực «Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.» hiền và thanh liêm.
DVM giết Cụ Diệm là do nó biết chắc chắn khi cụ trở về sẽ không tha tội cho nó, mất chức, nên nó mới lén lút lập mưu, sai đại úy Nhung đem xe tăng chạy gấp đi giết anh em cụ Diệm. LG cho rằng DVM là « hèn » vì để người ta hạ sát đại úy Nhung là LG lầm, vì chính DVM thâm độc, coi mạng người không ra gì dầu là người thân, nên sai người giết đại úy Nhung bịt miệng.
Lữ Giang viết «Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều.» Lữ Giang dám nói như thế sao? Chứ không phải Hoa Kỳ đã bắt tay với TC rồi nên đem Miền Nam VN đổi cho Liên Xô lấy Ai Cập Sao ? LG quên rằng TT Ngô Đình Diệm quyết giữ vững tự quyết quốc gia không cho Mỹ đổ quân và thả bom mà bị giết sao? Sẽ nói thêm về vấn đề nầy sau.
LG đã thuật lại những sự kiện lịch sử với những chi tiết tỉ mỉ trong đoạn văn trên đây chứng tỏ rằng chính phủ miền nam của nền Đệ II VNCH hoàn toàn là một chính phủ bù nhìn, lệ thuộc Mỹ từ ngày 1/11/1963 khi TT Ngô Đình Diệm bị tên đồ tể DVM ám toán. Như vậy VNCH chỉ là một quốc gia hoàn toàn độc lập, tự do, no ấm, hạnh phúc suốt từ 1954 đến 1963 là 10 năm dưới nền Đệ I VNCH mà thôi.
Tiếp theo đây là những lời kết tội DVM của cựu thẩm phán Lữ Giang : «Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm: (1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn.
Việc DVM «Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm …. » Ấp chiến lược là một đường lối nhẹ nhàng trong chiến tranh mà đã dem đến nhiều thành công kỳ diệu, hiệu quả không ngờ. Việc giết hai anh em TT Diệm đi đôi với việc ra tay phá hũy một công trình lớn lao an ninh quốc phòng và hữu ích cho nền Đệ I VNCH như vậy mà DVM phá hủy, rõ ràng nó chủ trương một chiến lược đại qui mô giật sập chế độ VNCH miền nam.
Ông viết : «….khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.» Ôi chao, sao ông Lữ Giang lại nói vậy? Chính Mỹ đã đòi đưa quân vào Việt Nam, đòi thả bom Bắc Việt, đòi thả chất hóa học Dioxin phá tan rừng rậm cây cối hoa màu để cộng quân không có chổ ẩn nấp và hết thực phẩm mà cụ Diệm đã phản bác kịch liệt rằng : «Đánh giặc thì phải có kế hoạch chi, có chiến thuật chi, chứ không thể thả bom, giết hại đồng bào tôi, phá tan đất nước tôi. Tôi cũng không thể mang tiếng đem lính ngoại quốc về giết đồng bào mình mà VN chúng tôi gọi là «rước voi về dày mã tổ»…. Hiện tại hai phe chúng tôi đánh nhau đều là người Việt. Nếu Mỹ đổ quân vào thì TC và LX cũng đổ quân thì còn gì, đất nước tôi sẽ thành chiến trường cho đệ tam thế chiến mất…. »… «Chiến đấu của chúng tôi là tự vệ chính đáng…
DVM có tội «Thứ hai là ngố: Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ: (1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách.
Để kết luận cho những điều phê bình của tôi, thật tình tôi cám ơn ông Lữ Giang đã đưa ra một vấn đề lịch sử quan trọng của dân tộc VN. Nhưng nói thật sự khơi dậy đống tro tàn vừa đau thương vừa bần thỉu làm cho lòng chúng tôi quá ư thương tâm nảo nuột. Tôi từng nói, giả như không có DVM sinh ra trên cỏi đời nầy để làm con quỉ phá hoại đất nước thì đất nước tôi sẽ tệ lắm là như Đại Hàn hay Đức Quốc, máu không đổ thành sông, xương không chất thành núi; quân đội có thể chết da ngựa bọc thây nơi sa trường mà không phải khổ nhục cải tạo chốn rừng sâu, nhân dân sống hạnh phúc no ấm, không phải bỏ thây hành triệu người ngoài biển cả, phụ nữ trẻ em không phải bị đầy đọa chốn lầu xanh hay làm tôi mọi người, NVHN không phải nạn lưu vong đất khách….đề ngày ngày thương nhớ quê hương. Vấn đề hệ trọng hơn cả là chúng ta đã mất quá nhiều thì giờ đề có thể kiến quốc, phát triển đất nước. Do đó đã đưa tới một bờ vực thẳm sâu, đau thương khôn tả xiết là hiện tình Trung cộng đang chiến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là tài sản ngút ngàn của Tổ quốc, đang lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải Miền Bắc, xâm lấn sâu vào gan ruột tủy sống miền Tây Nguyên quan trọng cho an ninh quốc phòng, kinh tế, môi trường, sự sống còn của Tổ quốc của dân tộc VN chúng ta. Nguyên nhân chủ chốt là tên tội đồ Dương Văn Minh.
Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh
Hàng Tướng Dương Văn Minh
VietCatholic News (30 Apr 2009 05:43)
Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng” , nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh. VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự” , Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại: Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1] Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể. Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này. Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2] Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”
Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!” Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi. Frank Snepp cho biết thêm: “Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng” . [4] Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội. Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151. Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập. Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại. Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại: “Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống...” Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại. Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5] Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt. Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự” . Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!” . Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh. Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30. Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!
Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên. Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:
Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm: (1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra. (2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế. Thứ hai là ngố: Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ: (1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền. (2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng! Thứ ba là hèn: (1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào! (2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại: - Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định. Tổng Thống Minh trả lời: - Các em chuẩn bị bàn giao đi. Thiếu Tá Tài hỏi lại: - Có phải là đầu hàng không? Tổng Thống Minh trả lời: - Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Thiếu Tá Tài nói: - Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?" Tổng Thống Minh trả lời: - Tùy ý các anh em. Nói xong cúp máy! (3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò... Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”. Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng” !
Lữ Giang
No comments:
Post a Comment