Đặc biệt trong bài này có đăng hình quốc thư và hai quốc ấn do Tô Vũ sưu tầm được.
(Traité de Protectorat)
Kể từ ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân (06-06-1884 )
- Ông Nguyễn văn Tường, Phụ Chính đại thần
- Ông Phạm thận Duật, Hộ bộ thượng thư
- Ông Tôn thất Phan Phan, đăc nhiệm ngoại giao, quyền Công bộ thượng thư
Sau khi trao đổi ủy nhiệm thư, các vị đaị diện đã thoả thuận với nhau những điều sau đây (19 điều)
Làm thành hai bản tại Huế ngày mùng 6 tháng 6 năm 1884
Ấn ký : Patenôtre - Triện : Légation de France Huế
- Đại Nam phụ chính đại thần: Nguyễn văn Tường ký
- Đại nam toàn quyền đại thần Phạm thận Duật ký
- Đại nam Phó toàn quyền Đại thần Tôn thất Phan ký
Hiệp ước ký xong , Patenôtre họp tất cả các triều thần chứng kiến việc huỷ bỏ quốc ấn do vua Tàu ban cho vua Gia Long ngày vua lên ngôi để tỏ việc nước Nam chấm dứt thần phục nước Tàu .
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ở Phú Xuân. Vua cử Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định sang Tàu cầu phong. Năm 1804, vua nhà Thanh sai Án sát Quảng Tây là Tế Bồ Sâm sang tuyên phong. Vua Thanh cải quốc hiệu Nam Việt thành Việt Nam lấy cớ rằng nước Nam Vìệt của Nhà Triệu (207-211 trước Tây lịch) gồm cä hai tÌnh Quäng Đông, Quäng Tây và nước Nam, nên vua Nhà Thanh cải quốc hiệu là Việt Nam cho khỏi lầm với tên cũ. Quốc ấn vua Thanh phong cho vua Gia Long là một chiếc ấn bằng bạc mạ vàng , hình vuông, có khắc hai cột chữ nho Nam Quốc Vương Chi Ấn và hai cột chữ Mãn Thanh (không hiểu chữ). Chiếc ấn này sau khi ký hiệp định bảo hộ 6-6-1884, trước sự chứng kiến của triều đình nước Nam, Patenôtre đã bỏ vào lò cho chảy thành kim khí tượng trưng chấm dứt sự thần phục nước Tàu.
Vua Minh Mệnh đúc 4 quốc ấn :
1) (MM-1) Năm Minh Mệnh thứ ba, tháng 10 (Novembre 1822), đúc ấn SẮC MẠNG CHI BỬU (Sắc Mạng Chi Bửu), bằng vàng nặng 8 ký 385 gam, hình vuông mỗi cạnh 137 milimét.
Ấn này để đóng trên bằng sắc, sắc phong và cáo chỉ trong nước.
2) (MM-2) Năm Minh Mệnh thứ tư ngày 16 tháng 3 năm 1823, đúc ấn HOÀNG ĐẾ CHI BỬU (Hoàng Đế Chi Bửu) , bằng vàng, nặng 10 ký 534 gam, hình vuông, mỗi cạnh 137 milimét.
Ấn này để đóng trên quốc thư giao thiệp với ngoại quốc.
3) (MM-3) ĐẠI NAM HOÀNG ĐẾ CHI BỬU, (Đại Nam hoàng đế chi bửu), bằng ngọc thạch màu xanh lục, không có hình, không có mô tả, không thấy ấn.
4) (MM-4) ĐẠI NAM HIỆP KÝ LỊCH, không rõ làm bằng chất gì không có hình, không có mô tả, không thấy ấn
1) (TT-1) ĐẠI NAM HOÀNG ĐẾ CHI TỶ (Đại Nam Hoàng đế Chi Tỷ) , bằng ngọc thạch màu xanh lục, tháng 4 năm 1844, hình vuông, cạnh 102 milimét, dùng để đóng trên quốc thư giao thiệp với ngoại quốc
2) (TT-2) ĐẠI NAM HIỆP KÝ LỊCH CHI BỬU (Đại Nam Hiệp Ký lịch chi bửu), bằng váng nặng 4 ký707, đúc tháng 10 năm Thiệu trị thứ 7
Quốc thư này ngoài hai trang bìa trước sau, cò 4 tờ khổ 34 x 28 centimètres, gặp đôi lại thành 8 trang khổ 17-28 cm. Màu vàng đỏ có in hình rồng mây. Trang bià trước, bia sau , cũng có in rồng mây, không viết gì, chỉ có đóng quốc ấn ở bìà trước, màu đỏ son rất đẹp. Ở trong là 8 trang viết một mặt (recto). Tô Vũ nhận xét quốc ấn này là quóc ấn Đại Nam Hoàng Đế chi Tỷ đúc thời Thiệu Trị (TT -1), bề cạnh của chiếc ấn hình vuông là 102 milimét
Quốc thư viết bằng chữ nho (chữ hán), mổi trang viết recto (một mặt trước). Trang cuối cùng trang 8, có ký tên (viết tên Hàm Nghi) và đóng quốc ấn như trang bià 1. Trên đây là hình bìa trước, có đóng quốc ấn Đại Nam Hoàng Đế Chi Tỷ (TT-1)
Hình quốc ấn này chụp thu nhỏ lại, Theo bản chính thì bề canh của chiếc ấn là 102 milimét
Sau đây là photocopie trang đầu của quốc thư đó :
Dịch ra chữ quốc ngữ :
Trang l - Đại nam quốc từ, Hoàng đế Nguyễn Phước Thăng ( Nguyễn Phước Thăng là tên thật của vua Hàm Nghi) túc thư kính vấn Đại Pháp quốc đaị Hoàng đế bệ hạ an hảo vạn phúc lượng giả. Bỉ quốc bổ thần Nguyễn văn Tường, Tôn thất Thuyết đẳng nông bính nhạ sự quôc gia khuynh nguy tệ phiền
Trang 2 - quý quốc hải lượng bao hàm bất nhẫn tuyệt diệt uỷ quả cung nhập kế đaị vị hựu phiền quý đô thống đại thần Cô Hoa Phúc, phó đô thống đại thần Ba di Đảm, khâm sứ đại thần tham thống, thượng thư đại thần Sinh Bích Quý Liệt hiệp lực cán hồi bỉ quốc để thông cảm tạ quý đô thống đại thần, khâm sứ đaị
Trang 3-4 - thần kinh dĩ cần biểu bá thức cung tu quốc thư ai bỉ quốc nhất luật ninh thiếp di sử, quả bí tiền kinh bố Đại a Di, phó đô thống đại thần Ba di Đản, vị kính biểu bá thần giác khiêm nhiên, ứng thỉnh biểu vị Bảo quốc công, tái niệm tỉ triệt thập tam tỉnh, thử niên lai thanh quốc quan, binh giữ Hắc Kỳ Đoàn luyện xâm nhiễu dân bất tụ sinh phiền hữu quý đô thống đại thần Cô Quá quý thât quyến quan thống tham tá đại thần Hoa Ni, quý sứ bộ thượng thư đại thần Sinh Bích , quý liệt tương cơ trù quả Thanh Binh thối triệt Hắc kỳ tán thứ hội kinh trung tao biến dân tình xung xung sự.
Trang 5 - Kham gian dại quý liệt đại thần tốc vi xủ trí tiện tỷ Triệt nhân dân bất chí kinh nhiễu hung ích lợi chi sự, quý liệt đaị thần tất liệt vi chi tợ tỉ huân lao tương hà báo xưng ứng diệc thỉnh biểu quý thất quyến quan thống tham tá đại thần Hoa Ni vi Lập quốc công, quý thượng thư đại thần
Trang 6- Sinh Bích vi Vệ quốc công, lãnh phụng tặng hảo thái trụ lập kim bội bài các nhất tệ quốc sớ bảo di thị dĩ hợp chu huân chương kỳ chung ngoại giáp bố tiếp ngoại quốc nam tỷ lưỡng chiấc đao nhi dân an nhật tấu cường thinh (...) quý quốc bảo hộ chi lực ư vô vùng kim túc (...)
Trang 7 - Không có viết gì
Trang 8 - Hàm Nghi nguyên niên bát nguyệt thập ngũ nhật.
Ấn son : Đại Nam Hoàng Đế Chi Tỷ
Sắc Mệnh Chi Bửu -
Hình chụp thu nhỏ lại. Trong bản chính, bề cạnh của quốc ấn là 137 milimét.
Chử nho viết :
Bảo Đại nguyên niên chính nguyệt sơ nhị nhật (1927)
Bằng sắc này tặng thân phụ của Tô Vũ, năm 1927
Loại 1 - Trước khi vua Gia Long lên ngôi, đã có một quốc ấn, do Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đúc. Nguyễn Phúc Chu xưng là quốc chúa, năm 1702 đúc ấn Đại Việt Quốc chúa Vĩnh ấn chi bảo, Ấn này không tìm thấy tung tích.
Loại ấn thứ 2, là ấn do nhà Thanh phong cho vua Gia Long năm 1804
Loại thứ 3, là 4 ấn đúc thời vua Minh Mạng
Loại thú 4, là 2 ấn đúc thời vua Thiệu trị
Loại thứ 5, là 2 ấn. đúc thời vua Đồng Khánh
Loại thứ 6, không biết có phải là ấn đúc thiệt không, hay là hình vẽ, trong sách Dragon d'Annam của Bảo Đại, có in hình một chiếc ấn nhỏ đề Việt nam Hoàng đế chi tỷ.
Bốn ấn tỷ nói trên (MM1, MM3, TT1, TT2) vua Bảo Đại năm 1937 đã cho phép ông Pierre Daudin chụp và in hình trên sách của ông xuất bản, sách Syllographie sino-annamite
Năm 1945, khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù huy Cận vào Huế để tiếp thu ấn kiếm, biểu hiệu vương quyền. Tài liệu liên can đến vụ tiếp thu đó, tập san Huế Passé et Présent số 37 trang 60 do Etudes Vietnamiennes của Nguyễn khắc Viện xuất bản năm 1973 có nói chiếc bửu ấn nặng khoảng 10 kilô bằng vàng. Như vậy thì trọng lượng trùng hợp với chiếc ấn Hoàng Đế chi Bửu (MM-1) đúc thời vua Minh Mệnh. (Nguyễn khắc Viện, một bác sĩ học ở Pháp, thân cộng, về nước hợp tác với cộng sản, đến cuối đời bị cộng sản vắt hết tranh rồi bỏ vỏ).
Đến nay thì 4 chiếc ấn, không biết ở đâu, ai giữ, nhưng theo Tô Vũ nghĩ thì chắc chắn ở trong tay của bọn cộng sản.
Tuy nhiên cũng có tin đồn rằng Hoàng đế Bảo Đại giữ một chiếc bảo ấn bằng vàng, chiếc ấn Hoàng đế chi Bửu (MM-2) hay chiếc ấn Sắc Mệnh chi Bửu (MM--1), cả hai đều bằng vàng đúc, chiếc trên nặng 10 ký 534 gam, chiếc thứ hai nặng 8 ký 285 gam. Nếu thật như vậy thì sau khi Hoàng đế Bảo đại từ trần, thì hoặc bà vợ người Pháp hoặc anh em con cháu Hoàng tử Bảo Long giữ. Điều này đến giờ vẫn là một nghi vấn.
Hết
Bài viết củaTô Vũ Paris 04052011
No comments:
Post a Comment