VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Friday, April 30, 2010

Xin chuyển đến quý vị cùng đọc một bài viết nhân ngày Quốc Hận 30 tháng Tư.

NHÂN NGÀY QUỐC - HẬN 30 THÁNG 4 : 65 NĂM NHÌN LẠI .


Lê Thành Nhân

Nhân Ngày Quốc Hận năm nay, đa số đều chỉ “nhìn lại 35 năm” thôi. Mặc dù tôi không phải là một sử-gia hay môt chính-trị-gia, tôi cho là không đúng vì đã bỏ sót một giai-đoạn lịch-sử quan-trọng chứa đựng những hi-sinh to lớn của những chiến sĩ Quốc-gia đấu tranh chống lại các thế-lực quốc-tế để giành lại độc-lập cho Dân-tộc trong và sau đệ nhị thế chiến. Tôi chỉ là một “thất phu” đã tận mắt chứng kiến cuộc nổi trôi của vận Nước qua 7 chế độ ở Việt Nam từ 1945 đến 1975. Chính mắt tôi đã bao lần nhìn thấy cảnh quê hương bị tàn phá, đồng bào bị đàn áp, khủng bố, tù đày, giết hại. Chính tôi cũng đã từng trải qua 10 năm trong ngục tù CS. Tôi muốn ghi lại dưới đây cho những ai không được trực tiếp chứng kiến như tôi.



I. KHỞI ĐẦU CUỘC CHIẾN QUỐC-CỘNG: 1945



A. Phía Cộng-sản: do Hồ Chí Minh cầm đầu, tuân hành chỉ-thị của CS quốc-tế do Liên xô và Trung Cộng lãnh đạo, chủ-trương chuyên chính vô sản và đặt quyền lợi gia-cấp vô sản (đảng CS) trên quyền lợi Dân-tộc.

B. Phía Quốc-gia: gồm các chánh đảng, lực lượng yêu nước theo chủ nghĩa “dân-tộc” (nationalism) và nguyên tắc dân chủ tự do kiểu Tây Phương (phần lớn dựa vào Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cuộc Cách-mạng 1789 của Pháp, đã được Liên Hiệp quốc biến thành Bản Tuyên ngôn Nhân-quyền Quốc-tế).

Hãy nói rõ thêm về chữ “quốc-gia”. Chữ “quốc-gia” không được nhiều người hiểu rõ, nhứt là các thế-hệ trẻ. Lịch-sử của chữ đó bắt nguồn từ chữ “Etat du Vietnam”=Quốc-gia Việt Nam, mà nước Pháp nhìn nhận độc-lập sau đệ nhị thế chiến. Những người chống lại Việt Minh và Cộng-sản quốc tế của HCM đều theo về phía chánh-phủ Quốc-gia. Sau tháng 12, 1946 thì “chánh-phủ VN Dân-chủ Cộng-hòa” của HCM bị đánh chạy về biên giới Việt-Trung. Cuộc chiến Quốc-Cộng khởi đầu từ đó và kéo dài đến ngày hôm nay.

Ý-nghĩa chính-trị của từ-ngữ “người quốc-gia” là “người theo chủ nghĩa dân-tộc”, vì chữ nationalism hay nationalist là do chữ gốc nation=dân-tộc mà ra, đối lập với “người theo chủ nghĩa quốc-tề cộng-sản” (internationalism) . Người theo “chủ nghĩa dân-tộc” hay “người Quốc-gia” thì đặt quyền lợi của dân tộc mình và quốc-gia mình lên trên hết. Còn người theo cộng-sản quốc-tế thì sẳn sàng hi-sinh quyền lợi tổ quốc mình để phục-vụ quyền lợi của các đảng cộng sản quốc-tế như Trung cộng, Liên xô. Người Quốc-gia không thể bán rẻ Đất Nước mình cho ngoại bang. Hiểm họa Việt cộng bán rẻ quyền lợi Đất Nước cho Nga cộng và Tàu cộng không cần phải đợi đến ngày hôm nay mới biết được, mà đã bắt đầu từ ngày HCM gia nhập đảng CS ở Pháp (1920). Vậy, câu chuyện HCM có công giành độc-lập cho Đất Nước (như đảng CSVN tuyền truyền) chỉ là một huyền-thoại để lừa bịp mọi người mà thôi. Cái gọi là “Tư tưởng HCM” mà đảng CSVN đang đề cao để thay thế chủ-nghĩa Marxist và Leninist bị nhân loại vứt vào sọt rác của lịch-sử, thực chất là loại tư-tưởng vọng ngoại, bán nước, phản dân-tộc. Việc đảng CSVN đã dâng đất, dâng biển Việt Nam cho Trung Cộng ngày nay đã là một thực tế không còn chối cải gì được nữa. Hàng chục ngàn đảng viên thực tâm yêu nước từng bị HCM lừa gạt đã xé thẻ đảng sau khi nhận biết sự thật nầy. Hiện-tượng nầy mỗi ngày càng lan rộng sẽ đưa đảng CSVN đến chỗ tan rã. “Đảng CSVN có thể lừa gạt một nười, hai người,.... một ngàn người, chớ không thể lừa gạt tất cả mọi người. Đảng CSVN có thể lừa gạt một lần, hai lần.. một ngàn lần, chứ không thể lừa gạt người ta mãi mãi” (dựa theo một danh ngôn của TT Lincoln)

Do không hiểu thấu đáo ý-nghĩa của chữ “quốc-gia” nên nhiều tổ chức đấu-tranh của người Việt Quốc-gia đã dùng những danh xưng lệch lạc như ”người Việt Tự do”, “người Việt Tỵ-nạn”, …. Cũng y như vậy, nhóm chữ “Cờ Quốc-gia” bao hàm đầy đủ ý nghĩa hơn nhóm chữ “Cờ VNCH”. Còn các chữ “Cờ Việt Nam Tự do” và “Liên-minh Việt Nam Tự do” thì hoàn toàn vô nghĩa.



II. CÔNG CUỘC CHIẾN ĐẤU GIÀNH ĐỘC-LẬP VÀ TỰ CHỦ CỦA NGƯỜI VIỆT QUỐC-GIA:



Sách sử của CSVN lừa bịp mọi người và viết: Việt Nam được độc-lập từ 2 tháng 9, 1945 nhờ công lao của HCM và đảng CSVN. Sau đây là các sự kiện lịch-sử mà chính người viết cũng đã tận mắt chứng kiến:

Sau khi đảo chánh Pháp đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, Nhựt trao độc-lập ngay cho Việt Nam lần đàu tiên với Chánh-phủ Trân Trọng Kim. Lá cờ Quốc-gia màu vàng được khai sinh từ đây (Cờ Quẻ Ly). Nếu Nhựt không thất trân thì cuộc diện thế giới ngày nay ắt đã khác.
Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp công nhận VN độc-lập trong Liên-hiệp Pháp: Chánh-phủ Quốc-gia được tái lập cũng với Quốc-trưởng Bảo-Đại như thời Chánh-phủ Trần Trọng Kim. Chánh-phủ Quốc-gia tồn tại từ 1948 đến 1955 rồi chuyễn sang đệ I Cộng-hòa, chấm dứt chế độ quân-chủ. Cờ Quốc-gia có nền Vàng và 3 Sọc đỏ từ đó (1948) đến nay.
Đệ I và đệ II Cộng-hòa (1955-1975).
Quân dân Miền Nam đã chiến-đấu vô củng anh-dũng để bảo vệ nền độc-lập của Việt Nam trước âm-mưu cướp nước ta của Nga, Tàu qua tay sai của chúng là CSVN. Hơn 200,000 chiến sĩ Quốc-gia đã hy-sinh để bảo vệ Tổ-quốc, cọng với cả triệu đồng bào vô tội. Con cháu chúng ta hãy nhìn cho thật kỷ sự thật hôm nay: tập-đoàn CS HCM là Việt gian đang bán Nước cho Tàu, hay Phía Việt Nam Quốc-gia bán Nước?

Trên đây là chưa kể thời kỳ từ 1862 đến 1945 với nhiều phong trào “dân-tộc” (Quốc-gia) yêu nước đã nỗi lên chống Pháp trước và sau khi đảng CSVN được khai sinh (1930), trong đó Việt Nam Quôc-dân đảng là thí dụ điển hình nhứt. Trong suốt hơn 4000 năm, dân tộc ta đâu cần có đảng CSVN mới đánh đuổi được ngoại xâm. Trái lại, đảng CSVN đã cổng rắn Trung cộng vào nhà cướp nước, hại dân chúng ta hôm nay. Sự chia rẻ Quốc-Cộng do đảng CSVN tạo ra đã tiêu hủy sự đoàn-kết dân-tộc vốn là yếu tố quyết định trong việc chống ngoại xâm bảo vệ độc-lập của ông cha ta. Ngày nào còn chế độ CSVN thì ngày ấy Dân tộc VN còn bị chia rẻ và bất lực, Đất Nước VN còn bị nô lệ ngoại bang. Hiện nay đảng CSVN còn đem sự chia rẻ đó để phá hoại cộng-đồng Người Việt hải ngoại bằng Nghị-quyết 36 của Bộ Chính-trị.

Xin hãy nhìn: Ấn độ nhờ không có đảng CS mà đã được độc-lập từ năm 1948 và đang trở thành một cường quốc với một dân tộc đoàn kết hùng mạnh



III. KẾT QUẢ ĐẾN NGÀY HÔM NAY:



Với sự yểm trợ hùng hậu của Liên xô và Trung Cộng, phía CS đã thắng người Pháp và Phía Quốc-gia (Hiêp-định Genève 7/1954), thôn-tính phân nửa nước ta từ vĩ-tuyến 17 trở lên. Về tuyên truyền thì phía CS biết sử dụng chiêu bài mị dân “giải-phóng thuộc-địa”. Nước Mỹ thì vừa ra khỏi Chiến tranh Triều tiên (1951-1953), không dám nhảy vào cứu Pháp bị sa lầy ở Điên Biên phủ, sợ làn sóng chống đối của dân chúng Mỹ vốn rất sợ chiến tranh và chết chốc.
Hoa Kỳ đã sáng suốt không ký vào Hiệp- định Genève (7/1954) và nỗ lực củng cố Miền Nam Quốc-gia bằng chế độ Việt Nam Cộng-hòa, dân chủ và tiến bộ như Tây phương.
Nền hành chánh và Quân-lực VNCH được thế giới xếp vào bực nhứt Đông Nam Á. Cảnh-sát QG của VNCH dẹp biểu tình tinh nhuệ hơn bất cứ nước nào khác. Dù đang chịu đựng chiến tranh, kinh tế VNCH chỉ đúng sau nước Nhật. Trước ngày CSBV đem 12 sư đoàn vào bức tử Miền Nam, không có bất cứ dấu hiệu nào khiến cho Miền Nam phải thất trận, ngoại trừ sự bội ước của chánh khách Hoa Kỳ từ khước cung cấp súng đạn cho Quân-lực VNCH như đã cam kết.

Vì nghe theo cố vấn của Kissinger, Hoa Kỳ đã sai lầm thảm hại khi quyết định rút ra khỏi Việt Nam và Đông Nam Á, giao cho Trung Cộng vai trò làm “cai thầu” khu-vực, đồng thời trục lợi từ thị trường tiêu thụ của hàng tỷ người Tàu.

Kissinger đã phạm 3 lỗi lầm chiến-lược quan trọng :
a. Lần đầu tiên trong lịch-sử mình, Hoa Kỳ đã phải mang vết nhơ phản bội đồng-minh mình. Đệ nhứt cường quốc Hoa Kỳ từ nay không còn đáng tin cậy nữa trên chính trường quốc-tế.

b. Không tiên đoán nỗi khã năng lớn mạnh nhanh chóng của nước Tàu. Hoa Kỳ đã vỗ béo con “hổ Trung cộng” để bây giờ nó sẽ trở lại ăn thịt mình.

c. Không biết được trử lượng khổng lồ về tài nguyên thiên nhiên (dầu mõ) của vùng Biển Đông. Số tài-nguyên nầy (phần lớn là năng lượng) có khã năng đưa Trung cộng lên hàng đệ nhứt cường quốc thế giới và đánh bại Hoa Kỳ. Hiện Trung cộng đã đem tàu chiến, tàu ngầm đến trấn giữ: nếu muốn trở lại, cái giá mà Hoa Kỳ phải trả chưa chăc là nhỏ.



IV. CÁC BIẾN-CỐ LỊCH-SỬ BẤT LỢI CHO PHÍA QUỐC-GIA



1. Tập-đoàn HCM (HCM, Lê Hồng Phong, Trường Chinh, …..) được Nga, Tàu đào tạo để đem phong trào CS Quốc-tế về quảng bá ở Đông Dương (1920-1945). CS Quốc-tế được tổ chức và lãnh-đạo liên tục.

2. Trung Cộng chiếm Trung Hoa Lục địa (1949) làm hậu phương vững chắc cho VC. Trước 1949, quân Pháp-Việt đã chiếm ưu-thế ở Đông Dương.

3. Pháp bị phe CSQT (Nga-Tàu) đánh bật khỏi Đông Dương (1954). Hoa Kỳ không tiếp cứu Pháp sau trận Điện Biên phủ.

4. Hoa Kỳ rút khỏi Đông Dương và gián tiếp giúp cho con “Hùm Trung Cộng” lớn mạnh (từ 1972 tới nay) bằng chánh-sách giao thương.

5. CSVN được phe CS quốc-tế viện trợ quân-sự vô giới hạn. Phe thế giới Tự do lo cho quyền lợi của chính họ trước nhứt. Áp lực của dân chúng trong chế-độ dân chủ tạo sự thiếu liên tục trong chánh-sách đối với đồng minh., trái ngược với chế độ độc tài của CS.

6. Chế độ thực dân chủ-trương tiêu-diệt hết các nhà lãnh-đạo Quốc gia có tài và không cho phép đào tạo hàng ngũ lãnh đạo mới. Cuộc khủng hoảng lãnh đạo của chúng ta còn kéo dài đến ngày hôm nay.



V. HIỂM HỌA HÔM NAY: CÁC HÌNH-THỨC XÂM-LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG



1. Mất lảnh-thỏ, lãnh hãi, Hoàng sa , Trường sa, tài nguyên kinh-tế trên thềm lục địa. Chưa chi mà đồng bào ta ở nhiều tỉnh Miền Trung đã bắt đầu chết đói vì không được phép đánh cá ở những nơi mà ông cha họ đã từng làm ăn từ mấy trăm năm nay. Thềm lục địa VN hiện là một trong những nơi có trữ lượng dầu mõ lớn nhứt thế giới.

2. An-ninh quốc-phòng: VN hoàn tòa bị Trung cộng bao vây kín, không có lối thoát.

3 Mất hải lộ chuyễn vận huyết mạch giao thông giữa châu Âu, Châu Úc và châu Á đi ngang hải phận VN, tác hại nặng nề đến nền kinh tế quốc-gia VN.

4 Các hợp-đồng cho thuê đất rừng 50 năm đương nhiên biến VN thành một thuộc địa của Tàu.

5 Với các dụ án khai thác quặng mỏ, xây dựng nhà máy, hạ tầng cơ sở được giao cho các “công-ty”Tàu thầu thì hàng trăm ngàn lính TC ngụy trang là công nhân lập làng, lập chợ khắp nơi như chính trên đất nước Tàu.

6. Chủ trương xua đàn ông Tàu qua lấy gái Việt đẻ Hán hóa dân ta.

7. Tuồng (dumping) hàng hóa hư hỏng, độc hại qua đầu độc người Việt Nam, gây hậu quả di truyền lâu dài vô cùng nguy hiểm cho nhiều đời con cháu chúng ta (còn hơn chất đọc da cam nhiều lần).

8. Phá hoại nặng nề nền kinh tế VN: nền công kỹ nghệ sản xuất của VN bị phá sản vì không cạnh tranh được với hàng lậu TC, ngân sách quốc-gia thì thất thu…Mà hễ thất thu thì phải chạy qua Tàu xin viện-trợ,… nên không mong gì thoát ra khỏi được sự lệ thuộc vĩnh viễn vào mẩu quốc Tàu! Đây là hình-thức “xâm-lược” vô cùng hiểm độc.



VI. THỬ VẠCH RA VÀI PHƯƠNG-SÁCH CỨU NƯỚC



1. Giải-pháp1.- Thay đổi từ bên trong.



Đảng CSVN tự nguyện trao trả quyền lãnh-đạo Đất Nước lại cho Toàn Dân để cứu Nước, vì chủ nghĩa CS đã bị loài người và lịch-sử đào thải, đã đưa Dân tộc đến bờ tiêu vong hiện nay với họa Bắc xâm, và bế tắc về ngoại giao, chính-trị, kinh tế, nhân tâm, v.v. . Đảng CSVN đã bị đẩy vào thế làm một “con tin” của Trung Cộng nên dù có muốn cũng không thể lãnh đạo công cuộc chiến đấu chống lại Trung cộng được. Liên xô trước đây chỉ bị bế tắc về kinh-tế mà tạo được “tiền-đề” cho Gorbachev “phi Cộng-sản hóa” Liên xô mà không cần nổ một phát súng hay đổ một giọt máu. Dân tộc Đức cũng đã được “phi Cộng-sản hóa” một cách êm ả vì, dân tộc Đức có một ý thức cao độ về quyền lợi sống còn của dân tộc mình. Suốt 45 năm chiến tranh lạnh dân tộc Đức không hề để cho thế lực ngoại lai xúi giục tàn sát lẫn nhau: Đông Đức đã không đem xe tăng Liên xô sang “giải phóng Tây Đức”, như Đảng CSVN đã “giải phóng Miền Nam”. Để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, đảng CSVN đã quyết đánh đế quốc Mỹ đến …. người Việt Nam cuối cùng”, và thực tế đã đem cả chục triệu sinh linh người Việt để “đánh Mỹ cứu Nước”. Giờ đây, “đảng” lại phải tốn cả chục triệu thanh niên VN nữa để đuổi Tàu mà chưa chắc được, nếu không nhờ đến Mỹ! Ý-thức đặt quyền lợi Dân tộc lên trên hết cũng được thấy ở dân tôc Nhật. Sau khi bị hai quả bom nguyên tử, phe quân phiệt Nhật thay vì bám lấy quyền lực đã tự nguyện rút lui để cho Nhật hoàng ký hòa-ước đầu hàng Đồng-Minh, cứu dân Nhât khỏi nạn diệt vong.



2. Giải-pháp 2. Lực-lượng yêu nước quốc nội phải đứng lên thay đổi chế-độ



Không có chế độ độc tài nào mà tự nguyện từ bỏ địa vị thống trị và quyền lợi của họ, trừ khi bị bắt buộc. Muốn tạo ra một sự thay đổi chế độ (regime change), các lực lượng dân tộc yêu nước như thanh niên, sinh viên, trí thức, quân đội, công nhân, đảng viên thức tỉnh, v.v. phải đứng lên thành-lập “Phong-trào Quốc dân cứu Nước” đấu tranh một cách có tổ chức và lãnh đạo. Chỉ cần một cuộc xuống đường với vài trăm ngàn người tại Hà Nội là có thể lật đổ chế độ. “Quân đội nhân dân” chả lẽ lại đi chỉa súng bắn lại nhân dân, trong khi họ hy sinh chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ-quốc. Thời cơ bây giờ là lý tưởng, vì không còn ai tin tưởng vào một đảng CSVN phản quốc nữa. Ngọn cờ “chống ngoại xâm” bao giờ cũng là sự thôi thúc mạnh mẻ nhứt đối với dân tộc Viêt Nam trong hơn 4000 lịch sử.



3.Giải pháp 3.- Chánh-phủ Lưu vong (của lực-lượng Quốc-gia hải ngoại)



Khi nước Pháp bị Đức chiếm và dựng lên Chánh-phủ Pétain làm tay sai cho Đức.

Tướng DeGaule phải chạy qua nước Anh thành lập Chánh-phủ lưu vong để lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Đức quốc xã. Nhà Cầm quyền Hà Nội và Đảng CSVN hiện chỉ là tay sai của đảng CS Trung quốc, không do toàn dân Việt nam bầu ra nên không phải là đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam. Vì mối tương quan lịch sử đó Nhà cầm quyến Hà Nội KHÔNG thể lãnh đạo công cuộc đấu tranh chống Trung cộng được. Nhất định phải có một Chánh-phủ không phải là “con tin” của Trung cộng.

Nhiều giải-pháp có thể thực hiện được:

a. PHỤC HỒI TƯ CÁCH PHÁP LÝ CỦA VNCH

Tướng Dương Văn Minh là tổng thống bất hợp pháp dựa vào Hiến-pháp của đệ II Cộng hòa. Bởi vậy có thể triệu tập lại lưỡng viện Quốc-hội của đệ II Cộng-hòa để đại diện cho VNCH và cử Chánh-phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống sự xâm lược của Trung cộng hiện nay.

b. TRIỆU TẬP QUỐC DÂN ĐẠI-HỘI (Hôi-nghị Diên-Hồng)

Nếu giải-pháp a. trên đây không thực-hiện được thì phải triệu tập một “QUỐC DÂN ĐẠI HỘI” để có tư cách tạm thời đại diện nhân dân Việt Nam, phủ nhận tư cách đại diện của ngụy quyền Hà Nội, là tay sai của đảng CS Trung quốc.

Các giai-đoạn cần thực hiện:



1. Phát động một PHONG-TRÀO QUỐC DÂN CỨU NƯỚC
2.Triệu-tập một QUỐC DÂN ĐẠI-HÔI (HÔI-NGHỊ DIÊN HỒNG)
3. Đặt ra cơ cấu và cử nhân sự lãnh đạo công cuộc chống ngoại xâm theo khái niệm Chánh-phủ Lưu vong của De Gaule.



4. Giải-pháp 4.- Trung-lập-hóa Bán đảo Đông Dương

Giải-pháp “Trung-lập-hóa Việt Nam” bây giờ là thích hợp nhứt và cần thiết nhứt. Đây là giải pháp ít tốn kém xương máu nhứt và có giá trị chiến lược lâu dài cho 3 dân tộc trên bán đảo Đông Dương nhứt. Nhìều thức giả đã đưa đề nghị nầy trong quá khứ trong đó có GS Vũ Quốc Thúc và nhiều chiến lược gia khác.

Yếu tố thuận lợi của chúng ta là 4 triệu người Việt ở hải ngoại hiện nay có thể vận động ngoại giao với các quốc-gia có thế lực, nhứt là Hoa Kỳ để chấp nhận giải-pháp nầy. Nó sẽ mang lại nền hòa-bình lâu dài cho Việt Nam để tái thiết Đát Nước, mà không tốn phí ngân sách quốc-phòng.

Cần ghi nhận một điều là trong quá khứ Phía VN Quốc-gia chúng ta đã thất bại một phần là vì không biết sử dụng vũ khí ngoại giao như Đài-Loan và Do Thái là những nước còn nhỏ hơn VNCH gấp nhiều lần, mà vẫn tồn tại được.



KẾT LUẬN



Đối với người Việt Quốc-gia yêu Nước tình thế hôm nay chưa hẳn là tuyệt vọng, nhưng chúng ta phải thay đổi toàn diện từ cách nhìn đến cách tổ-chức, và làm việc của mỗi người chúng ta và mỗi tổ-chức chúng ta. TỔ-CHỨC KHOA HỌC VÀ LÃNH-ĐẠO HỮU HIỆU là hai yếu tố mà các tổ chức đấu tranh ở hải ngoại chúng ta chưa có trong 35 năm qua.

CƠ HỘI NÀO CHO DÂN TỘC VIỆT NAM?

Gần 4 triệu người Việt tỵ nạn CS ở hải ngọai hiện nay là một lực lượng hùng hậu có thể huy động vào công cuộc cứu quốc. Dù thương hay ghét nước Mỹ, phải nhìn nhận là để chống lại nước Tàu hiện nay, chỉ có thể nhờ đến sức mạnh quân sự, ngoại giao, kinh-tế, tài chánh và kỹ thuật của Hoa Kỳ. Sau đây là những cơ may (opportunities) của chúng ta:

Chúng ta có tiếng nói của những công dân Hoa Kỳ để ảnh hưởng chánh sách của Hoa-Kỳ.
Chánh quyền Hoa Kỳ đang chủ trương trở lại Á châu
Chánh quyền Hoa Kỳ đã ký nhiều hiệp ước với Việt nam kể cả hiệp ước quân sự và nguyên tử lực để có khã năng can thiệp vào Việt Nam nếu VN bị Trung cộng uy hiếp. Hoa Kỳ đã biết sửa chửa một số lỗi lầm quá khứ của mình.
Chánh quyền Hoa Kỳ đang “ly gián Nga với Trung cộng” và liên minh với Ấn độ, Pakistan để bao vây Trung cộng. Các tướng lãnh Hoa Kỳ đã công khai báo động về hiểm họa quân sự của Trung cộng từ vài năm nay rồi.
Gần như cả thế giới đang chống lại tham vọng hiện nay của Trung cộng ở Biển Đông, từ Á sang Âu: Nhựt, Đại Hàn, Nam Dương, Phi Luật Tân, Mã Lai, Ấn độ, EU.

Hoa Kỳ và các cường quốc dân chủ còn nắm giữ “con bài tẩy kinh tế “ của Trung Cộng: dân chúng Trung cộng nổi loạn ngay nếu Tây phương ngưng nhập cảng hàng Trung cộng.
Hoa Kỳ cũng đang nắm con bài tảy về kinh tế và tài chánh đối với VC. Hoa Kỳ đang cho Hà Nội xuất cảng tối đa vào Hoa Kỳ để phải bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ. VC cũng đang vay một số nợ ngoại tệ khổng lồ của các định chế tài chánh mà Hoa Kỳ kiểm soát. Hoa Kỳ hiện là nước đầu tư lớn số 1 tại VN nên sẽ giữ vai trò quyết định đối với nền kinh tế và tài chánh VN.
Xin nhắc lại, sau 70 năm được xây dựng kiên cố, thành trì CS quốc tế Liên xô đã sụp đổ không do bom đạn hay hỏa tiển của phe Tự do mà là do bế tắc kinh tế và tài chánh mà đảng CS Liên xô không giải quyết nổi.

Cái chế độ lỗi thời, phản dân, bán Nước ở Hà Nội hiện nay liệu có xứng đáng để tồn tại hay không?

Đồng bào hải ngoại, các tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức, quân nhân, công nhân yêu nước tại quốc nội từng bị “Đảng” lừa gạt gần một thế kỷ nay, xin hãy trả lời câu hỏi đó, và hãy hành động cúu nguy Tổ quốc!



HẢI-NGOẠI,mùaQuốcHận2010
Lê Thành Nhân

Tro ve dau trang

====================================

==================================================


Việt nam Công an trị

Công an trị hành động côn đồ .
Việt nam pháp trị luật giang hồ .
Bắt người dễ dàng như bắt cóc .
Nhân quyền rẻ rúng cá tanh khô .
Sống làm dân hai chân quỳ xuống .
Mặt cúi gầm miệng dạ xưng hô .
Theo Công an chỉ đường dẫn lối .
Khác ý hành hung đánh thấy mồ .

Hàn Sỹ .


Hòa thượng Thích Không Tánh bị bắt tại Saigon lúc 18 giờ 30

Tin từ Viện Hóa Đạo ở Saigon vừa báo động sang Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế cho biết Hòa thượng Thích Không Tánh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Xã hội – Từ thiện thuộc Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, vừa bị công an bắt đi lúc 18 giờ 30 tại bến phà Thủ Thiêm, Quận 2 Saigon.
Chiều hôm nay vào lúc 15 giờ, Hòa thượng Thích Không Tánh rời chùa Liên Trì sang Saigon thăm một vị sư bị đau yếu. Nhưng vừa đi cách xa chùa chừng 200 thước, thì công an đổ đến bao vây. Trong số này bao gồm công an mặc sắc phục, công an mặc thường phục và một bọn thuộc xã hội đen cùng tấn công Hòa thượng, tổng cộng chừng 40 người. Hòa thượng hỏi công an trưng lệnh bắt và vì lý do gì ? Công an không xuất trình, nên Hòa thượng ung dung tiến về phía bến phà Thủ Thiêm đi Saigon. Song công an vẫn theo sát và có những hành động hành hung, khủng bố, khiến Hòa thượng ngất xỉu.
Được đồng bào báo động, các Thầy ở chùa Liên Trì đổ xô ra bảo vệ, muốn cứu Hòa thượng Thích Không Tánh thoát khỏi vòng vây công an và bọn côn đồ xã hội đen. Công an liền phản công, chia nhau vây bổ các Thầy miệng chửi thề tục tĩu rồi cách ly từng Thầy không cho đến gần bảo vệ Hòa thượng.
Dằn co cho đến 18 giờ 30 thì công an thành công nắm áo Hòa thượng Thích Không Tánh “vất” lên xe ta xi chạy vút. Không biết áp tải về đâu.
Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin báo động với công luận quốc tế và Hội đồng Nhân quyền LHQ về hành động phi pháp, bắt người giữa ban ngày không lý do của nhà cầm quyền cộng sản, để kíp thời can thiệp.

===============
===============================================

Thursday, April 29, 2010

Kính chuyển,


Japanese Surrender- Amazing Footage Sept 2, 1945...



Interesting the other signers to the document, from New Zealand/Australia to Europe/Russia.


This is an actual film made of the surrender ceremony of the Japanese to McArthur in Tokyo Bay in September 1945. Actual voice of the General. Never been shown to the general public before. We always saw the "stills" but never the film itself.
Historical Footage: Japanese Surrender Signing Aboard Battleship Missouri Sunday Sept. 2, 1945.

Click here: Japanese Surrender <http://www.youtube.com/watch_popup?v=vcnH_kF1zXc&feature=player_embedded%3E;




Tro ve dau trang

============================================

==========================================================

ỦY BAN ĐIỀU HỢP TỔ CHỨC LỄ TƯỞNG NIỆM 30 THÁNG TƯ

10288 WESTMINSTER AVENUE, GARDEN GROVE, CA 92843

(714) 360-8516



THÔNG CÁO BÁO CHÍ

Về Việc Tham Gia Ngày Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư





Westminster, 04/26/2010



Kính thưa đồng bào, đồng hương tị nạn cộng sản,



Theo quyết định trong phiên họp bất thường của Hội Đồng Thành Phố Westminster vào chiều thứ Tư ngày 21 tháng 4 năm 2010, buổi

Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư tại Công Viên Tự Do trước Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ sẽ bắt đầu vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ Sáu, 30 tháng Tư tại Công Viên Tự Do, thay vì 5 giờ chiều như đã loan báo trước đây.



Ủy Ban Điều Hợp Tổ Chức Lễ Tưởng Niệm 30 Tháng Tư trân trọng kính mời:



Quý Vị Lãnh Đạo Tinh Thần Các Tôn Giáo

Quý Bậc Tôn Trưởng, Thân Hào Nhân Sĩ

Quý Cộng Đồng, Chính Đảng, Đoàn Thể, Tổ Chức

Quý Đồng Hương Các Giới Và Các Bạn Trẻ



đến tham dự buổi Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư được tổ chức vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ Sáu 30 tháng Tư năm 2010 tại Công Viên Tự Do, trước Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, đường All American Way, Thành Phố Westminster. Tham dự Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận là chúng ta sẽ cùng nhau ghi ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tự do và chính nghĩa quốc gia, và cũng để tưởng niệm, cầu nguyện cho đồng bào ruột thịt đã bỏ mình trên đường đi tìm tự do. Buổi lễ này được tổ chức hoàn toàn không phải do ý kiến hay nổ lực của một cá nhân nào như có tin đồn xuyên tạc với ác ý đã và đang được loan truyền trong dư luận, mà là do sự phối hợp tự nguyện chung của các chính đảng chống cộng có truyền thống từ khi khởi thủy có sự hiện diện bí mật của cộng sản ở Việt Nam như VNQDĐ, Đại Việt QDĐ, Đại Việt Cách Mạng Đảng, v.v., và các đoàn thể mà thành viên thực sự là những nạn nhân trong các lao tù cộng sản như các Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, cùng các Hội Đoàn Quốc Gia khác như liệt kê dưới đây.



Sự hiện diện của quý vị tại buổi lễ nói trên không những sẽ là một hành động và một thái độ mạnh mẽ dứt khoát trả lời thẳng cho cộng sản về sự gian manh dối trá của chúng trong cuộc chiến và sau này trong hàng ngũ tị nạn của chúng ta, mà còn đồng thời nói lên một cách hùng hồn tình thần đoàn kết của Người Việt Quốc Gia tại hải ngoại hầu góp phần lớn lao quan trọng trong công cuộc tranh đấu giải trừ chế độ độc tài tàn bạo vô nhân đạo của cộng sản Việt Nam hầu giành lại Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền thật sự cho dân tộc.



Ban Tổ Chức kính mong được đón tiếp quý vị và đồng bào các giới tại buổi lễ nói trên.



Trân trọng,



Ủy Ban Điều Hợp Tổ Chức Ngày Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư:

Trưởng Ban : Phạm Văn Thuần, Đại Tá QLVNCH (Lực Lượng Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa )

Phó TB : Lê Khắc Lý, Đại Tá QLVNCH (Hội Cao Niên Á Mỹ)

Phó TB : Ông Phan Thanh Châu (Việt Nam Quốc Dân Đảng)

Phối hợp viên : Dược Sĩ Nguyễn Đình Thức (Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt)

Thành Viên : Ông Trần Đại Nghĩa (Đại Việt Quốc Dân Đảng)

Bà Nguyễn Minh Nguyệt (Cộng Đồng Việt Nam Nam Cali)

Ông Lê Ngọc Diệp (Liên Minh Dân Chủ Việt Nam)

Luật Sư Lê Công Tâm (Văn Phòng Giám Sát Viên Quận Cam)

Ông Nguyễn Văn Thanh (Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam- Nam Cali)

Ông Nguyễn Vinh Quang (Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam)

Ông Lê Tử Hà (Phong Trào Đấu Tranh Đòi Tự Do Tôn Giáo & Nhân Quyền cho VN)

Ông Lê Xuân Trạch (Uỷ Ban Chào Cờ Tượng Đài Việt Mỹ Westminster)

Nguyễn Phục (Thanh Niên Cờ Vàng)

Ngãi Vinh (Đoàn Thanh Sinh Phó Đức Chính)



Sau đây là danh sách thành viên các chính đảng, hội đoàn cùng đồng tổ chức Ngày Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng 4, vào lúc 11 giờ trưa thứ Sáu ngày 30 tháng Tư năm 2010:



Lực Lượng Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Đại Việt Quốc Dân Đảng

Đại Việt Cách Mạng Đảng

Cộng Đồng Việt Nam Nam California

Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam- Nam California

Khu hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam- Los Angeles

Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương.

Liên Minh Dân Chủ Việt Nam

Hội Gia Đình 81 Biệt Cách Dù Lực Lượng Đặc Biệt.

Hội Thân Hữu Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam.

Hội Đồng Đoàn Kết Người Việt Quốc Gia.

Hội Ái Hữu Quân Cụ.

Thanh Niên Cờ Vàng

Đoàn Thanh Sinh Phó Đức Chính.

Đoàn Thanh Niên Hùng Việt

Đoàn Phụ Nữ Mê Linh

Hội Đồng Hương Long Xuyên - An Giang.

Phong Trào Đấu Tranh Đòi Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền cho Việt Nam.

Hội Cao Niên Á Mỹ

Hội Cao Niên Công Giáo - Giáo Phận Orange.

Hội Ái Hữu Luật Khoa Nam California

Hội Ái Hữu Sinh Viên Học Sinh Di Cư 54

Hội Giáo Chức Việt Mỹ Tây Nam Hoa Kỳ.

Hội Thân Hữu Bộ Chiêu Hồi.

Hội Đồng Hương Hải Dương.

Chương Trình Phát Thanh Bạch Đằng Giang.

Diễn Đàn Tâm Thức Việt Nam

Ban Tế Nữ Quan Cộng Đồng Việt Nam Nam Cali

Hội Ái Hữu Tây Sơn Bình Định

Hội Cựu Sinh viên Quốc Gia Hành Chánh Nam Cali

Hội Gia Đình Lại Giang

Lực Lượng Quốc Dân Việt Nam

Khối Lập Trường Chung / Lằn Ranh Quốc Cộng

Thanks America Association

Khối 8406 Nam Cali

Uỷ Ban Đoàn Kết Chống Cộng

Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn

Phong Trào Yểm Trợ Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền Việt Nam



THƯ MỜI THAM DỰ LỄ TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4





THƯ MỜI

ỦYBAN ĐIỀU HỢP 38 ĐOÀNTHỂ TRONG CĐVN-NC

TỔ CHỨC LỄ TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4



Trân trọng kính mời

- Quí vị Lãnh Đạo Tinh Thần các Tôn Giáo

- Quí bậc Tôn Trưởng, Thân Hào Nhân Sĩ

- Quí Cộng Đồng, Chính Đảng, Đoàn Thể, Tổ Chứ

- Qúi Quân Nhân Quân Lực VNCH

- Qui Cơ Quan Truyền Thông Báo Chí

- Quí Đồng Hương các giới và các bạn trẻ



Tham dự



Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng 4tổ chức vào lúc 11 giờ trưa đến 4:00 chiều

Thứ Sáu ngày 30 tháng 04 năm 2010

trước Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Mỹ

tại Công Viên Tự Do

đường All American Way – TP Westminster



Để cùng dâng lời cầu nguyện đến hương linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh, toàn thể Quân Dân Cán Chính đã anh dũng hy sinh để bảo vệ chính nghĩa trong cuộc chiến Việt Nam và các đồng bào ruột thịt đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự Do,



Sự hiện diện của quí vị sẽ nói lên sự lớn mạnh và tinh thần đoàn kết của tập thể người Việt Quốc Gia tại Hải Ngoại trong sứ mạng tranh đấu để giải thể chế độ CS, đem lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền tại Việt Nam.



Xin cac chiến hữu Quân Nhân Quân Lực VNCH và Cảnh Sát Quốc Gia mặc quân phục, hiện diện lúc 10 giờ sáng. Buổi lễ có bữa ăn nhẹ ngoài trời để đồng hương có dịp gặp gỡ, hàn huyên tâm sự.





Little Saigon ngày 12 tháng 04 năm 2010

TM Ủy Ban Điều Hợp Tổ Chức

Trưởng Ban,

Cựu Đại Tá Phạm Văn Thuần





Quí Đoàn Thể có ý định đặt vòng hoa tưởng niệm, xin liên lạc với:

Cựu Thiếu Tá Lê Xuân Trạch (714)614-3531



***



Dâng Hương Nguyện Cầu

Lòng thành quỳ khấn:
Kính cẩn dâng hương,
Xa cách trùng dương,
Nhớ thương Tổ Quốc.

-Mây đen giăng phủ Thủ Đô!
Sài Gòn thất thủ! Cộng Nô trả thù!
Bao người sống phải vào tù!
Với người chết, chúng quật mồ đập bia!

-Tháng Tư tang tóc thê-lương!
Ngậm ngùi hồi tưởng tiếc thương vô ngần!
Bao người vị quốc vong thân!
Dâng hương cầu-nguyện, ghi ân chí tình!.
Tượng Đài kiến-tạo tôn-vinh,
Quân dân Việt-Mỹ hy sinh oai hùng.

-Khi lâm chiến tung-hoành oanh-liệt,
Lúc sa cơ tuẩn tiết không hàng!
Chết oai-hùng, sống hiên-ngang,
Tận trung với lá cờ vàng non song.
Ân Trên độ cầu mong thành khẩn,
Xin chư Thiên tiếp dẫn anh-linh:
Xa đau khổ, sớm siêu sinh,
Thăng cư thượng giới an-bình lạc thanh.

-Cúi xin Quốc-Tổ, tiên hiền,
Linh thiêng gia hộ con Tiên cháu Rồng:
Đồng tâm giải cứu non-sông,
Dập tan xâm-lược cờ hồng Bắc phương!
Thu hồi hai đảo Hoàng, Trường,
Nam Quan, Bản Giốc, trung dương hải phần.
Đảng Hồ độc ác hại dân!
Tay sai bán nước phải cần cáo-chung!


Thảo Bình 25-4-2010

***

thơ Hoàng Song Liêm
Nhạc: Anh Bằng

http://cothommagazi ne.com/nhac1/ LaiMotThangTuDen -AB-HSL-CF. mp3

Nguon :KHCTNCT-N.Ca


Tro ve dau trang

=====================================

================================================



Nhân ngày 30 - 4, thư ngỏ thứ 12 cuả cựu Dân Biểu NHỮ - VĂN - ÚY kính gửi Quý vị trong Lực Lượng QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN ANH HÙNG YÊU NƯỚC!
ĐỪNG CẦM NHẦM NỮA!

......... ......... ......... ....... * NHỮ - VĂN - ÚY

.......... 12)
.......... Thưa Qúy vị, còn 2ngày nữa, ngày 30 - 4 nhắc nhở chúng ta, người dân Việt Nam yêu nước -nói chung, không phân biệt chính kiến- nhớ lại một ngày đại tang cuả dân tộc.
.......... Thưa Qúy vị, tôi gọi ngày 30 - 4 năm 1975 là ngày đại tang cuả dân tộc; với Qúy vị có những chặng đường lịch sử đưa đến những nhận định khác nhau về cùng một câu ấy
............ .... - Ngày đó, 30 - 4 - 1975, không thể gọi là ngày đại tang cuả dân tộc được mà là ngày đại lễ hội cuả dân tộc ; những lễ hội cao qúy nhất cuả lịch sử, nào là ngày Thống nhất đất nước, nào là ngày "giải phóng nhân dân miền Nam thoát khỏi ách nô lệ cuả MỸ - NGỤY"
............ .... - Ngày đó, 30 - 4 - 1994, sau gần 20 năm rượu chiến thắng đã nhạt hơi men, Thủ Tướng cuả Qúy vị, VÕ VĂN KIỆT đã nhập nhòe nhìn qua hơi men và nhận ra được một sự thực chiều sâu bên trong cái lễ hội đó, một lễ hội không vui trọn vẹn mà nếu có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn.
............ .... - Ngày đó, 30 - 4 - 2010, sau thêm 16 năm nối dài nữa, hơi men chiến thắng đã tàn, năm nay, nhà nước XHCN -trên danh xưng- , nhà nước VGCS -trên thực tế- đang nới lỏng dần sợi giây xích -rất chậm-; nếu vẫn có những bài hát hoan ca xách động để hâm lại hình bóng cuả cái gọi là "ĐẠI THẮNG MUÀ XUÂN" thì trái lại, trong dư luận quần chúng lại đang cuồn cuộn nổi lên, dấy động một phong trào đòi hoà hợp, hoà giải!
.......... Luận đàm về "Hoà hợp hoà giải" không phải là mục đích cuả bài này; do đó, tôi xin được phép thông qua. Trung thành với nội dung đã vạch ra sẵn, chúng tôi xin mạn phép phiếm đàm cùng Qúy vị, tại sao bởi cùng một biến động cuả lịch sử, cùng một dân tộc mà chúng tôi -nhân dân VNCH- từ hơn 35 năm nay quan niệm vẫn bất biến; trong khi với Qúy vị, tùy từng bối cảnh cuả gian, quan niệm càng ngày càng biến dạng, càng xa gẳn với quan niệm lúc đầu?
.......... Sự kiện đó được tôi ghi nhận như đã nêu trên; qua ba cột mốc thời gian 1975, 1994 ; 2010; nếu Qúy vị không có gì phản ảnh trái ngược quan trọng thì chúng ta cùng tạm bàn trên những quan điểm giản đơn nhưng thực tế mẫu mực ấy!
.......... Một câu hỏi đến vời chúng tôi: Tại sao từ quan niệm ban đầu về bản chất cuả ngày "giải phóng" cho đến ngày nay, hơn 35 năm rồi, vẫn không mảy may thay đổi; phải chăng dân tộc tính cuả VNCH thiếu hẳn lòng cởi mở?
.......... Xin thưa, không phải thế! trái lại là đằng khác!
.......... Rõ rệt, từ học đường, thậm chí từ xã hội; nền giáo dục về chính trị , đạo đức và nhân sinh quan cuả chúng tôi; đơn giản mà thí dụ một cách thực tế và tổng quát, hoàn toàn trái ngược lại với những gì mà cái gọi là giời lãnh đạo đảng và nhà nước xã hội cuà Qúy vị đả đang và sẽ -nếu vẫn có toàn quyền tự tung tự tác như hiện tại- áp dụng trong chính sách giáo dục (hay nhồi sọ đầu độc ?) quần chúng, dai như điả đói những thành tích chìm sâu trong giấc mộng hoang tưởng:
.......... a) Nhân dân trong xã hội được "đảng và nhà nước" bịt mất và nhồi nhét vào lỗ tai những "thành tích cuả Hồ sồn sồn (ngày đó chưa già) lãnh đạo đấu tranh có thành quả ban đầu: đánh cho Pháp chạy, Nhật hàng, vua bảo đại thoái vị. Trong khi, ai cũng có thể thấy sự thực, nếu truy tầm sử đệ Nhị thế chiến, phần có Liên quan tới VN thì Pháp đã bị Nhật đảo chính nhét vào tù; Nhật đã đầu hàng đồng minh sau khi ắn hai trái bom nguyên tử và phải trả lại độc lập cho chính phủ VN không Cộng Sản mà Thủ Tướng là học giả TRẦN TRỌNG KIM.
..........Tất cả những diễn biến chính trị lớn lao trên đều diễn ra trước khi người dân VN ở ngoài Bắc được biết đến ở biên giới Bắc Việt có bọn thổ phỉ "giặc cờ đỏ" làm đầy tớ "đánh quả" cho MỸ, kiếm ăn từng dịch vụ .... từ trên trời rớt xuống: máy bay MỸ ném bom Bắc Việt, bị Nhật bắn trúng, lết chạy tới rừng núi thì phi công nhảy dù ra ngoài; bọn thổ phỉ giặc cờ đỏ tìm được là trúng mánh vét đô la!
..........Toà n thể lãnh thổ Bắc Việt ngày đó, không hề có một chiến tích trận địa nào ghi dấu vết là có những trận đánh long trời lở đất với Pháp hay với NHẬT; ngoài dăm ba "chiến công" xảy ra ở mấy làng ven rừng, có tính cách là cướp cuả giết người do bọn thổ phỉ từ rừng sâu quá đói len lỏi ra ven đồng bằng "làm ăn", gây án giữa đêm hôm khuya khoát hơn là những vụ án chính trị.
.......... Chẳng lẽ chỉ có bấy nhiêu thôi mà Pháp phải chạy? Nhật phải hàng? Những ai nghe và tin được chuyện này, đúng là những kẻ chưa.... rời núm vú! Ngày nay, nghĩ lại những năm tháng xa xưa, qúy vị có còn giữ vững được niềm "trung kiên" mù loà đó hay không?
.......... Nhân dân trong xã hội "được" đảng và nhà nước nhồi nhét vào lỗ tai những thành tích cuả HỒ khi thiếu thời vượt biển đi tìm đường cứu nước. Có những kẻ chỉ đủ trí khôn nghe kẻ mớm lời kể đến đó rồi trí nhớ ngừng lại ở đó và "ăn vào óc". Chỉ cần họ thông minh hơn một chút nưã, "theo dấu chân cậu thanh niên họ HỒ" xa hơn một chút lời thợ nói mớmn thì sẽ tìm thấy sự thực. Tới Pháp rồi, đặt chân lên bến cảng MARSEILLE, dấu chân HỒ đi "cứu nước ở những đâu?". Đầu tiên, cái đầu gối lỏng khớp xương vì thiếu vi-ta-min cuả HỒ dẫn cậu vào một cửa hàng ăn, xin làm một chân đầu sai vặt để..... cứu đói (cơm); khi đã có cơm no, HỒ quay qua.... đói tình, nhu cầu khẩn thiết dẫn cậu đến gặp mặt..... mụ phụ bếp; hai ngừời ..... cứu nhau đến lúc có một nhân chứng cuả "tình yêu" xuất hiện, chui ra một bé đầm non; cậu HỒ theo ..... truyền thống gia truyền nên quất ngựa truy phong!
.......... Như vậy, sử sách do già HỒ viết với ngụy danh là TRẦN DÂN TIÊN sau này được những cây viết gia nô, sử gia gia nô, bé ngoan gia nô láy đi láy lại HỒ CHÍ MINH xuất dương đi cứu nước; trong mấy năm dầu sôi lửa bỏng ấy "bảc" đi cứu ... cái khác.
.......... Giọt khỏi Marseille với tư cách giống cha ở quê nhà; cha trốn án tù hình vì tra tấn chết người khi làm quan cho chính quyền bù nhìn thực dân Pháp; bây giờ con cũng trốn tù nhưng không phải là tội "giết" người; mà trái lại, là tội "đúc" ra người trong tình trạng trái pháp luật (với một mụ đầm non còn tuổi vị thành niên!)
.......... Thế rồi ở Paris, nhờ là tình đồng bào cùng huyết thống giòng giống, HỒ được 3 cụ uyên nho và yêu nước như các cụ PHAN CHU CHINH, NGUYỄN THẾ TRUYỀN, PHAN BỘI CHÂU cưu mang. Trong những lúc pha trà và điếu đóm cho các cụ, coi như HỒ được học một khoá huấn luyện cấp tốc và thực hành về chính trị cuả những nhà cao thủ!
.......... Nhưng học là một chuyện mà thực hành là chuyện khác; thay vì hoạt động để tranh đấu cho đất nước được độc lập, HỒ "tích cực hoạt động" để .... "cứu đói" cho gia đình.
.......... ĐẦu tiên, Hồ viết một lá thư nhờ chính phủ Pháp can thiệp với chính phủ thuộc địa ở Việt Nam xin cho cha được phục chức để cứu đói. Mãi tới khi nhận được thư bác bỏ đơn xin ân xá , HỒ vẫn còn tràn đầy hy vọng bám được vào sống dưới làn lông chó, cậy nhờ bổng lộc áo cơm suả những quan da trắng măt xanh!
..........HỒ lại lếc h thếch đi gõ cửa quyền lực khác. Mặc dù chưa đủ điều kiện văn bằng, HỒ vẫn bền gan ngửa mặt nhìn lên van nài các quyền lực mũi lõ ban cho một đặc ân là được theo học một trường hành chánh thuộc địa; nghĩa là sau khi tốt nghiệp đương nhiên sẽ được chính quyền bù nhìn bổ nhiệm chức Tri Huyện (tương đương Quận trưởng bây giờ).
.......... Mặc dù trong đơn hết lời thề thốt sẽ tuyệt đối trung thành phục vụ cho quyền lợi cuả nước Pháp, nhưng với lý do không đủ điều kiện văn hoá, họ dứt khoát từ chối.
.......... Sau sự từ chối phũ phàng này, HỒ có cảm tưởng thất vọng đến cùng cực và cay đắng đến tột độ; như nhìn thấy tương lai hoàn toàn đen tối vỉ tất cả các cửa hang lỗ chui qua bờ rào, con đường dẫn vào hội nhập với bầy với lũ chó săn trong nhà gia chủ đều bị bịt kín.
.......... May nhờ sống gần các bậc tiền bối cách mạng, HỒ được biết các cụ mới từ NGA về. Các Cụ được bọn lãnh đạo Mạc Tư Khoa mời sang để thảo luận về vấn đề "hợp tác". Điều kiện chúng đưa ra, theo ý các cụ cùng một lòng nhận định, với quyền lợi bản thân và gia đình thì rất béo bở; nhưng với quyền lợi đất nước là "được" sát nhập vào Liên Bang Nga , dân chúng được mang Quốc tịch Nga, không còn sợ một cường quốc nào trên thế giới tới đặt ách nô lệ !
..........Những nhà cách mạng tiền bối cuả dân tộc Việt Nam đã khảng khái khước từ hình thức "cộng tác" này vì các cụ không muốn thấy trong lịch sử có tên mình là một trong những tên bán nước cuối cùng!
.......... Sau nhiều năm tháng chờ đợi một thiên thời đến từ bất cứ một nước thực dân nào có cơ hội qúy hiếm như thế này ; nhưng "cơ hộỉ" hình như cố tình tránh né!
.......... Sau nhiều suy nghỉ tích cực, HỒ CHÍ MINH đã chọn một biện pháp giải quyết thu gọn, theo một lời khuyên cuả một anh TÂY "bụi" là "cơ hội không tìm đến mình thì mình đi tìm cơ hội.
.......... Hồ đi "cứu nước" bên Nga, với một ý chí quyết "bán mình" như khi nàng Kiều đã thoả ước với mụ Tú Bà, nên được mụ đưa đến "bồi dưỡng" nơi lầu NGƯNG BÍCH mà thoả thê kiếp tà dâm! (mượn lời cụ NGUYỄN CÔNG TRỨ)
.......... Và tại cứ địa Thánh tổ "cách mạng BÔ xê Vích" này, HỒ đã được lọt vào mắt xanh cuả những tay tổ nghề Đồ Tể; bọn qủy vương này đã tiêu diệt, tàn sát cả nhiều chục triệu người dân Nga dưới cặp mắt vô cùng thèm thuồng và hứng khởi cuả anh học trò HỒ CHÍ MINH!
.......... Sau hơn 10 năm được trui rèn trong lò luyện ngục tốt Mác Lê, lò huấn luyện tình báo là tiền thân cuả KGB, sau đó, Hồ được các Lãnh tụ MÚT CU cho về nước với nhiệm vụ làm sứ giả cuả Tử thần!
.......... Thưa Qúy vị, sự thực cuả thần tượng HỒ CHÍ MINH lở lói đến như thế, không phải là trong suốt thời kỳ "chống MỸ cứu nước" Qúy vị không bao giờ được nghe ai nói mà chính vì Qúy vị đặt niềm tin tuyệt đối vào thứ thần tượng ma qủy đó; đặt niềm tin một cách nhắm mắt mù quáng, cứ hễ nghe ai nói thần tượng HỒ cũng chỉ là một con người thường, có đủ cả cái tốt và cái xấu như những người thường khác thì Qúy vị cấm vận ngay hai lỗ tai không muốn nghe , cấm vận ngay bộ não không muốn nghĩ, trở thành một thứ gỗ đá vô tri giác, có nghĩa là..... ôm lấy sự sai lầm cuà mình cho tới khi chết!
.......... Một kẻ luyện được bộ não bê tông như vậy, là do kẻ đó đã bị lầm lạc đến trầm trọng giữa "Nói xấu" một thần tượng và "nói về một sự thực xấu xa cuả thản tượng đó"!.
.......... Vì thế, qua mỗi mốc thời gian, tư tưởng thường thường biến động theo sự hiểu biết mới. Quan niệm về sự thành công vẻ vang và mỹ miều ngày 30 - 4 - 1975 sang tới 30- 4- 2004 đã hoàn toàn thay đổi vì ngay chính trong giới lãnh đạo cũng đã nhận thấy một sự chủ quan trước đây quá lố bịch vì nay đã nhìn ra nếu có 1 triệu người vui thì củng thí cũng có một triệu người buồn!
.......... Với tư thế của Qúy vị dù không có được đủ 1 triệu người vui nhưng chắc chắn cũng phải có nhiều người vui; đó là sự thực không ai có thể chối cãi được!
.......... Những người vui là những người từ rừng về "tiếp thu thành thị", mặt bủng da chì lặc lè kéo lê đôi dép râu, mang theo về thành cả lũ .... "tầm gửi ghẻ bộ đội". Lũ "tầm gửỉ" này khoét đào hang ổ trên mình bộ đội như "đảng ta đào chiến hào" ở vủng địa đạo CỦ CHI....
.......... Và những con người bệnh hoạn đó, ngày nay đã mướt lông, đỏ da thắm thịt, đã trở thành những tay có quyền lực trên cả Hiến Pháp, đã trở thành những triệu phú Đô la.... Họ, bốc hốt cuả nhân dân thần sầu qủy khốc đến như vậy thì làm sao mà buồn được mỗi khi ngày 30 - 4 lại trở về với dân tộc?
.......... Còn chúng tôi, ngày 30 - 4; cả miền Nam điêu tàn như một ổ chim non vĩ đại bị phá. Hàng vài triệu người tháo chạy ra biển; có những người may mắn thoát nạn đến được miển đất hưá thì có số đông không kém những người xấu số đã bỏ thân trong lòng biển; vĩnh viễn không một ai có đủ quyền lực để kiểm kê chính xác được con số mạng vong đó. Ngoài ra, còn cả hàng triệu, hàng triệu người bị "cách mạng" cướp nhà, trấn lột tài sản.... Ngày bi thương tóc tang và nước mắt trùm cả giang sơn , từ đấy cho đến mãi ngày nay.
.......... Như vậy, nếu quan niệm cuả chúng tôi với ngày 30- 4 năm 1975 là bất biến, không là một sự chính danh cuả lịch sử sao ? Bất biến nhưng không đồng nghiã là giữ nguyên hiện trạng mãi mãi!
.......... Sự thực, thời gian chữa vết thương lòng khá hiệu nghiệm. Nếu có những vết thương không điều trị được thì cũng không có vết thương nào có thể mãi mãi giữ nguyên được hình ảnh thê thảm lúc ban đầu. Tuy nhiên, nếu quả thật những nhà làm chính trị muốn trị liệu vết thương nối da xáo thịt cuả triều HÒ muốn sớm thành xẹo, chính họ hãy là những người đầu tiên giơ bàn tay thành thật và thiện chí ra nắm bàn tay cuả đối tượng; vì họ là những người giữ chià khoá cuả vấn đề.
.......... Mọi hành động .... oang oang kêu gọi hoà hợp và hoà giải bằng mồm chỉ tự cái giới ấy kết tội ngay chính giai cấp cuả họ và chuốc thêm sự khinh bỉ cuả nhân dân!
.......... Mọi hành động từ giới nhà cầm quyền VGCS -bên thắng trận- kêu gọi nhân dân hai miền hoà hợp hoà giải đều là nhửng vở hài kịch trơ trẽn cuả lũ người chuyên sống về nghề bịp bợm, dối gạt! Sự kêu gọi đó chỉ có giá trị trình diễn cuả những kẻ bất lương!
.......... Tôi xin phép được phản biện để bảo vệ tư thế chính thống cuả danh từ "bât lương" đả dùng trong bối cảnh này!
.......... Đó là giưã nhân dân hai miền cuả con sông BẾN HẢI làm gì có căm thù mà phải có hoà giải và hoà hợp? Sau khi chiến cuộc tàn, họ đã tự động tìm đến nhau, tự hoà hợp, tự hoà giải ngay từ những tháng năm nhà nước VGCS chưa biết dùng danh từ đó làm mồi câu. Có như thế nên mới có những hình ảnh hết sức cảm xúc như mặc dù nhân dân miền Bắc được bú mớm, nhồi nhét nuôi căm thù với nhân dân miền Nam, nhưng ngay sau ngày 30 -4-75 hàng đoàn, hàng đoàn người anh em miền Bắc cuốn vào miển Nam như nước lũ để nhận "họ" và các anh em đó đều nhận được "hàng" đem ngược trở về!
.......... Đừng nói đâu xa, ngay trong gia đình cuả người gọi là "THỦ TƯỚNG" NGUYỄN TIẾN DŨNG, chính Tiểu thư " lá ngọc cách mạng", "ngành vàng... công an" cuả ông cũng đả tự động đi mò tìm sự hoà hợp hoà giải với một Việt kiều gốc tỵ nạn ở bên MỸ, công tử cuả một vị cưụ Thứ Trưởng VNCH.
.......... Với những lời cuả chúng tôi trần tình như trên, Qúy vị chắc hẳn đã nhận thấy rõ ràng nguyên do cuả sự trì trệ tinh thần đại đoàn kết dân tộc là không do dân, là do giới lãnh đạo đảng và nhà nước cuả Qúy vị .
.......... Họ là những nhân vật cuả thời chiến, cuả máu lửa, cuả đổ vỡ chứ không phải là thành phần cuả thời kỳ xây dựng và phát triển.
.......... Mới đây, họ lại còn lún sâu vào vũng bùn tội ác bằng một hành động không thể nào tha thứ được là họ lại đang nhích lại qùy gói xếp hàng dưới trướng cuả Trung Cộng như nào dâng đất, nhường biển, bán rẻ tài nguyên và dám to gan đến độ đem cả anh linh hai Bà TRƯNG sang Tầu cống làm tỳ thiếp cho MÃ VIỆN !
.......... Qúy vị tự nghĩ xem, tự cổ xưa đến nay, có những triều đại mạt làm mất nước, nhưng chắc chắn 100% chưa có lấy một triều đại nào mạt rệp thối tha bằng triều đại HỒ CHÍ MINH, công khai nhục mạ đến cả cả các anh hùng cuả dân tộc.
.......... Là Lực lượng Quân đội nhân dân "anh hùng", Qúy vị còn cúi đầu tuân lệnh những kẻ đó đến bao giờ? Nếu Qúy vị không đủ đởm lược đứng làm anh hùng bằng đôi chân và cái đầu cuả mình, xin qúy vị vui lòng trả lại hai chữ đó về cho nhân dân, sự "cầm nhầm danh từ cuả qúy vị cũng đã quá lâu rồi!"

............ ....... Colmar ngày 26 - 4 - 2010
............ ......... .... NHỮ - VĂN - ÚY



Tro ve dau trang

====================================

===================================================





THƯƠNG TIẾC
CHUẨN TƯỚNG PHẠM NGỌC SANG

( Tháng Tư, kính dâng anh linh Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, một người quân nhân gương mẫu, một người con trung thành của Mẹ Việt Nam)



" Làm tướng mà không giữ được thành
" Khi cùng giặc dữ buổi giao tranh
" Để cho thành mất vào tay giặc
" Tội với dân và với sử xanh !" ( * )


Ôi những lời đau, nhói vạn lòng
Tướng tài, vận nước buổi suy vong
Tinh thần, tiết tháo, anh hùng đó
Còn mãi muôn đời với nuí sông


Còn mãi lòng ai một tấm gương
Trong màu hổ phách, sáng kim cương
Vì người anh lớn, người Tư Lệnh
Đã được đàn em rất kính thương


Kỷ luật, nghiêm minh, giản dị, vui
Ôn hoà, thông cảm, mến thương người
Pleiku heo hút hay Phù Cát
Tiếng tốt danh thơm vọng giữa đời


Cố thủ Phan Rang cuối tháng Tư
Đẫu cho đạn giặc bốn phương mù
Mặc phi cơ bốc, tay ôm súng
Chiến đấu, sa cơ, bị bắt tù


Mấy chục năm trời hận quốc vong
Buồn đau canh cánh vẫn bên lòng
Hùm thiêng hẹn với rừng thiêng cũ
Sẽ một huy hoàng với núi sông


Nhưng giấc mộng kia chửa kịp tròn
Lià trần bóng hạc đã về non
Người đi để lại bao thương tiếc
Tiếc mảnh tình ai những sắt son


Vận nước đau thương khiến đại bàng
Đường dài gẫy cánh! Hỡi trời Nam !
Đời trai, lòng buộc vào sông núi
Xin biết ơn Người, Phạm Ngọc Sang !


Ngô Minh Hằng



=====================================
===========================================
tuần báo Tự Do Dân Bản online
Tiếng Nói Chánh Thức của Liên Minh Dân Chủ VN
Chủ Tịch LMDCVN & Chủ Nhiệm Danh Dự: Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy
Chủ Tịch LMDCVN & Chủ Nhiệm: Ô. Nguyễn Văn Thiện
Chủ Bút: Gs Trần Minh Xuân
E-Mail : tudodanban@gmail.com
www.lmdcvn.net
http://tudodanban.wordpress.com/

Phát hành tuần lể cuối tháng 4 năm 2010

Số đặc biệt Tháng Tư Đen

Đôi dòng tâm sự & giới thiệu

Tuần báo Tự Do Dân Bản trong số số đặc biệt Tháng Tư Đen này - với 40 trang - hân hạnh phổ biến rộng rải đến quý Độc giả trong và ngoài nước một số bài vở xuất sắc nhứt được tuyển chọn để thông tin & giải trí :
1 ) Trong phần đầu, ê kíp Phạm Trần Hoàng Việt gồm 4 thành viên trẻ của Tự Do Dân Bản onlỉne cùng viết về " Điểm Nóng Thời Cuộc " đề cập đến Bí Ẩn 30.4.1975 qua quan điểm của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao văn Luận. bài viết này góp phần giải thích rốt ráo về Bí Ẩn 39.4.1975
2 ) Tự Do Dân Bản xin giới thiệu bài bình luận nẩy lửa " Chấm dứt chế độ cộng sản! Nếu không… " của Ký giả & Nhà văn Quân đội Hải Triều . Tác giả- hiện đang cư ngụ tại Canada - từng sát cánh hoạt động trong các tổ chức của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy tại Việt Nam cũng như tại hải ngoại và trong quá khứ đóng góp tích cực bài vở cho Tự Do Dân Bản
3 ) Từ quốc nội . tác giả Nguyễn Trung Lĩnh đã dũng cảm kêu gọi " Toàn dân đồng lòng loại bỏ bọn phản quốc !"
4 ) Một tác giả ẩn danh đã công phu so sánh lịch sử về diễn tiến " từ Tháng Tư năm 1865 tại Hoa Kỳ đến Tháng Tư Đen 1975 tại Việt Nam " . Qua đó cho thấy chính sách trả thù vô nhân đạo của CSVN đối xử với lực lượng thua trận
5 ) Nhà thơ Hồng Hải sáng tác những dòng thơ Tháng Tư Đen với bài thơ " Chiều Trên Đảo Bi Đông "
6 ) Tác giả Giáo Già - Gs Trần Minh Xuân chịu trách nhiệm bộ phận Tuyên Huấn của LMDCVN - trong bài viết hàng tuần " Thư Cho Con " dành cho Tự Do Dân Bản , đã đề cập đến " Từ Thái Thú Dũng Vào Ra Khách Sạn Bằng “Hậu Môn” đến Các Luật Sư Bị Trấn Áp và VC Giả Tiến Sĩ Ðại Học Yale "
7 ) Bài viết Phiếm mới nhứt " TẤM LỊCH " của tác giả Tiểu Tử - nhã ý gửi đến Tự Do Dân Bản - khéo léo cuối cùng dẫn về tờ lịch ngày thảm họa 30 tháng tư
8 ) Sau cùng truyện ngắn cảm động " Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn " của tác giả Nguyễn Kiến Việt kín đáo cho thấy ý nghĩa thiêng liêng của lá quốc kỳ

Ngoài ra xin giới thiệu : Tuần báo Tự Do Dân Bản là cơ quan ngôn luân chính thức của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam. Thành phần lãnh đạo gồm có Cựu Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thiện ( CT / Ban Chấp Hành ), Cựu Đại Tá Nguyễn Văn Đầy ( CT / Ban Giám Sát ), Gs Trần Minh Xuân ( Tuyên Huấn ) , Cựu Dân Biểu Trần Minh Nhựt ( Cố Vấn Đoàn ), Ký giả Hải Triều ( Chủ tịch đoàn ) v . v . Họ đều là những cộng sự viên thân tín và trung kiên của Gs Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy từ trước năm 1975 cho đến naỵ

Trân trọng

Ban Biên Tập Tự Do Dân Bản

Điểm Nóng Thời Cuộc
Phạm Trần Hoàng Việt

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận:
Bí Ẩn 30.4.1975

Kính dâng anh linh Gs Huy & Lm Luận

1) Mở đầu

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Đối với dư luân quốc tế thì cho rằng sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh vào ngày 9.11.1989 là biến cố lịch sử quan trọng nhứt của thế kỷ 20. Thực ra cả hai biến cố lịch sử này đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến người Việt chúng ta. Cho nên cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, đã từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - từng đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về hai biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1989, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

Chính vì vậy, Giáo sư Huy đã được rất nhiều người thực tâm ngưỡng mộ và cảm phục. Cho nên hàng năm cứ đến độ giữa hè vào cuối tháng bảy, ở quốc nội và tại hải ngoại, âm thầm hoặc công khai, đều có Lễ Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy (1924 - 1989). Tính đến năm nay đã đúng 20 năm rồi. Một thời gian quá dài để thử thách mức độ thực lòng thương nhớ của quần chúng. Thực là một hiện tượng độc nhứt vô nhị trong thời đại nhiễu nhương này dành cho một lãnh tụ chính trị Việt Nam.

2) Ai đã làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh?

Trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày Bức Tường Bá Linh sụp đổ vào tháng 11 năm 2009, chúng tôi đã có dịp trình bày cái nhìn độc đáo của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy về vấn đề "Ai đã làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh?"

Câu hỏi lịch sử này đã tranh cãi sôi nổi từ 20 năm qua và có nhiều câu trả lời chủ quan khác nhau tùy theo hoàn cảnh, trình độ hiểu biết và nhứt là lòng tự hào của những dân tộc liên hệ.
a) Phía Ba Lan cho rằng nhờ hai công dân của họ. Đó là lãnh tụ nghiệp đoàn Walesa và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã dám dũng cảm đi hàng đầu tranh đấu chống cộng sản.
b) Phía Hung Gia Lợi cho rằng nhờ Cựu Thủ Tướng Nemeth đã sáng suốt dám cho mở cửa biên giới Áo Hung tạo cơ hội cho làn sóng người tị nạn cộng sản bùng nổ.
c) Phía Đông Đức cho rằng nhờ lực lượng cải cách trong đảng cộng sản Đông Đức đã thành công lật đổ được nhà độc tài Honecker và tạo điều kiện cho lực lượng đối lập dễ dàng tranh đấu.
d) Phía Tây Đức cho rằng nhờ chính sách hòa dịu của Cựu Thủ Tướng Brandt từ từ tạo được biến đổi ôn hòa trong chế độ cộng sản.
e) Phía Liên Xô cho rằng chính Tổng Bí Thư Gorbachev với chính sách cởi mở tạo ra tình thế vuột ra khỏi vòng tay kiểm soát.
f) Phía Hoa Kỳ cho rằng nhờ Cố Tổng Thống Reagen hành xử cứng rắn đối phó với Liên Xô và quan trọng nhứt tại Bức Tường Bá Linh vào ngày 12.6.1987 đã lên tiếng "khích tướng" kêu gọi Tân Tổng Bí Thư Gorbachev muốn chứng minh thực tâm cởi mở thì nên mở cửa và phá sụp bức tường này (nguyên văn: “Come here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down this wall!“)

Độc đáo và duy nhứt về phía Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã tiên đoán rất sớm và trình bày rất cặn kẽ ngay trong tác phẩm "Perestroika" (viết bằng Anh ngữ, dày 402 trang với trên 200 dẫn chứng tài liệu) cho rằng ông Gorbachev bắt buộc phải cởi mở thay đổi chính sách cai trị để đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Reagan đang trên đà leo thang võ trang quân sự, điển hình là kế hoạch phòng thủ chống hỏa tiễn SDI (Strategic Defense Initiative).

Chỉ trong lúc đi thuyết trình cho đồng bào Việt Nam, Giáo sư Huy mới kín đáo tiết lộ đưa ra một cái nhìn độc đáo rằng dân Nga có truyền thống chơi cờ vua (Chess) nên có thói quen suy nghĩ đa nghi nhiều, còn dân Mỹ thích chơi bài phé (Poker) nên thường phải "tháu cáy" với cây bài xấu nhưng vẫn có thể "tố" cho địch thủ bỏ chạy. Theo Giáo sư Huy thì Tổng Thống Hoa Kỳ Reagan đang dùng kế hoạch SDI để "hù" Tổng Bí Thư Liên Xô Gorbachev với bản chất đa nghi buộc phải cải tổ nền tảng chính trị và kinh tế để có đủ thực lực đương đầu lại với Hoa Kỳ. Quả nhiên ông Gorbachev đã xúc tiến cải tổ, trước hết về kinh tế (Perestroika), và sau đó về chính trị (Glasnost).

Nhưng chính vì sự cải tổ chính trị đã khiến làn sóng đòi hỏi tự do dân chủ dâng cao, kiểm soát không nổi và vuột ra khỏi tầm tay. Bức Tường Bá Linh sụp đổ, Đông Âu thoát khỏi sự chi phối của Mạc Tư Khoa và Liên Xô tan rã vào ngày 21.12.1991 là hậu quả tất nhiên đó. Chính vì vậy, bên ngoài Liên Xô ông Gorbachev được vinh danh là nhân vật có công với cuộc cách mạng dân chủ hóa Đông Âu, nhưng ở trong nước thì trái lại không có chút uy tín gì vì bị chỉ trích là không có khả năng lãnh đạo làm cho Liên Xô tan vỡ và nước Nga không còn sức mạnh gì trên bàn cờ thế giới.
Cái nhìn độc đáo này của Giáo sư Huy được chứng thực là rất đúng, vì kế hoạch SDI của Mỹ sau đó đã được Mỹ âm thầm hủy bỏ khi mục tiêu đã xí gạt được Liên Xô rồi. Tương tự về thảm họa 30.04.1975 của Việt Nam chúng ta, Giáo sư Huy cũng có câu trả lời độc đáo với lời giải thích bất ngờ sau đây.

3) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm"!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

4) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Âu châu và Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.

Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).
- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton...
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.

Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh...

Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm . Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ .

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam!

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 - 1999)... Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:
"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:
“ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”.
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

5) Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.

Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .
Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh " nướng quân " hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng " Đồng Minh tháo chạy " ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus " của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm " Bài học Israel ( Do Thái ) " . Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay !

Phạm Trần Hoàng Việt
( Tháng Tư Đen 2010 )


(Xin mở attachment để đọc tiếp)









TuDoDanBan-27_04_2010.doc
1819K View as HTML Download

Reply Reply to all Forward



Tro ve dau trang


Xin quý bạn đọc vào trang trong để xem lễ phát quà cho thương phế binh VNCH tại chùa Liên Trì của thượng tọa Thích Không Tánh ngày 24 tháng 04, 2010

Video: Lễ Phát Quà Cho Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa Tại Chùa Liên Trì
Lê Thị Kim Thu thực hiện



Xin quý bạn đọc bấm vào các link dưới để xem video:

1/
http://www.youtube.com/watch?v=EmSonjIxQ0Y. com/watch? v=EmSonjIxQ0Y

2/
http://www.youtube.com/watch?v=0yfP6aN3OKs. com/watch? v=0yfP6aN3OKs

3/
http://www.youtube.com/watch?v=2j7F8h-enzw. com/watch? v=2j7F8h- enzw

4/
http://www.youtube.com/watch?v=mKiwQY43cDk. com/watch? v=mKiwQY43cDk

5/
http://www.youtube.com/watch?v=4W2u5WXsD9s. com/watch? v=4W2u5WXsD9s

__._,_.___
=======================================================

Ba mươi tháng tư năm 1975, Cộng Sản cưỡng chiếm Miền Nam , triệu con người đã bỏ mạng nơi biển đảo vì vượt biên đi tìm bờ bến TỰ DO. Các cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì bị bắt lưu đày nơi rừng hoang núi thẳm. Rét mà chết, đói mà chết, lính VNCH đi học tập cải tạo, không lính VNCH cũng đi học tập cải tạo...

25/04/2010
Những Tâm Hồn Cao Thượng

Ba mươi tháng tư năm 1975 Cộng Sản cưỡng chiếm Miền Nam , triệu triệu con người đã bỏ mạng nơi biển đảo vì vượt biên đi tìm bến TỰ DO. Các cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì bị bắt bị lưu đày nơi rừng hoang núi thẳm. Rét mà chết, đói mà chết, Lính VNCH đi(học tập cải tạo) không lính VNCH cũng (đi học tập cải tạo).!! Không lính VNCH đi học tập cải tạo tại kinh tế mới, vùng đất hoang vu quanh năm lấp hố boom bứng rể cây, khi đói ăn bo bo, khi khát uống nước sình, tuy không phải chịu sự giám sát hàng ngày của cán bộ, nhưng lại không được tự do thoải mái. Còn cái khác của người có đi lính VNCH phải chịu sự giám sát chặt chẻ của kẻ thù, họ bị hành hạ đói xử tàn tệ.

Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm tủi nhục nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho đồng bào còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Ngày trở về thì bị kẻ thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục. Bất hạnh nhất lại là những người thương binh, họ hy sinh một phần thân thể trong chiến tranh. Vì đó là những người đã dâng hiến cả cuộc đời cho tổ quốc. Dù biết trước phải chết nhưng họ cũng hy sinh vì chiến cuộc, họ đã mĩm cười mong ngày đất nước sớm hòa bình. Đã có những người đi mãi không về để mẹ già mỏi mắt chờ trông, vợ trẻ thành góa phụ. Và có biết bao người, dù không còn lành lặn như ngày nào.
Để tri ân sự hy sinh mất mát đó, hôm nay tại Chùa Liên Trì, Hòa Thượng Thích Không Tánh có tổ chức buổi từ thiện, giúp đở các thương phế binh VNCH để an ủi cho họ, chúng tôi những phóng viên Tự Do vô tình đến đây thấy cửa Chùa rộng mở tính vào xin uống ké miếng nước đã tận mắt chứng nhìn thấy cảnh cảm động đến rơi nước mắt, quên đi cái nắng đang gắt gao, quên đi sự mệt mỏi, quên cả cơn khát nước, chúng tôi hòa vào những con người bất hạnh kia, cùng phụ giúp quý Thầy phát quà cho họ. Hòa Thượng Thích Không Tánh rất bất ngờ vì chúng tôi đến đây, chúng tôi xin phép Thầy cho chúng tôi làm buổi phóng sự ghi lại hình ảnh này.
Được biết Bác sỹ Phan Minh Hiển ở Pháp, là một nhà Hảo Tâm chuyên giúp đỏ từ thiện, một năm không biết bao nhiêu lần,Bs Hiển thường hay chia sẽ an ủi các thương binh VNCH, không riêng gì thương binh các Bé tại trung tâm Ung Bứu sài gòn cũng thế. Năm nay ít người hơn năm ngoái, các thương binh không dám đến nhiều, vì năm ngoái họ bị an ninh công an gây khó khăn nên không dám đến, mặc dù bên ngoài cũng có rất nhiều cảnh sát 113 tuy nhiên họ không gây khó khăn gì cho buổi phát quà ngày hôm nay. Bác sỹ Hiển dự tính bốn mươi phần quà cho thương binh, sáu phần quà cho dân oan, một phần quà là 500.000vnd đột nhiên xuất hiện thêm mười người thương binh trẻ, họ thuộc thương binh bộ đội Hồ Chí Minh. Hòa Thượng Không Tánh đành lòng san sẽ bớt cho những thương binh bộ đội ( Hồ). Thầy nói dù họ là thương binh của ai, thì họ cũng là những người lính bị bỏ rơi phát quà cho họ để họ được an ủi cùng chúng ta.
Chúng tôi chia nhau ra làm việc, chị Lê Thị Kim Thu thì quay video còn tôi đi động viên thăm hỏi. Hình ảnh cảm động nhất của tôi ngày hôm đó, ba người bi cụt mất chai chân,được người cụt một tay, chột một mắt cổng trên lưng.
Tôi đến thăm hỏi, bác ấy nói bác tên là Trần Hữu Hưng sinh năm 1946, tại Thừa Thiên Huế, SQ 66/206250,nhập ngũ tháng tư năm 1967, khóa 25 Thủ Đức, về đơn vị tiểu khu QN chức vụ Trung Đội trưởng đại đội 322,
bác nói hai người được cõng trên lưng kia là thương binh bộ đội quân (giải phóng). Tôi thắc mắc, bác nói tiếp chúng tôi là hai người lính khác nhau, nếu gặp nhau anh không giết tôi, tôi cũng bắt anh, cái giống nhau ở đây là chúng tôi điều là thương phế binh, hoàn cảnh không khác gì nhau, điều bị đồng minh bỏ rơi. Nếu chúng tôi không rủ họ đi đến đây nhận quà thì chúng tôi đã trọn vẹn một phần quà, chúng tôi mõi người san sẽ hết cho họ 100.000vnd là mất hết mười lăm ký gạo, nhưng chúng tôi chấp nhận chia cho nhau vì cảm thấy rất vui. Nghe bác ấy nói sao tôi thấy thương quá, những tấm lòng cao thượng của người lính Quốc Gia.
Cùng đi với tôi ngày hôm đó có bà Nguyễn thị Dể vợ Kỹ Sư Trương Minh Nguyệt, cũng được một phần quà của Bs Hiển, riêng Hòa Thượng Không Tánh biếu thêm cho bà tiền thăm nuôi chồng, phát quà gần hết có bốn vị khách nước ngoài không mời mà đến, họ là bốn người Ngoại Quốc thấy hình ảnh cảm động đó họ cũng cho thêm các thương binh ít tiền, gieo nhân gì thì gặt quả ấy, ở phải thì gặp phải.
Đa tạ Bs Phan Minh Hiển đã vận động ủng hộ anh em, đạ tạ Hòa Thượng Không Tánh, nếu không có Thầy thì trương trình ngày hôm nay không thực hiện được, đạ tạ bốn người khách Ngoại Quốc ủng hộ các anh thương binh, cảm ơn cảnh sát 113 đã không gây khó khăn cho buổi phát quà từ thiện ngày hôm nay, cảm ơn anh an ninh đã đi theo tôi vào dịch vụ interner không cản trở khi tôi đang viết bản tin này, và cuối cùng cảm ơn bạn Ngọc Thủy đã viết bài Nhớ Về Thương Phế Binh VNCH. Anh viết rất hay, bài viết rất thật nói lên hoàn cảnh thật của những anh thương binh.

Nguyễn Thu Trâm
Bình Dương
=========================================
=====================================================

Wednesday, April 28, 2010

Kính thưa quí vị Niên Trưởng, Quí Chiến hữu cùng Qúy vị vi hữu,


Ngày hôm qua, chúng tôi có post lên diễn đàn cũng như gởi đến quí vị bản tin và hình ảnh tại Chùa Liên Trì Việt Nam, nơi Hòa Thượng Thích Không Tánh thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức buổi gặp gỡ và tặng qùa cho Anh Em TPB & Cô Nhi Quả Phụ VNCH nhân dịp “Tưởng Niệm Tháng Tư đau thương của dân tộc và Tổ quốc Việt Nam” vào sáng Chủ Nhật 25-4-2010 vừa qua. Nhưng sau đó chúng tôi có nhận được điện thoại cũng như qua E-mail của quí vị nói rằng không thấy được hình ảnh và không thể forward đi được. Xin chân thành cáo lỗi cùng quí vị Và mời quí vị xem lại sau khi đã được điều chỉnh lại.



Trần Thế Cung



Vài hàng làm tin



Sáng ngày 25-4-2010, khoảng hơn 9:00 giờ sáng. Anh em Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa lên đến gần 50 người. Chị Nguyệt (Vợ tù nhân chính trị Trương Minh Nguyệt), Chị Ba cháo vịt Nguyễn Thu Trâm và cô Lê Kim Thu cũng đến ...

Vậy là Thầy lại thay đổi giờ thêm một lần nữa (thay vì 11 giờ). Bác sĩ đưa 20 triệu đồng, nhưng Hòa Thượng giúp 56 phần quà (50 phần X 400,000 $VN = 20 triệu ) và 6 phần quà 500,000 $VN (có gởi một phần cho MS Nguyễn Tấn Cự và nhờ chị Trâm trao lại ...)

Ngoài ra Thầy kêu gọi Phật Tử ủng hộ bữa ăn trưa, và giúp thêm 5 Kg gạo + 5 gói mì …, nói lời an ủi Anh, Em, trình bày về nguồn gốc tiền Ân Nhân gửi về chia xẻ với mọi người, tuy là chẳng đáng là bao, nhưng đó là sự cố gắng của bác sĩ & Ân Nhân ở Hải Ngoại, mong bà con hoan hỷ dung lấy thảo với nhà chùa.

Khoảng hơn chục Cộng An ở bên ngoài, nhưng nghĩ sao “họ” không vào… cho đến khi Anh, Em Thương Phế Binh hoan hỷ ôm theo bịch gạo + mì ra về … hơn chục CA mới rút (nhưng vẫn để lại vài “chốt chặn” theo dõi)

Chị Ba cháo vịt & Cô Thu mời hơn chục TPB ở lại, ngồi ở phòng tiếp khách của Hòa Thượng để … “phỏng vấn” thêm …

Chuyện tạm êm, buổi nói chuyện kéo dài … thì có phái đoàn của người Pháp (4 người) ghé thăm. Họ cho biết nghe tin có Anh, Em, Thương Phế Binh …, nên ghé thăm cho biết. Thấy còn lại hơn mười mấy Anh Em. Họ lì xì an ủi Anh Em 1,000,000 $VN, đưa cho Nguyễn Phi Châu chia ra. Châu đưa lại Trần Viết và chia ra mỗi người được thêm 70,000 $VN. Riêng Châu được 60,000 $VN

S’g không thấy đến, MS Chính cũng không (chắc là bận việc), Bùi Văn Mười & Lê Ngọc Hiếu cũng đến. Anh EM tri ân Bác sĩ & Cộng Đồng ….

Hòa Thượng tiễn Anh Em về sau khi bày tỏ cho Anh Em TPB biết là Hòa Thượng sẵn sàng vào Nghĩa Trang Quân Đội theo “lời mời” của TPB để cúng giải oan cho thân nhân tử sĩ của … Gia đình!!!



Buổi trao quà cho những Thương Phế Binh của QLVNCH của Hoà Thượng Thích Không Tánh tại chùa Liên Trì - Thành Phố Sài Gòn. Do Bác Sĩ Phan Minh Hiển ở Pháp và đồng hương Hải Ngoại tài trợ đóng góp



























Sám Hối là phương cách duy nhất xóa ngày tang thương 30.4


Trong một thế giới đầy xung động luôn có những sự tranh chấp. Có nhiều phương cách để giải quyết các cuộc tranh chấp. Thời kỳ hoang dã, hai bên thường giải quyết bằng bạo động, thế giới văn minh các bên có khuynh hướng giải quyết bằng thương thảo ôn hoà. Cùng bị chia đôi đất nước vì khác nhau ý thức hệ, nhưng 3 đảng Cộng sản của 3 nước đã có 3 cách hành động khác nhau. Cộng sản Đông Đức thì bắt tay, thương thảo với Tây Đức để thống nhất đất nước trong hoà bình. Cộng sản Bắc Việt lại gây chiến tranh, huynh đệ tương tàn đến khi có kẻ thắng, người thua mới chịu thôi. Cộng sản Triều Tiên lại khác nữa, cứ để phần ai bên đó giữ, đợi xem rốt cuộc ai đúng, ai sai, hạ hồi phân giải. Việt Nam thì khen Việt Nam anh hùng, vì thắng Mỹ, thắng Pháp, Thái Lan lại khen Thái Lan anh hùng vì tránh được cuộc chiến tranh đối đầu với phương Tây. Không biết ai đúng, ai sai, ai mới thật sự anh hùng? Ai gây tội ác với dân tộc?


Ông Võ Văn Kiệt, cố Thủ Tướng cộng sản Việt Nam, người có một phần trách nhiệm trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, khi về già, ông đã có những nhận định rất khác lạ, nhưng nghe có vẻ chân thành, Ông nói rằng: “Trong chiến thắng 30.4.1975, nếu có một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn…”. Có lẽ, như cổ nhân thường nói: “Nhân tương tử kỳ ngôn dã thiện, điểu tương tử kỳ minh dã ai”, con người sắp chết, lời nói thật thà, con chim sắp chết, tiếng kêu thê lương. Có lẽ cuối đời, ông muốn quay trở về với ông bà, tổ tiên, không muốn đi theo Mác-Lênin nữa, vì ông đã thấy ra rằng, chủ thuyết Mác-Lênin đã sai lầm, nên thẳng thắn, mạnh dạn, dám nói lên sự thật, giống như ông Gorbachev đã can đảm thú nhận rằng: “Chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi (Gorbachev) phục vụ gần cả đời người, toàn là tuyên truyền lừa bịp. Người Cộng Sản chúng tôi tin dùng những điều gian dối để che giấu sự thật . Theo lời ông Võ Văn Kiệt thì tuy cuộc chiến kết thúc nhưng chỉ có người dân nửa nước là vui mừng, còn một nửa lại đau khổ. Ông Võ văn Kiệt, một đảng viên Cộng sản cao cấp, có công lớn trong cuộc chiến, làm đến chức Thủ tướng, là kẻ chiến thắng, nhưng ông đã nói như vậy, thì không một ai trong hàng ngũ lãnh đạo đảng Cộng sản hiện nay, có thể nói gì khác được. Thật vậy, chẳng có cuộc chiến tranh nào mà không gây điều tàn cho đất nước đó, chẳng có cuộc chiến tranh nào mà không mang đến đau thương cho những người dân vô tội. Cuộc chiến Bắc Nam lại kéo dài gần 21 năm trời, tiêu tốn không biết bao nhiêu xương máu của binh lính hai bên, của đồng bào vô tội. Tổng kết gần 10 triệu người chết, nhà cửa tan hoang, ruộng vườn đổ nát, đất nước điêu tàn, dân tình ly tán… Cái hậu quả đau thương mất mát của dân tộc, đã kéo dài từ đó đến nay chưa dứt, không biết đến bao giờ mới hàn gắn được, chứng tỏ cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, do Cộng sản Bắc Việt gây ra, rõ ràng là sai lầm và thất đức. Nếu chỉ vì người dân một nửa nước vui mà lại gây cho nửa nước buồn, thi chi bằng bắt chước Cộng sản Triều Tiên, phần ai nấy giữ, có hay hơn không? Hay tốt nhất là bắt chước Cộng sản Đông Đức, bắt tay với Tây Đức, thống nhất đất nước trong hoà bình thì vui đẹp biết chừng nào!


Ai đã gây ra tội ác này? Ai là người phải chịu trách nhiệm? Ai là kẻ có tội với tổ quốc, với dân tộc Việt Nam?


Sau chiến thắng, 30.4.75, về kinh tế thì Nhà cầm quyền Cộng sản đã áp dụng chủ thuyết vô sản Mác-Lênin để “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa”. Ở miền quê thì quốc hữu hoá ruộng đất của nông dân đem gom vô hợp tác xã. Ở thành thị lại chủ trương đánh công thương nghiệp. Nhà máy, công ty, cửa hàng buôn bán của tư nhân đều bị trưng thu. Tiền bạc bị đổi theo chỉ tiêu mỗi gia đình chỉ được 200 đồng. Trong phút chốc, toàn dân trên cả nước, đều trở thành vô sản. Chủ trương chuyên chính vô sản thiếu cạnh tranh nên không kích thích được nhu cầu phát triển khiến nền kinh tế cả nước dần đi đến kiệt quệ. Dân chúng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đau bệnh không thuốc thang, lại thêm chế độ hộ khẩu, công an trị…cuộc sống mất tự do, đau khổ, cơ hàn như địa ngục. Đến nỗi, năm 1986, Cộng sản đã phải khẩn cấp thay đổi chính sách: “Đổi mới hay là chết”.


Về chính trị thì với tư tưởng hận thù, Nhà cầm quyền đã bắt giam hàng triệu sĩ quan, công chức của Việt Nam Cộng Hoà vào trại tù cải tạo. Qui chế trong trại tù lại tuân theo chỉ thị khắc khe tàn ác của Thủ Tướng Bắc Việt, Phạm Văn Đồng: “Chúng gây tội ác với dân tộc, cho chúng ăn ít, bắt chúng làm nhiều, đó là nhân đạo lắm rồi”. Vì bị đối xử tàn bạo, dã man nên không biết bao nhiêu quan chức chế độ cũ phải bị bệnh tật, chết chóc, trong các trại tù ở nơi rừng sâu, nước độc. Nhiều người phải liều mạng vượt biên, bằng ghe, bằng thuyền, băng rừng vượt biển cố thoát ra nước ngoài. Lớp chết trên rừng, lớp chết dưới sông, lớp bỏ mình ngoài biển cả, làm mồi cho chim cá…Thật là một giai đoạn đau khổ cùng cực cho dân tộc. Trong lịch sử Việt Nam chưa có thời nào như vậy. Cho đến nay, Xã hội vẫn tiếp tục xuống cấp, các tệ nạn trộm cắp, bài bạc, xì ke ma tuý, tham nhũng hối lộ nhiều vô kể. Văn hoá suy đồi, đạo đức băng hoại…


Ai đã gây ra cảnh tượng đau thương này cho dân tộc? Ai mới thật sự là kẻ có tội với tổ quốc, có tội với nhân dân?


Năm 1861-1865, Hoa Kỳ cũng có một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam, Bắc về vấn đề giải phóng Nô lệ. Miền Bắc cũng thắng, Miền nam cũng thua và phải đầu hàng. Sau khi thảo luận giải quyết vấn đề giải giáp cho binh sĩ, hai bên cùng đồng ý rằng, sĩ quan miền Nam vẫn tiếp tục giữ nguyên cấp bực, còn binh lính miền Nam, ai muốn về nhà với gia đình thì về, ai muốn tiếp tục binh nghiệp, thì gia nhập vào binh đoàn miền Bắc. Không có trại cải tạo, không có trại tù. Nghĩa Trang chôn chung binh sĩ hai miền, binh lính tôn trọng lẫn nhau. Đó mới là hoà bình, đó mới là thống nhất, thật đẹp đẽ biết bao.


Hơn cả thế kỷ trước mà Hoa Kỳ đã văn minh như thế. Vậy mà ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn sống trong tư tưởng hận thù như thời kỳ man dã. Tại sao Cộng sản Việt Nam biết sao chép Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, như lời ông Bill Clinton, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ đã nói, nhưng lại không biết bắt chước cách đối xử hoà bình, thương yêu và bao dung cho nhau, như tướng Grand và tướng Lee của hai miền Nam, Bắc Hoa Kỳ đã làm sau khi cuộc nội chiến chấm dứt?


Ông Vó Văn Kiệt còn nói, “Yêu nước cũng có nhiều cách yêu nước”. Không phải như lời tuyên truyền nhồi sọ của Nhà cầm quyền Cộng sản rằng, “yêu nước là yêu Xã hội chủ nghĩa.” Ngày nay chỉ còn vài nước theo Xã hội chủ nghĩa, vậy người dân của hàng trăm nước theo chế độ tự do, dân chủ trên thế giới thì không biết yêu nước hay sao? Các Nhà cầm quyền độc tài đã lợi dụng vấn đề yêu nước như một phương tiện để khủng bố, đàn áp người dân, quyết giữ độc quyền lãnh đạo, vì quyền lợi của bè đảng phe nhóm riêng tư.


Có nhiều cách để giải quyết vấn đề khác biệt về lập trường và tư tưởng. Nhất là đối với người dân trong một nước. Cùng là đồng bào, cùng là bà con, thân thuộc với nhau, tại sao lại phải tương tàn, tương sát nhau chỉ để giải quyết vấn đề tư bản và cộng sản mà phải gây ra bao khổ đau, tan nát. Thật là một sự vọng động và sai lầm quá lớn!


Ngày 30.4.1975, ngày chấm dứt chiến tranh hai miền Nam Bắc, lẽ ra là một ngày vui, lại trở thành một ngày buồn, ngày đất nước rơi vào thời kỳ tăm tối, gia đình ly tán, quê hương tan nát, dân tộc chia lìa. Ngày chấm dứt chiến tranh lại là ngày đất nước rơi vào thể chế độc tài độc đảng theo chủ thuyết ngoại lai sai lầm làm cho nhân dân mất hết tự do, dân chủ, nhân quyền như thời kỳ phong kiến, thực dân, hoang dã. Bạo lực chỉ thâu tóm được đất nước nhưng không thống nhất được lòng người.


Nhu cầu tự do, dân chủ và hoà bình là nhu cầu chung cho mọi người trên thế giới. Đã bước qua thế kỷ 21, một thế kỷ mà các nước trên thế giới đang hướng đến tự do và phát triển về mọi măt, vậy mà người dân Việt Nam vẫn sống bên lề xã hội văn minh. Việt Nam không có các quyền tự do tôn giáo, báo chí, đi lại, cư trú, lập hội… như qui định trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.


Về vấn đề này, Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang, từ năm 2000, lúc còn bị lưu đày ở Quảng Ngãi, Ngài đã viết thư yêu cầu Nhà cầm quyền cộng sản: “Hãy lấy ngày 30.4.1975 làm ngày Sám Hối và Chúc sinh toàn quốc” Ngài đòi hỏi: “ Hãy trả Nhân quyền lại cho người sống và Linh quyền cho người chết”. Nếu được như vậy thì mới thật sự thống nhất đất nước, thống nhất lòng người, nhân dân được đầy đủ quyền tự do, dân chủ, tiếp đến sẽ đoàn kết dân tộc, cùng nhau chống ngoại xâm để cứu nước thoát khỏi nạn bành trướng Đại Hán nguy cấp hiện nay.


Thích Viên Định




Tro ve dau trang
=================================
================================================

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================