HAI MƯƠI BỐN GIỜ CỦA MỘT NGÀY TÙ
Phan Vũ
Tháng Tư, ngày 30, năm 1975, một màn đen khổng lồ rơi ụp xuống dân miền Nam, tước đi tự do và mọi nhân quyền. Cán bộ Cộng Sản tuyên huấn lớn tiếng nói với chúng tôi: “Các anh có tội với nhân dân và tổ quốc. Do đó các anh mất quyền công dân. Cải tạo tốt, được tha về, các anh phải làm đơn xin lại quyền công dân.” Tôi thầm nghĩ, có tội với nhân dân và với tổ quốc có nghĩa là hai cổ chân tôi mang hai cái còng sắt 10 ly suốt 24 giờ. Mất quyền công dân có nghĩa là mất quyền công dân tự do. Làm đơn xin lại quyền công dân có nghĩa là xin quyền công dân Xã Hội Chủ Nghĩa. Tù cải tạo không làm vì quyền công dân Việt tự do không bị mất.
Nằm trên sạp gỗ nhám đầy mạt cưa, dài 8 mét rộng 2 mét, đầu để trên ba lô quần áo, hai chân bị xâu lại bởi hai cái còng sắt 10 ly hình chữ U chụp vào cổ chân, hai đầu còng uốn cong thành chữ O, xuyên qua chữ O là một cây sắt 10 ly dài hơn 10 mét, khóa lại ở hai đầu bên ngoài tường gỗ. Mỗi xâu sắt có độ sáu tù nhân.
Tôi có tội và tôi phải ở tù. Ðúng. Tự do và quyền con người mà tổ tiên Lạc Hồng để lại cho tôi và con cháu tôi đã mất. Tôi chấp nhận và không than vãn. Ðêm dài vì không ngủ được, vì tiếng khóc tỉ tê cảnh vợ không tiền mua gạo nuôi con, nuôi cha mẹ, con phải nghỉ học, ăn mày thức ăn cặn trước cửa hàng ăn uống. Không ngủ, vì rệp từ các khe gỗ bò ra hút máu, vì tiếng thét khi chuột cống cắn vào các mụt ghẻ đầy mủ, vì tương lai của mình, của vợ, và của con.
Guồng máy chính quyền Sài Gòn bị xóa bỏ, thất nghiệp toàn bộ, xưởng thợ nhà máy ngừng hoạt động: nền kinh tế xuống mức số không. Quỹ hưu bổng không còn. Những chuyên viên kinh tế Cộng Sản được đào tạo tại Liên Xô và các nước Cộng Sản Ðông Âu trở thành những sinh viên kinh tế thị trường năm thứ nhất trước nền kinh tế phồn thịnh của miền Nam.
Thời kỳ này, báo Sài Gon Giải Phóng đăng những bài học kinh tế năm thứ nhất do Lâm Võ Hoàng viết. Nước máy Sài Gòn đục như nước sông. Ngô Công Ðức viết bài báo chỉ trích. Hậu quả: tờ Ðiện Tín bị đóng cửa và nhà in bị hốt.
Tôi nằm nhìn trời xanh, có ánh trăng, lúc thì trăng tròn, lúc thì trăng khuyết, trăng mọc lên rồi trăng lặn xuống. Tôi đếm sao, nhưng khe hở giữa tường gỗ và mái tôn quá hẹp, chỉ vỏn vẹn một chục ngôi sao. Có đêm trời đen như mực tàu, gió rít thổi như có tiếng than khóc nức nở từ đâu vang tới, mưa đổ như thác, giọt mưa đập mạnh như búa bổ trên tôn thiết, như có ai ném hận thù cho hả cơn giận. Cả trại đều thức dậy.
Bảy giờ sáng. Tên du kích kéo dây xích 8 ly trên nền xi-măng, tiếng kéo lê kêu sột soạt, lách cách ma quái, rợn người, tù nhân mặt tái xanh, không biết Việt Cộng sẽ làm gì với dây xích. Một tên du kích mở khóa bên ngoài tường, kéo cây sắt ra khỏi các còng. Một tên khác mở toang cửa phòng giam, da mặt xanh mét như màu lá chuối non vì sốt rét. Vài tên du kích khác đứng trên sân, tay lăm lăm khẩu AK. Tên du kích gầy còm độ 16 tuổi, bước vào, kéo theo sợi dây xích, vòng vào cổ chân trái của người tù trong cùng và khóa lại. Sau khi khóa cổ chân người tù ngoài cùng, gần cửa ra vào, tên du kích ra lệnh: “Cầm bô, bước xuống, và ra sân.” Bô là một bình ni-lông một gallon (4 lít), khoét một lỗ lớn, đối diện với tay cầm, dùng để tiểu đại tiện. Xâu chuỗi sáu người tù sắp hàng dài trên sân, sợi dây xích nối liền sáu người tù với nhau, gió thổi bay bụi đỏ khắp sân.
“Các anh bước tới!” tên du kích ra lệnh.
Người tù nào bước chân trái trước cảm thấy đau nhói ở cổ chân vì người đứng sau bước chân mặt trước. Rút kinh nghiệm, một người tù phải hô lên: “Trái, phải, trái, phải” để tránh dây xích siết cổ chân. Ra tới hàng rào, một hố sâu độ 1.5 mét, rộng hơn một mét, dài 10 mét. Mặt tù nhân tái xanh, chân tay run lập cập. Một ý nghĩ thoáng qua: chúng ta bị chôn sống. Tất cả đều dừng lại!
“Ði tiếp, muốn trốn phải không?” Tiếng lách cách lên đạn vào nòng súng. Khi gần tới hố, mọi người thở phào: hố xí!
Tôi bước lên hai tấm ván bìa ngang hai tấc, dài hai mét. Tôi ngồi xuống đi vệ sinh. Người bên cạnh tôi vừa thả vệ sinh xuống, tức thì một đám mây ruồi xanh bay qua mặt tôi. Sợ quá, tôi nhắm mắt lại. Có con đụng vào tay tôi, tôi vội xua tay. Thật là khủng khiếp! Khi nhìn xuống, tôi thấy một cái cần xé tre to, đầy bọ lúc nhúc. Tôi rùng mình, nhắm mắt lại: thật là ghê tởm! Nếu chẳng may một ai đó rơi vào cái cần xé đó... Trời ơi... Tôi không dám nghĩ tiếp. Cảnh tượng này đến với tôi năm tôi 42 tuổi. Hình ảnh khủng khiếp ghê rợn khó quên...
“Sàigòn được giải phóng. Cách mạng đã thành công.” Dầu sao con bọ còn được tự do bò lết, không mang còng suốt ngày đêm như tôi. Chúng tôi là cá mòi nằm xếp lớp trong hộp gỗ. Con chó bỏ vào chuồng thì chủ nó mở xích cho nó. Cảnh sát trại tù đưa người tù nguy hiểm vào xà lim và khóa cửa, thì tù nhân đưa tay qua cửa sổ cho cảnh sát mở còng.
Quân khủng bố Al Qeada bị nhốt tại trại Guantánamo có xà-lim sạch sẽ, mặc quần áo trắng, ngồi đọc kinh Koran. Cuối xà lim có một bàn cầu ngồi và cuộn giấy vệ sinh. Còn tôi, vệ sinh xong, tôi sử dụng giấy báo, khi giấy báo hết phải xé áo thun... Tù cải tạo đứng dậy, trở về phòng, bỏ dây xích và khóa ra, rồi mang còng vào. Mười lăm ngày, mới được xối vài gàu nước, giặt quần áo qua loa, rồi mang vào phòng mà phơi. TV FoxNews Channel chiếu một người lính Mỹ đẩy xe quần áo đã giặt máy, sấy khô, và trao lại cho tù nhân khủng bố. Thật là chua xót.
Khi tôi ngước mắt nhìn ra phía trước, mười đầu súng AK đen ngòm chỉa thẳng vào người tôi. Ðêm ngày 24 tiếng đồng hồ quanh tôi có súng ngắm thẳng vào tôi, sẵn sàng nhả đạn: “giải phóng,.. ngày vui đại thắng...”
Tôi thấy trên TV Sài Gòn, Tôn Ðức Thắng, Lê Duẫn, Lê Ðức Thọ... đứng trên ban công dinh Ðộc Lập, cười hớn hở trong khi cũng trên TV chiếu cảnh một sĩ quan cao cấp Hải Quân đi trình diện học tập làm tù nhân... các sĩ quan cấp tướng và tá khác tự tử đền nợ nước... nhiều hạ sĩ quan anh hùng tự giết mình để khỏi rơi vào tay địch. Tôi nhớ cảnh chiếu Thủ Tướng Nhật Tojo mổ bụng hara-kiri. Tôi cũng nhớ cái clip TT Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, “thuyền trưởng và thuyền phó” một quốc gia, là những người lính “tháo chạy” đầu tiên ra khỏi Saigon trong khi Sirit Matak, người Cam-bốt cám ơn Ðại sứ Mỹ và ở lại đền tội. “I cannot, alas, leave in such a cowardly fashion... I have committed this mistake of believing in you, the Americans.” (Than ôi, tôi không thể bỏ trốn một cách nhục nhã như thế... Tôi đã phạm lỗi này là đã tin vào quý vị, những người Mỹ...) (Larry Berman, Prologue 3, No Peace, No Honor...) Tôi học sử Việt, Võ Tánh chết với Thành Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; Phan Thanh Giản uống độc dược vì không giữ được ba tỉnh Nam Bộ...
Mười giờ sáng, cửa phòng mở ra. Một du kích, quần áo nhàu nát, vô phòng mang hai cái thau nhôm móp méo, cáu bẩn: một cái đựng cơm, còn thau kia đựng nước lèo mắm cá lõng bõng. Tôi được một chén cơm hẩm. Tôi múc một muỗng nước lèo, để vào miệng. Mùi thối của nước lèo làm nôn ọe. Tôi cố nuốt xuống nhưng miếng cơm cứ trào dội lên.
“Ngày trước, chúng nó ở tù, được ăn cơm gạo trắng, thịt cá kho,” một tù nhân nói, “nay chúng nó cho chúng mình ăn không khác gì cho heo ăn.”
Tôi thở dài. Thân thể tôi yếu dần, đi đứng lảo đảo. Tôi cố tập thể dục để giữ sức khỏe. Có tù nhân không đi đứng được mà phải bò. Ðúng là số phận nô lệ, người bại trận. Vũ Thư Hiên, tác giả cuốn sách Ðêm Giữa ban Ngày nhìn thấy chuột cống từ ống cống hôi thối bò lên ăn cơm tù của ông. Tâm tư của Vũ Thư Hiên chắc không khác tình tự của tôi trước đó. Tuy nhiên người bại trận Al Qeada được phục vụ ba bữa ăn: người lính Mỹ bưng cái khay đựng bánh mì, miếng thịt, một quả táo, có cái khăn trắng phủ kín, đem tới từng phòng xà lim. Dân trí cao vì kiến thức cao và hành động đối xử người với người cũng khác nhau...
Ðộ ba giờ chiều, tiếng tù nhân sầm xì, có tù chết đem đi chôn. Nhìn qua kẽ hở giữa các tấm ván vách, tôi nhìn thấy bốn tù nhân khiêng một cái chiếu cỏ lác cuộn tròn, hai tù nhân một đầu chiếu. Có tiếng nói từ phòng kế bên: tù nhân là trung sĩ... người Kẻ Sặc, Hố Nai... trung sĩ trinh sát... Một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi, có lẽ một ngày ảm đạm nào đó tôi sẽ nằm trong một cái chiếu cói khác... Ðói khát, dơ bẩn sinh bịnh tật, không thuốc men chữa trị, rồi chết: cái chết tự nhiên trong bản phúc trình. Chấm hết.
Cơm chiều xong, nhưng vẫn đói, tôi nằm suy nghĩ vẩn vơ về thân phận của tôi. Từ khi tôi lên 10, từ Phú Yên ra đến Thanh Hóa, các trường công đều đóng cửa. Tôi về quê Hà Trung, Thanh Hóa cày ruộng. Một phép lạ đã đưa tôi vào Huế học lại, ba tuần lễ trước ngày 19 tháng 12 năm 1946. Sau 2 tháng, quân đội Pháp trong Ðà Nẵng ra giải phóng Huế và tôi được tự do. Tại Saigon, tôi vừa đi làm vừa đi học để kiếm một nghề mà sống. Tiểu sử của nhà triết học và toán học Gaston Bachelard thúc đẩy tôi học cao (Gaston Bachelard là người bán hoa tại Paris. Năm 30 tuổi, ông mới đi thi tú tài và học lên tiếng sĩ toán và triết học) nhưng chiến tranh đã đưa tôi đi học cách giữ miền Nam và vì bại trận tôi đi vào nhà tù cải tạo.
Thế hệ tôi, trước tôi, và sau tôi, cả miền Bắc và Nam, vào đấu trường để giết nhau - lịch sử Trịnh Nguyễn lại tái diễn. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, và đảng Cộng Sản nhờ xảo quyệt cướp chính quyền và cai trị bằng sắt máu. Chuyên chính, độc tài, và tần nhẫn đã thắng miền Nam. Chính sách của miền Nam yếu mềm - miền Nam không chủ trương giải phóng miền Bắc và chỉ bảo vệ lãnh thổ miền Nam. Trên võ đài, võ sĩ chỉ thế thủ nhất định là thua vì thế công là thế thủ của ta cộng thêm thế đánh của ta. Việt cộng pháo vào chợ Bến Thành trong khi Hồ Chí Minh được bảo đảm an toàn uống trà Thái Nguyên và hút thuốc Philip Morris tại phủ Chủ Tịch Hà Nội. Thật buồn cười...
Vì những lý do nào Mỹ bở rơi Saigon? Tại sao họ không thích chúng ta? Nhưng có 58,000 lính Mỹ chết vì chúng ta, tại sao? Vậy ai ủng hộ chúng ta và ai chống chúng ta? Tôi không có câu trả lời. Tại sao một số cựu chiến binh Mỹ ném trả những huy chương mà họ đã phải đổ máu, mồ hôi, và cực khổ để có? Sinh viên Mỹ nghĩ gì khi treo cờ Giải Phóng Miền Nam? Tôi nghĩ nguyên do là họ không hiểu biết bản chất thật sự chiến tranh Việt Nam. Không ai giải thích cho họ hiểu biết, ngay cả Bùi Diễm và Nguyễn Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Mỹ, cũng không có thuyết trình, giải bày trên TV Mỹ và báo chí Mỹ, hội luận, phản bác luận điệu sai lạc. Nguyễn Thái Bình, du học sinh đi từ Saigon đã cướp máy Mỹ trên đường về Việt Nam. Nay, năm 2000, tôi đã tìm ra nguyên do: Phim We Were Soldiers dựa theo sách We Were Soldiers Once... and Young, Tướng Lt. General Harold G. Moore viết, “In the broad, traditional sense that ‘we’ who went to war was all of us, all Americans, though in truth at that time the larger majority had little knowledge of, less interest in, and no great concern with what was beginning so far away.” (Theo nghĩa rộng và truyền thống, rằng ‘chúng ta’ đi đánh giặc là tất cả chúng ta, tất cả người Mỹ, mặc dầu sự thật vào thời điểm đó, đại đa số khá lớn hiểu biết rất ít, không có lợi ích nhiều, và không quan tâm lớn đến những sự kiện đang bắt đầu diễn ra ở một nơi quá xa.) (We were Soldiers Once... and Young, Prologue.)
Nay, tôi cũng biết tại sao có 58,000 lính Mỹ chết - Tướng Moore viết tiếp, “...This is a love story, told in our own words and by our own actions... we went where we were sent because we loved our country. We were draftees, most of us, but we were proud of the opportunity to serve that country (Vietnam) just as our fathers had served in World War II and our older brothers in Korea.” (...đây là một chuyện tình, nói bằng ngôn ngữ riêng của chúng ta và bằng hành động riêng của chúng ta... chúng ta đi đến nơi mà chúng ta được gửi tới vì chúng yêu đất nước của chúng ta. Chúng ta đều là lính quân dịch, phần lớn trong chứng ta, nhưng chúng ta hãnh diện vì cơ hội chúng ta phục vụ xứ sở đó [tác giả nói là Việt Nam] đúng như cha ông chúng ta đã phục vụ trong Thế Chiến Thứ Hai, và anh chị lớn của chúng ta đã phục vụ tại Nam Hàn.) (Prologue) Thật là cao thượng!
Tôi ngủ thiếp đi... Nhưng lúc 12 giờ khuya, tiếng la phát ra từ một căn tù, “Cán bộ, Cấp cứu! Cán bộ, có người tự tử!” Cán binh Việt Cộng tới quát tháo inh ỏi. Có tiếng đáp: “Anh này lấy cái đũa tre móc gân máu ở cổ.” Một thanh niên tự tử; thật là uổng cho tuổi thanh xuân đầy tương lai; sao lại chọn cái chết? Có lẽ anh ta chán nản, mất niềm tin cho cuộc sống mai sau. Tôi phải nhịn nhục để sống, nhất định tương lai sẽ xán lạn.
Kỷ niệm ngày 30 Tháng Tư thứ 35, chúng ta “người Mỹ Việt sống sót và con cháu” tụ tập quanh Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ, mời gọi 58,000 vong linh Mỹ và 300,000 vong linh Việt về để vinh danh, mời gọi các thương phế binh Mỹ và Việt, và thân nhân Mỹ và Việt có cha, mẹ, chồng, vợ, con, và cháu đã hy sinh cho miền Nam đến để chúng ta tỏ lòng tri ân, cảm tạ.
CHUYỆN ĐI CẢI TẠO
CHUYỆN THÁNG TƯ:
Bắt đầu từ 1982, các tù cải tạo đã gửi ra Bắc lần lượt được chuyển về Nam, về Hàm Tân và Xuân Lộc. Và từ đó, có nhiều đợt tha về với gia đình, chịu sự quản chế (probation) cực kỳ nghiêm khắc. Ngoài một phần ba còn bị giam tại trại Nam Hà, các trại khác ngoài Bắc cũng thay phiên nhau đóng cửa. Cho đến năm 1987 thì còn ở ba trại Nam Hà, Hàm Tân và Xuân Lộc khoảng trên 600 tù cải tạo thuộc loại "chính quyền và quân đội VNCH. Số tù khác thuộc nhiều dạng khó phân biệt từ đâu, nên ai cũng phải cảnh giác, không nên vội cho là phe ta mà bị hố.
Trước khi rời trại A Xuân Lộc để sang trại B, Võ Quế và tôi đã từng lân la tìm hiểu các tù mới đến. Có một chú em thấy tên Võ Quế trên áo tù, chú bèn hỏi Võ Quế có đứa con nào tên...không, vì hắn đã c'ung vào tù ở Vũng Tàu, nay thì không biết chuyển con của Võ Quế đi đâu. Đấy là tù bị bắt trong các chuyến vượt biển. Còn có một số người lớn tuổi hơn, không nói chuyện với ai, chỉ nằm yên trong gốc phòng giam. Hỏi chú nhỏ khi nãy xem có biết họ là ai, thì chú bảo không rõ, nhưng sau này được nghe cán bộ trại gọi họ là "đồng chí". Có thể là nhem nhúa gì đây. À mà có đi chui thì có bán bãi, đi chui bị bắt thì bán bãi cũng vào tù Chuyện nhỏ!
Điều đáng ghi nhận là, có đợt về thì có đợt vô, giữ sự quân bình của trại giam. Sau các đợt tha thì có vấn đề biên chế lại các đội, và chuyển trại để duy trì nhân số tù từng trại cho thích hợp. Vì thế tôi sang trại Xuân Lộc B, ở chung với các anh như Phan Văn Mạnh là người đã từng tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Không Quân trong t'ụ Và tôi cũng được mời tham dự. Hân hạnh! Rồi cũng có nhiều đợt tha về từ trại Z30B Xuân Lộc này, nên tôi lại được chuyển ra trại C gần cổng trại. Ra đây là một niềm vui cho tôi, vì tôi được gặp lại nhiều người quen từ thời còn học trung học với nhau.
Trại C này nổi tiếng là đã tổ chức trốn trại tập thể một lần, cướp vũ khí của cai tù, và có FULRO dẫn đường nên cả đám vào được trong rừng. Tuy vậy, có nhiều anh trốn đã 5 năm, sau bị bắt lại. Ở trại C này, tôi cũng được làm quen với một số anh em "phục quốc", tuy chưa hoạt động được nhiều, nhưng hào khí còn "khá” lắm, có đường lối chủ trương hẳn hoi, hành động có lớp lang, có vẻ được trí thức lãnh đạo. Nghe thấy cũng mừng cho thế hệ đàn em có vẻ khá hơn, nhưng chưa chi lại đi vào tù rồi thì còn gì để chơi. Còn một số đầu trâu mặt ngựa khác mà từ trước trong suốt quá trình cải tạo không khi nào gặp, đó là ở chung với tù hình sự, mà lại là tù hình sự do VNCH giam tại Côn Sơn, nay chuyển về đây để ở chung với chúng tôi. Có tên là kẻ sát nhân trong quân ngủ trước kia, chỉ vì đánh bài lận rồi đánh chết đồng đội, hay những tội ác động trời. Thật là đáng sợ khi phải ở chung với họ.
Lúc nào họ cũng có vũ khí giết người mà họ gọi là để phòng thân. Có anh nằm một gốc sạp phải bằng ba lần chiếu người khác, chỉ vì không ai giám nằm gần anh. Anh nằm trên sạp trên, nếu ai bất thần thò đầu lên mà anh chưa được báo trước thì sẽ thấy dao kè cổ khi vừa lú đầu lên. Cái phản xạ tự nhiên sau nhiều năm phải sống trong cảnh mạnh thì sống, yếu thì chết trong tù đã rèn luyện con người họ như thế đấy. Sống chung với họ đã khiếp rồi, nếu phải dẩn họ đi lao động, cắt công việc cho họ làm, đó là điều không có đội trưởng nào muốn cả. Vì vậy, có một ngày, không hẹn nhau, tù chính trị như chúng tôi đây cho chúng một bài học, đánh cho nhừ tử, đánh cho gần chết mà không giám kêu ca gì nữa. Cán bộ trại điều tra cũng không khai là ai đánh họ.
Không Quân vẫn giữ truyền thống tốt, giúp đỡ, đoàn kết lẫn nhau, có thể nói là tình quân chủng nổi bật làm các quân binh chủng khác phải ganh tị. Khi "Tâm Giò" bị sạn thận, thì KQ cũng khuyên góp tiền và xin thầy chữa bằng thuốc Nam cho anh, khi tất cả thuốc Tây đều không mua được. Đó là trong trại Z30A . Còn ra Z30C thì có một anh bị suy nhược, tuy bề ngoài còn đi đứng được, nhưng không biết ngày nào anh đứt hơi, nên chúng tôi cũng khuyên góp tiền để anh tẩm bổ. Bình thường thì các ngày lễ KQ, chúng tôi đều ngồi chung với nhau, ăn hủ tiếu, bún bò, ...do đại đầu bếp Võ Ý đứng thầu, nhưng khi thăm nuôi, ai có vui thì cũng mời nhau dự một tiệc trà chung. Năm ấy, 1987, vào ngày lễ Không Quân, chúng tôi lấy làm ngạc nhiên có một tù mới, mới vì mặt còn trẻ so với chúng tôi, mới vì không phải là sĩ quan mà cũng vào tù, mới là vào tù khi chúng tôi chuẩn bị về..."Sao? Tự khai đi chứ, không lẽ đợi các ông tra khảo mới nói à!" Thế là anh kể.
"Em là Trung sĩ, đệ tử của ông Thôn tại BTLKQ. Sau tháng 4-1975, em về Mỹ Tho làm ăn với gia đình. Thật là khó sống với bọn chúng. Cái gì cũng chèn ép, hăm dọa, khám xét tối ngày. Không làm gì mà moi riết rồi cũng có chỗ chúng kết tội mình. Vì vậy, một ngày nọ, có anh cựu Trung Úy Hải Quân vừa ra tù chẳng bao lâu, anh rủ ren tôi gia nhập lực lượng phục quốc tại vùng này, tên gọi Sư Đoàn Tiền Giang. Tôi vào liền, chẳng cần suy nghĩ gì nữa. Vào tổ chức này thì chưa hoạt động gì cả, vì bảo quân số còn thiếu, trang bị còn kém, nên cứ nằm im mà chờ lệnh. Có hôm anh phát cho tôi một bản đồ tỉnh Tiền Giang, loại bản đồ quân sự trước đây đã được quân đội VNCH sử dụng và bảo tôi quản lý cho tốt.
Chừng một tháng sau, anh giao cho tôi một súng Colt-.45, và cũng chỉ tôi tháo ráp, vô dầu mỡ, và bảo quản cho tốt, nhất là chỉ có một gắp 7 viên đạn mà thôi. Ba tháng sau, anh đến cho tôi biết sẽ có một cuộc họp ra mắt Sư Đoàn Tiền Giang với Thượng Cấp, nên hẹn nhau đúng ngày gặp nhau ở một địa điểm gần Trung Lương, vào lúc 8 giờ tối. Khi mọi người tề tựu đông đủ để chào đón Thượng Cấp thì Công An áp vào bắt trọn ổ, với đầy đủ tang vật. Vì thế nên vào tù với các ông, ngoài tôi, trong trại A có thêm một Trung Úy Quân Cảnh Không Quân."
Đó là công tác làm sạch xã hội của bọn CS. Làm bất cứ điều gì, bảo đảm đạt kết quả là tốt. Rất nhiều thanh niên hết sức bất mãn dưới gông cùm của chế độ hà khắc, hay chụp mũ người ta, quét nhà ra rác, làm mọi cách để kết tội và nhốt; và chủ trương "thà nhốt lầm hơn tha lầm". Tổ chức Sư Đoàn Tiền Giang là để dụ dỗ ai còn máu nóng, muốn đứng lên trả thù, thì CS giúp một tay để đưa vào tù cho gọn.
Khi tôi về Tiền Giang để cư ngụ sau khi được tha, khi đó, không còn chế độ quản chế, vì lệnh của Bộ Nội Vụ, không biết vì lý do gì. Tôi ở trong ruộng cùng với gia đình. Ba tháng hai lần, hai người thuộc Cục Phản Gián đến thăm tôi. Họ thường hỏi tôi, tại sao không ở Saigon, mà bán nhà trên đó để về Tiền Giang(trước đây là Định Tường, hay Mỹ Tho) mà ở. Tôi bảo họ là "vì vợ con không biết làm gì để sống ở Saigon".
Họ lại hỏi "về Mỹ Tho sao không ở nhà cha mẹ ở thị xã, tại sao về ruộng mà ở?". Tôi bảo là "nhà mẹ tôi ngoài thị xã đã bị tịch thu làm nhà thương rồi, mà vợ con tôi ở Mỹ Tho đâu biết buôn bán gì?" Thế rồi, cứ kỳ này gặt lúa, chú "phản gián" hẹn tôi, lúa trổ đồng đồng sẽ lên thăm. Có một hôm, có một anh tuổi trạc chúng tôi, đến gạ gẫm với tôi. Anh bảo anh là lính Tây thời trước, sau thì chuyển vào quân đội VNCH, bây giờ sống ở đây, nhưng chẳng khi nào giám nói chuyện với ai cả.
Nay có ông về đây ở, có gì cứ chỉ bảo, đàn em sẵn sàng nghe lệnh. Tôi cười bảo: "Anh làm cho ai thì tôi không cần biết, nhưng lo cái mạng của anh đi, còn phần tôi, chỉ biết làm ruộng làm rẫy mà nuôi thân thôi." Nghĩa là họ cũng dùng lại "mứng" củ. Có lần chú "phản gián" lên thăm nhắc lại thắc mắc củ của chú, "tại sao tôi vào ruộng ở?" Tôi bèn phân tách cho chú ấy hiểu:
"Hết rồi, tan hàng rồi, còn gì nữa mà chơi? Chỉ có các chú trẻ, còn nhiều máu nóng, không biết trời cao đất rộng thì mới điên khùng "nổi dậy", "phục quốc"... Chứ tôi thì không. Chỉ có làm ăn chất phác mà thôi. Tại sao?
Vì có ai mà giỏi như Hồ Chí Minh, mà có tài như ông ta thì cũng phải tốn đến "30 năm mới có ngày nay", thì nếu được một nhà lãnh đạo tài tình như ông ấy thì cũng mất 30 năm nhân dân gánh chịu đau khổ nữa mới mong đạt được cái gì. Và chừng đó, chắc gì cái mà muốn xây dựng lên lại chẳng là một cái chẳng ra gì khác.
Thôi, mệt lắm, nghĩ không thôi cũng thấy chán rồi, huống chi là bảo tôi làm". Chú "phản gián" chăm chú nghe, tôi hy vọng chú hiểu, và sau này, chú không hề hỏi tôi tại sao về ruộng ở. Tôi biết là họ rất lo. Vì thế, thỉnh thoảng sai bọn du kích xã đến nhà tôi kiểm tra hộ khẩu vào giữa đêm. Trước ba người, sau hai người, lên cò súng nghe sướng tai hay lạnh xương sống? Nhà chỉ có một ông già và hai bà già. May là họ chỉ muốn kiểm tra chứ không cố tình bắt nhốt, vì chừng đó, họ chỉ cần vu khống chụp cho cái mũ gì đó là xong chuyện.
Có hôm, tôi ăn giỗ nhà hàng xóm, gặp một Thượng sĩ Không Quân trước làm cho Ngy Cao Nguyên. Hắn ê càng đến độ biết tôi mà không giám nhìn, vì hắn đã bị bắt theo Sư Đoàn Tiền Giang và ở tù 5 năm. Nhưng đến ngày nay,chắc hắn cũng an ủi phần nào, vì Mỹ đồng ý cho định cư tại Mỹ những người đã trải qua trên 3 năm tù dưới chế độ CS ở VN.
Mánh gạt người của CS dùng đi dùng lại nhiều lần, trong nước như ngoài nước. Cái chính ở ngoài nước là đô la, làm sao gạt để lấy đô lạ Cái thứ là để ly gián những ai mà CS cho rằng có tài lãnh đạo, phải làm cho họ thân bại danh liệt. Nói cách khác là diệt trong trứng nước những mầm móng gây hiểm họa cho chế độ của chúng. Thật là khó mà nhận ra thế nào là bị gạt. Chẳng hạn khi ta bị một người nào đó cho ta nhiều hứa hẹn để làm giàu mà ta nghĩ đi nghĩ lại chẳng cách nào có thể làm giàu như vậy được, thì cứ tin rằng đó là gạt gẩm còn hơn là bước tới một bước thử thời vận.
Trên xứ Mỹ này, nếu ta có thể gạt được một ngày 10 người, mỗi người chỉ $20, thì ta đã được $200. Do đó, khi người ta bảo vào phong bì mà được trả $1 cho 10 phong bì đi nữa cũng là điều không thể có rồi. Đó là chuyện gần, có thể xảy ra ngay trước mắt tạ Còn chuyện lớn hơn, tức nhiên cần đến nhiều tiền hơn, cần đánh thức lương tâm ta hơn, phải chọn những dịp tốt, những người có lương cao, và người ta chỉ cần "khích tướng", hay "hứa hẹn" trên trời dưới đất, nếu có ai tin thì sẽ bị mắc lừa. Cứ tự hỏi mình, "họ làm như vậy sẽ có lợi cho ai?" chừng đó, bạn sẽ không còn bị gạt nữa. Những người gạt bạn có thể là bạn rất thân của bạn, chỉ vì họ cũng đã bị gạt rồi.
oOo
No comments:
Post a Comment