VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Monday, October 31, 2011

Chính sách nhà Minh và CS Trung Quốc đối với VN

Trần Gia Phụng
tka23 post
(Trình bày tại Lễ Giỗ Hưng Đạo Đại Vương và Lê Thái Tổ Ngày 15-10-2011 tại thành phố Mississauga, Ontario.)
1.- CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ MINH VÀO THẾ KỶ 15
   Quân Minh đô hộ nước ta từ năm 1407, và thi hành chính sách thuộc địa khai thác.  Để thực hiện công cuộc khai thác, trước hết, nhà Minh đổi Đại Việt thành quận Giao Chỉ, sáp nhập Đại Việt vào Trung Quốc, tổ chức hành chánh quận Giao Chỉ như một quận ở Trung Quốc, đưa người Trung Quốc sang nắm những chức vụ then chốt, dùng một số người Việt chịu cộng tác với nhà Minh vào những chức vụ địa phương.
   Sau khi sáp nhập Đại Việt và Trung Quốc, quân Minh tiến hành kế hoạch đồng hóa.  Quân Minh tịch thu hoặc tiêu hủy tất cả các loại sách vở của nước Nam, kể cả các bia đá ghi lại sự nghiệp của tiền nhân.  Quân Minh chở về Trung Quốc hầu như toàn bộ sách vở Đại Việt đã có từ thời Hồ Quý Ly trở về trước. Các sách nầy được Phan Huy Chú ghi lại trong chương “Văn tịch chí” sách Lịch triều hiến chương loại chí.  Thay thế sách vở Đại Việt đã tịch thu và tiêu hủy, nhà Minh cho phát hành rộng rãi sách vở Trung Quốc do vua Minh cho san định lại.
Tháng 9 năm 1414 (giáp ngọ), người Minh ra lệnh lập Văn miếu (thờ Khổng Tử), các đàn thờ thần xã tắc, núi, sông, gió, mưa ở các phủ châu huyện.
  Về phong tục, người Minh buộc thanh niên nam nữ không được cắt tóc mà phải để tóc dài; phụ nữ phải bận áo ngắn quần dài như người Minh. Người Minh còn cấm người Việt không được ăn trầu. Ăn trầu là một tục lệ lâu đời của người Việt.  Cũng trong năm 1414, nhà Minh mở trường học ở Thăng Long và các phủ, châu, huyện.
Trong khi từ từ  đồng hóa người Việt, nhà Minh tổ chức khai thác kinh tế để phục vụ nhu cầu của Trung hoa. Về tài nguyên nhân lực, nhà Minh bắt hết nhân tài Đại Việt, những người thông minh, thông kinh, học rộng, quen thuộc việc quan, chữ đẹp, tính giỏi, nói năng hoạt bát, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh, dũng cảm, quen nghề đi biển, khéo nghề sản xuất gạch, làm hương… đưa về Trung hoa sử dụng.
  Về nông nghiệp, quân Minh quy định mỗi mẫu ruộng chỉ có 3 sào, thay vì 10 sào như cũ.  Đổi đơn vị đo lường như thế có nghĩa là tăng thuế ruộng đất lên hơn ba lần. Năm 1410 (canh dần), quân Minh ra lệnh đặt đồn điền ở các nơi gần thành Thăng Long, thu mua lúa ở các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam Giang, để cung ứng thực phẩm cho đoàn quân viễn chinh; buộc dân Việt trồng hồ tiêu đặc sản để chuyển về Trung hoa như: hương liệu, hươu trắng, chim vẹt, vượn bạc má, trăn …Người Minh còn bắt dân chúng vùng rừng núi tìm bắt voi, tê giác, và dân chúng làm nghề chài lưới ven biển đi mò ngọc trai.
Tháng 7 năm mậu tuất (1418), người Minh thiết lập trường sở thu ngọc trai tại hai địa điểm có hải phận sinh sản nhiều ngọc trai.  Đó là Vĩnh An (Tiên Yên, Vạn Ninh, Quảng Yên) và Vân Đồn (Vân Hải, Quảng Yên).  Hằng ngày, hàng ngàn dân bị đưa đi mò ngọc trai cho người Minh.
  Về công nghệ, người Minh thu mua vàng bạc, những kim loại quý hiếm chở về Trung hoa.  Tháng 8 năm ất mùi (1415), nhà Minh thiết lập các trường cục cai quản các vùng mỏ vàng bạc, đốc thúc dân đinh khai đào các kim loại quý, kiểm điểm sản lượng và niêm phong nạp lên thượng cấp.
Nhà Minh thực hiện chính sách thuộc địa khai thác một cách triệt để đến nỗi trong bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã than: “Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen,  nào lưới dò chim sả.  Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay! quan quả điên liên….  Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.  Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.  Độc ác thay!  trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi.  Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.”
2.-  CHỦ TRƯƠNG CỦA CỘNG SẢN TRUNG QUỐC VÀO THẾ KỶ 20 và 21
Lược qua chính sách của quân Minh, có lẽ mọi người nhớ lại vào năm 1975, khi vừa cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức miền Nam Việt Nam, Cộng sản Việt Nam (CSVN) tập trung và đốt hết sách vở miền Nam nhằm tiêu diệt văn hóa miền Nam, truyền bá văn hóa Mác-xít, không khác gì nhà Minh đã tiêu diệt văn hóa Đại Việt, truyền bá văn hóa Trung hoa.
Cũng sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, CSVN bắt sĩ quan, công chức cao cấp VNCH đi học tập cải tạo, thực chất là bắt giam trong các trại tù trên rừng thiêng nước độc và bắt lao động khổ sai. Số người  bị bắt giam lên khoảng 1.000.000 người, trong 150 trại giam và số người bị chết trong các trại giam lên đến khoảng 165.000 người. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.)  Cách bắt người đưa lên các trại tù học tập cải tạo của CSVN không khác gì quân Minh đã đày đọa dân Việt vào thế kỷ 15: “ Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu …”
Những chủ trương trên đây là do CSVN học theo quan thầy là Cộng sản Trung Quốc (CSTQ). Cộng sản TQ đối với Việt Nam vào thế kỷ 20 và 21 còn thâm độc hơn nhà Minh đối với Đại Việt vào thế kỷ 15. Trước hết, trong một tài liệu của đảng CSTQ tựa đề là “Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, đưa ra năm 1939, lãnh tụ đảng CSTQ là Mao Trạch Đông đã xác quyết rằng An Nam (tức Việt Nam) là “nước phụ thuộc của Trung Quốc.” (Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng CSVN, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.) (Lúc nầy CSVN đang chống CSTQ.) Điều nầy chẳng khác gì nhà Minh sáp nhập Đại Việt thành một quận của Trung hoa vào thế kỷ 15.
Từ năm 1950, khi bắt đầu viện trợ quân sự cho CSVN, CSTQ cũng “viện trợ văn hóa” cho CSVN.  CSVN tổ chức các phong trào “rèn cán chỉnh cơ”, “rèn cán chỉnh quân”, “chỉnh huấn”, theo cách thức CSTQ, nhằm loại bỏ tất cả các thành phần dân tộc trong cuộc chiến chống Pháp.  Vì vậy từ năm nầy, nhiều nhà yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc đã ly khai Việt Minh và về thành phố hợp tác với chính phủ Bảo Đại.
Cuộc Cải cách ruộng đất theo công thức của CSTQ đã giết hại khoảng 200,000 người dân một cách oan ức. Công thức của Trung cộng do một đảng viên CSVN cao cấp ghi lại là “một xã có từng nầy bần cố nông thì theo kinh nghiệm Trung công , nhất định phải có bằng nầy địa chủ”.(Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội [tái bản], California, 1995, tr. 166.)
Trong cuộc CCRĐ năm 1955, tại Thanh Hóa, đội CCRĐ đã đập phá tấm bia đá từ thế kỷ 15 ghi công đức của Lê Lợi tức Lê Thái Tổ. (Nguyễn Minh Cần, “Xin đừng quên! Nửa thế kỷ trước”, điện báo Ánh Dương, ngày 3-2-2006.)  Đội CCRĐ còn đốt nhà thờ tộc họ Nguyễn của đại thi hào Nguyễn Du ở Nghệ An, tiêu hủy tất cả những di cảo của đại thi hào nầy. (Nguyễn Minh Cần, báo đã dẫn.). Cũng tại Nghệ An, anh hùng dân tộc Phan Bội Châu bị đội CCRĐ đem ra đấu tố và ảnh của Phan Bội Châu bị quăng vào chuồng trâu. (Lời kể của cháu nội Phan Bội Châu trên báo Kiến thức ngày nay, số 50, Tp.HCM ngày 15-12-1990, và thư của Lê Nhân gởi Phan Văn Khải, trên báo Đàn Chim Việt ngày 5-12-2005.)  Hành động nầy không khác gì nhà Minh vào thế kỷ 15, đập phá bia đá của Đại Việt, đốt hoặc tịch thu sách vở của Đại Việt đem về Trung Quốc.
Còn nữa, để lấy lòng Trung cộng, CSVN ký công hàm ngày 14-9-1958 công nhận Tuyên bố ngày 4-9-1958.  Bản tuyên bố nầy chẳng những xác định hải phận 12 hải lý của Trung cộng mà còn xác định chủ quyền của Trung cộng trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn là của Việt Nam. Đây là tội phản quốc lớn lao nhất trong lịch sử dân tộc, dâng đảo, dâng biển cho ngoại bang bắc phương.
Bị CSTQ áp lực nặng nề, sau năm 1975, CSVN chạy theo Liên Xô, muốn chống lại CSTQ.  Vì vậy năm 1979, CSTQ “dạy” cho CSVN một bài học.  Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 chấm dứt tình trạng lưỡng đầu trong khối Cộng sản Quốc tế. Trung cộng trở thành cường quốc cộng sản số 1 trên thế giới. Từ đây CSVN không còn sự chọn lựa nào khác; không còn đu dây giữa Liên Xô và Trung công. Nếu muốn tồn tại, CSVN bắt buộc phải thần phục và qụy lụy cường quốc cộng sản còn lại là Trung cộng.  Về phía Trung cộng, không còn sợ bị Liên Xô canh tranh ảnh hưởng, CSTQ áp dụng kế hoạch tằm ăn dâu, từ từ nuốt dần con mồi Việt Nam.
Trên danh nghĩa, CSTQ không đô hộ Việt Nam như nhà Minh đô hộ Đại Việt, nhưng CSTQ khống chế đảng CSVN và dùng đảng CSVN làm công cụ khai thác Việt Nam nhằm phục vụ Trung cộng. Có lẽ chúng ta còn nhớ là trong nền bang giao giữa Đại Việt và Trung cộng, trước kia vua chúa Đại Việt phải gởi phẩm vật sang triều cống Trung hoa, nhưng vua chúa Đại Việt vẫn độc lập một cõi và không cúi đầu vâng phục Trung Quốc.  Trong khi đó, hiện nay, lãnh đạo CSVN nằm trọn trong tay CSTQ, nên CSVN phải thi hành những mệnh lệnh của CSTQ.
Đầu tiên, CSTQ áp lực CSVN phải ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển. Trước kia còn Liên Xô làm đối trọng, CSVN dựa vào Liên Xô để tìm cách tránh né CSTQ. Lần nầy Liên Xô đã tan rã, CSVN đành phải vâng lời Trung cộng.  Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam Trung Quốc ngày 30-12-1999 nhượng ải Nam Quan và một nửa Thác Bản Giốc cho Trung cộng. Hiệp ước phân định lãnh hải ngày 25-12-2000, nhượng cho Trung cộng khoảng 10.000 cây số vuông mặt biển trên Vịnh Bắc Việt.
Người Trung Quốc tràn vào Việt Nam càng ngày càng đông, không cần hộ chiếu nhập cảnh, lập gia đình và ở lại luôn Việt Nam, chẳng những cạnh tranh về kinh tế với người Việt Nam mà còn nhắm mục đích đồng hóa Việt Nam. Hàng hóa công nghiệp rẻ tiền của Trung cộng tuông vào Việt Nam qua đường biên giới rộng mở, giết chết các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nước Việt Nam.
Trước kia, quân Minh lập đồn điền, thu mua lúa gạo, thực phẩm gởi về Trung hoa.  Ngày nay người Trung Quốc vơ vét thực phẩm Việt Nam, nhất là hải sản đưa về Trung Quốc.  Trung Quốc thu mua nhiều loại “đặc sản” lạ lùng, như móng trâu, tai ngựa, rắn rết, …  Muốn bán móng trâu, tai ngựa thì phải giết trâu ngựa.  Bắt rắn rết đi bán thì làm mất cân bằng sinh thái trong thiên nhiên…  Đây là những kế hoạch nhằm hủy hoại môi trường và kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra, Trung công còn thuê đất dài hạn của Việt Nam, từ đồng bằng lên rừng núi, tổ chức canh tác những nông phẩm theo nhu cầu xuất cảng của Trung cộng để gởi về nưc, hoặc xuất cảng thẳng đến các khách hàng của Trung cộng trên thế giới.
Ngày trước, quân Minh bắt dân Việt vùng rừng núi tìm những sản phẩm quý hiếm là sừng voi tê giác . Ngày nay, CSTQ tổ chức sản xuất bauxite ở vùng cao nguyên Cao Bằng và Lâm Đồng, chẳng những tác hại về môi trường mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh vùng cao nguyên. Công nhân Trung cộng trong những nông trường và công trường là những quân nhân “ẩn tế”, mai phục sẵn sàng, chờ đợi thời cơ là ra tay hành động. Ngày trước quân Minh bắt ngư dân Việt Nam xuống biển mò ngọc trai, thì ngày nay, CSTQ lấn biển, chiếm ngư trường, tìm kiếm loại nguyên liệu quý dưới lòng biển là dầu hỏa.
Vào thế kỷ 15, hoàng đế nhà Minh chỉ áp lực Đại Việt ở phía bắc. Ngày nay, CSTQ thâm độc hơn, áp lực Việt Nam ở cả 3 mặt:  bắc (biên giới Việt-Trung), tây (Lào, Cambodia và dãy Trường Sơn), và đông (Vịnh Bắc Việt và Biển Đông). Vua chúa Trung hoa chỉ ham đánh chiếm đất liền. Ngoài đất liền, CSTQ còn đánh chiếm hải đảo, hải phận và ngư trường Việt Nam.
Một bài học lịch sử trong cuộc kháng Minh của Lê Lợi đáng ghi nhớ: Khi nhà Hồ đảo chánh nhà Trần năm 1400, một vài con cháu nhà Trần chạy qua Trung hoa cầu cứu nhà Minh. Vì vậy, Lê Lợi không dính líu đến nhà Hậu Trần nhằm tránh tai tiếng và tránh bị nội ứng, chờ đợi cho đến khi con cháu nhà hậu Trần hoàn toàn  sụp đổ năm 1414, thì khi đó Lê Lợi mới bắt đầu chiêu tập hào kiệt, tổ chức hội nghị Lũng Nhai năm 1416, cùng nhau thề nguyền chung sức chống quân Minh, và sau đó mở cuộc kháng Minh năm 1418.  Đây là một kinh nghiệm mà ngày nay chúng ta cần phải học hỏi.
Ngày nay, Hồ Chí Minh và CSVN rước quân CSTQ vào Việt Nam, rồi làm tay sai cho CSTQ.  Đảng CSVN ngày nay vô cảm với tình tự dân tộc, đàn áp và giải tán tất cả những cuộc biểu tình chống Trung cộng ở trong nước. Đàn áp lòng yêu nước của quần chúng là một sự phá sản tinh thần dân tộc chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam.
   Như thế, CSVN còn đó thì không thể chống Trung cộng được. Muốn chống Trung cộng thì trước hết phải chấm dứt đám nội ứng CSVN, giống như Lê Lợi muốn chống quân Minh thì phải đợi cho nhà Hậu Trần sụp đổ.
    Vừa qua, có một số người ở hải ngoại viết “Thư ngỏ” gởi CSVN là một việc làm thật là vô ích. Đúng là “đàn gảy tai trâu”. Nếu quý vị còn quan tâm đến tiền đồ dân tộc, muốn viết thư ngỏ, thì xin quý vị hãy viết thư ngỏ kính gởi nhân dân Việt Nam, kính gởi hơn 80 triệu đồng bào trong nước, kêu gọi đồng bào hãy đoàn kết với những nhà tranh đấu dân chủ trong nước, đồng loạt đứng lên giải thể chế độ độc tài CSVN, chấm dứt nạn tay sai nội ứng, thì lúc đó dân tộc Việt Nam mới có thể chiến đấu chống Trung cộng.
(Toronto, 15-10-2011)
© Trần Gia Phụng
__._,_.___
CHỐNG CỘNG CÒN HỢP THỜI?
Vi Anh
 
Nếu Tú Xương sống lại thời này ắt sẽ than, “Chống Cộng ngày nay đã hết thời, Mười người chống Cộng chín người thôi. HO về nước tìm bò lạc. Tỵ nạn về quê kiếm chỗ chơi,” như một số người bi quan, cầu an, sống nhiều với vợ con ít có dịp ra sinh họat với cộng dồng người Việt tỵ nạn CS đã nói. Còn nữa, còn nhiều “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nơi không ít người người Việt tỵ nạn CS trên thế giới.
Mỗi năm người Việt tỵ nạn CS gởi về nước khoảng 8 tỷ. Mỗi năm không dưới 300 ngàn lượt người Việt hải ngoại đi về VN. Nhiều người trẻ tỏ ra cấp tiến, tỏ ra “ta đây đã Mỹ hóa” hơn cha mẹ, đồng hương, nghe lời những chánh trị gia Mỹ thực dụng và giả đạo đức chuyên thăm thò, thậm thụt với CS Hà nội kêu gọi bỏ quá khứ ra sau nhìn về tương lai phiá trước, “hoà giải hòa hợp” với CS Hà nội.
Thương buôn thì len lỏi về làm ăn, lợi dụng việc CS kềm “giá lương tiền” của công nhân VN, bóc lột mồ hôi nước mắt đồng bào, “ăn theo” với CS. Một số nhà báo tiếng Việt ở hải ngoại tiếp đón cán bộ cao cấp CSVN, tạo cơ hội cho các quan chức này tuyên truyền thêm cho ngôn ngữ vốn đã có sẵn trên 700 tờ báo quốc nội. Càng ngày càng có nhiều người ở Mỹ, đặc biệt ở Little Saigon thủ đô của người Việt tỵ nạn CS, bớt đi biểu tình chống Cộng, sợ bị hình chụp được mình, CS Hà nội không cho đi VN hay đi VN bị công an làm khó dễ. Càng ngày CS Hà nội càng chiêu dụ Việt Kiều đem chất xám, giấy xanh về phục vụ quê hương, miển chiếu khán nhập cảnh, cho mua nhà đất. Càng ngày CS Hà nội càng mở rộng và làm mạnh Nghị Quyết 36, để lũng đoạn hàng ngũ, phá hoại tinh thần Quốc gia của người Việt hải ngoại.
Song song CS Hà nội đã dùng nhiều hư chiêu câu móc và lũng đoạn tập thể người dân Việt trong ngoài nước. Ô Võ văn Kiệt, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn minh Triết nói nhiều, nhiều chuyện, nhiều điều lắm, kể cả kiếm chuyện và vẽ chuyện để chiêu dụ. Nào là chuyện quên quá khứ hướng về tương lai đất nước; chuyện ra quyết định dân sự hóa Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa; chuyện ra quyết định giải tư một số lớn quốc doanh; chuyện Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng đi diện kiến Giáo Hoàng Công Giáo La Mã; chuyện Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN hứa xét không cho đảng, quân đội, và Mặt trận Tổ quốc làm kinh tế trong đại hội sắp tới; chuyện có thể mời một số “Việt kiều yêu nước” về làm quan sát viên tại Quốc hội; chuyện phát hành sách trắng về Tôn giáo và chánh sách tôn giáo tại VN; chuyện miễn chiếu khán cho Việt kiều về VN; chuyện cho Việt kiều mua nhà ở VN; và chuyện có thể cho Việt kiều được ứng cử bầu cử.
Đừng tưởng những tuyên truyền CS nói trên không có ảnh hưởng trong hàng ngũ người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại. Tin ghi nhận được ở Âu châu, có người định đến thảo luận dân chủ với nhân viên sứ quán Cộng Sản Việt Nam ở Hoà Lan vì cho rằng họ rất cởi mở. Có người “tạo điều kiện” cho tân Đại sứ Việt Cộng ở Mỹ tuyên truyền, hoá giải vụ Trường Sa, Hoàng Sa qua báo chí của người Việt tỵ nạn CS ở hải ngọai. Có luồng tuyên truyền ngầm về hạ trào chống Cộng “10 người chống Cộng 9 người thôi”.. Hề hóa, nói diễu, ngạo mấy ông chống Cộng là mấy ông già “chống gậy”, mấy ông “nhà banh mặc đồ trận, mấy ông chánh khách chánh khứa” muốn phục hồi chế độ Việt Nam Cộng Hòa để làm tướng làm tá, làm bộ trưởng, nghị sĩ. Rồi lại còn hỏi tại sao không về nước nhà cho rõ sự tình, đất nước bây giờ xây dựng lại “giàu mạnh” lắm. CS cũng là người Việt tại sao không đem tiền bạc và kinh nghiệm, kiến thức về xây dựng quê hương. CS bây giờ đâu còn là CS nữa, Mỹ đã vào rồi, tại sao không dựa vào Mỹ về “tham chánh”, chia ghế, “dựa vào chánh quyền” phát triển đạo; chống Cộng làm gì nữa, đấu tranh với CS rồi “tránh đâu.” Số ấy tuy là số tối thiểu số, nhưng có người lén về VN, đi bằng hai đầu gối định xin “chia ghế” nếu không được dân biểu thì làm quan sát viên.
Nhưng chân lý lịch sử cận đại đã chứng minh. Các phong trào đấu tranh tự do, dân chủ yếu cỡ nào, còn CS Liên xô và CS Đông Âu mạnh ra sao nào. Người dân bị trị ở đó sống trong gọng kềm CS, mà đấu tranh, chiến đấu chống Cộng nào khác gì châu chấu chống xe. Nhưng xe lại lật đổ, như Liên xô và các nước CS ở Đông Âu sụp đổ, chết yu mới 70 năm so với lịch sử tính bằng thế kỷ.
Trước những hư chiêu của CS và những người đón gió trở cờ, còn có một số đông dĩ bất biến ứng vạn biến. Tin tưởng chống Cộng là đấu tranh cho điều Thiện và diệt Ác, đấu tranh giữa hữu thần và vô thần, giữa chủ nghĩa quốc gia dân tộc và Cộng sản quốc tế vô tổ quốc. Chống Cộng là đấu tranh cho tự do tôn giáo, tự do dân chủ, và nhân quyền VN. Chống Cộng là chống độc tài đảng trị tòan diện như người dân Tunisia, Ai cập, Libya đã đứng lên lật đổ độc tài tạo nên Mùa Xuân Á rập đang diễn tiến. Bạo chúa Gadhafy trấn áp dân tàn bạo rồi cũng kết thúc cuộc đời độc tài trong một ống cống.
Không phải một mình người Việt trong ngoài nước chống Cộng, mà Loài Người tiến bộ đang chống Cộng. Quốc Hội Liên Âu đã kêu án và đưa chủ nghĩa CS nhốt chung với Đức quốc xã. Mỹ đã xem CS Hà nội là chế độ vi phạm tự do tôn giáo. Quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ được chánh quyền của phân nửa dân số Mỹ thừa nhận là biu tượng của người Việt đấu tranh cho tự do, dân chủ. Các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền, Hội Ân xá Quốc tế trụ sở ở Anh, Hội Phóng Viên Không Biên giới trụ sở ở Pháp, Hội Bảo vệ Nhà báo trụ sở ở Mỹ đều lên án CS Hà nội chà đạp quyền tự do căn bản của Con Người.
Chống Cộng là chống chế độ CS Hà nội độc tài, đảng trị toàn diện, chống chế độ cai trị đã tước đoạt quyền tự do căn bản bất khả tương nhượng của con người VN, chớ không chống đất nước và nhân dân VN là chủ thể thực sự của vận mạng nước non. Chống chế độ độc tài đảng trị CS Hà nội vì đó là chế độ vì đảng, do đảng, của đảng CS. Không nhơn danh nào, không lý do gì có thể biện minh cho CS có thể “làm vua suốt đời, làm chúa muôn thuở”, sống trên đầu trên cổ người dân Việt như vậy được. CS là một chủ nghĩa đã rõ rệt thất bại ngay tại cái nôi của CS ở Liên xô và Đông Âu. CS là một cái gì xấu xa, hư hại không thể thay đổi, chuyển hóa được, chỉ có thể vứt bỏ nó đi thôi. CS Hà nội biết rõ nên không bao giờ nhượng một tí quyền hành nào, sợ ngồi trên lưng cọp xuống bị cọp ăn.
Trong suốt nửa thế kỷ ở Miền Bắc và một phần ba thế kỷ ở Miền Nam, chưa bao giờ phong trào nhân dân chống Cộng mạnh và đều, đa dạng, đa diện và đa số hơn 3% Cộng sản so với dân số VN như bây giờ. Có đấu tranh ôn hòa, có quá khích. Có quốc tế vận là đấu tranh gián tiếp qua trung gian các siêu cường làm áp lực CS Hà nội. Có đấu tranh trực tiếp và trực diện như quí vị lãnh đạo tôn giáo, trí thức đang làm trong nước. Có biểu tình chống đối CS, kiến nghị gởi chánh khách quốc tế hay phê bình, chỉ trích nhà cầm quyền CS là cách làm ở xứ sở tự do hải ngoại. Các cuộc cách mạng giải trừ CS ở Đông Âu và các cộng hòa cựu Sô viết của Liên xô tuy được gọi là “cách mạng màu” nhung, cam, tulip nghe rất hòa dịu nhưng trận đương đầu cuối cùng lúc nào cũng là một cuộc biểu tình triều dâng thác đổ của người dân, có máu, nước mắt, mô hôi.
Chống Cộng là sự nghiệp của đời người, công trình của thế kỷ, là sự sống còn của đất nước dân tộc, tuổi thọ tính bằng đơn vị, trăm hay ngàn năm. Không có chuyện hợp thời hay không hợp thời. Tình hình thay đổi, chiến thuật có thể quyền biến. Nhưng cứu cánh chưa đạt thì không thế nói công cuộc đó hợp thời hay lỗi thời. 75 năm dai dẳng và âm thầm đấu tranh bằng nhiều cách, người dân Nga, các cộng hòa trong Liên bang sô viết trong sô viết, và các nước Đông Âu mới lật được chế độ CS, có ai nói lỗi thời hay lạc hậu đâu.
 
__._,_.___
Recent Activity:

Kính chúc cả nhà Halloween Vui Vẻ
Các cháu có nhiều qùa kẹo bánh
dhv 
 
 
 
 
 
  TA HÃY TỪ BI VỚI MÌNH.
 
Hình như ta chẳng bao giờ thực  sống trong hiện tại cả! Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai.  Nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có đựơc cái kia cái khác mới là  sống.
Khi có tuổi, khi đã có được cái này  cái nọ, cái kia cái khác thì ta lại sống cho quá khứ! Nhỏ mong cho mau  lớn, lớn mong cho nhỏ lại. Quả là  lý thú! Tóm lại, ta chẳng biết quý những phút giây hiện tại. Từ ngày “thế giới phẳng”, ta còn sống với đời sống  ảo. Ta ngồi đây với bạn nhưng trò chuyện với một người nào khác, cười đùa, nhăn nhó, giận dữ, âu yếm với một người nào khác ở nơi xa. Khi bắt lại câu chuyện thì nhiều khi đã lỡ nhịp! Hiểu ra những điều tầm thường đó, tôi  biết qúy thời gian hơn, quý phút giây hiện tại, ở đây và bây giờ hơn.
Nhờ vậy mà không có thì giờ cho già nữa! Hiện tại thì không có già, không có trẻ, không có quá khứ, vị lai. Dĩ nhiên, không phải là trốn chạy già mà  hiểu nó, chấp nhận nó, thưởng thức nó. Khi biết “enjoy” nó thì quả có  nhiều điều thú vị để phát hiện, để khám phá. Một người 60, tiếc mãi  tuổi  45 của mình thì khi 75, họ sẽ tiếc  mãi tuổi 60, rồi khi 80, họ sẽ càng  tiếc 75! Vậy sao ta đang ở cái tuổi  tuyệt vời nhất của mình lại không yêu  thích nó đi, sao cứ phải… nguyền rủa, bất mãn với nó. Có phải tội nghiệp  nó không? Ta đang ở cái tuổi nào thì nhất định tuổi đó phải là tuổi đẹp  nhất rồi, không thể có tuổi nào đẹp hơn nữa!
 Ta cũng có thể gạt gẫm mình chút đỉnh như đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn.  Xóa chỗ này, bơm chỗ nọ, lóc chỗ kia. Nhưng nhức mỏi vẫn cứ nhức mỏi, loãng xương vẫn cứ loãng xương, tim mạch vẫn cứ tim mạch… Cơ thể ta cứ tiến triển theo một “lộ trình” đã được vạch sẵn của nó, không cần biết có  ta! Mà hình như, càng nguyền rủa, càng bất mãn với nó, nó càng làm dữ.  Trái  lại nếu biết thương yêu nó, chiều chuộng nó  một chút, biết cách cho  nó ăn, cho nó nghỉ, biết cách làm cho xương nó cứng cáp, làm cho mạch máu nó thông thoáng, làm cho các khớp nó trơn tru thì nó cũng sẽ tử tế với ta hơn. Anh chàng Alexis Zorba nói: “Cũng phải chăm nom đến thân thể nữa chứ, hãy thương nó một chút. Cho nó ăn với. Cho nó nghỉ  với. Đó là con lừa kéo xe của ta, nếu không cho nó ăn, nó nghỉ, nó sẽ bỏ rơi mình ngang xương giữa đường cho mà coi” (Nikos Kazantzaki). Từ ngày biết thương “con lừa”  của mình hơn, tử tế với nó hơn,  thì có vẻ tôi… cũng khác tôi xưa. Tôi biết cho con lừa của mình ăn khi đói, không ép nó ăn lúc đang no, không cần  phải cười cười nói nói trong lúc ăn. Món gì khoái khẩu thì ăn, chay mặn gì  cũng tốt. Cá khô, mắm ruốc gì cũng  được, miễn là đừng nhiều muối quá!  Một người cô tôi “ăn không được”, ăn “không biết ngon” vậy mà vẫn béo phì, đi không nổi, là bởi vì các con  thương bà quá, mua toàn sữa Mỹ mắc tiền cho uống! Sữa giàu năng lượng, nhiều chất béo bổ quá, làm sao còn có thể ăn  ngon, làm sao không béo phì cho được?  Giá nghèo một chút thì hay hơn! Cá  kho quẹt, rau muống mà tốt, miễn bà  ăn thấy ngon, thấy sướng! Tôi cũng  biết cho con lừa của mình ngủ hơn. Ngủ đẫy giấc, đủ giấc. Ngủ đủ giấc là cơ hội tốt nhất cho các tế bào não phục hồi, như sạc pin vậy. Sạc không đủ mà đòi pin ngon lành sao được! Bảy trăm năm trước, Trần Nhân Tông viết: cơ tắc xan hề khốn tắc miên! Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền! trong bài Cư trần lạc đạo, ở đời mà vui đạo! Ông  là vị vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm. Tu hành như vậy mà khi quân Nguyên xâm lấn nứơc ta, ông liền xuống núi, ra tay dẹp giặc, xong,  phủi tay lên núi tu tiếp!
 
 Mỗi  người có đồng hồ sinh học của riêng mình, không ai giống ai, như vân  tay vậy,  cho nên không cần bắt chước, chỉ cần lắng nghe mình. Phương pháp này,  phương pháp nọ của người này người kia bày vẽ chẳng qua cũng chỉ để tham khảo, nắm lấy nguyên tắc chung thôi, rồi áp dụng vào hoàn cảnh riêng cụ  thể của mình, tính cách mình, sinh lý mình. Phương pháp nào có sự ép buộc cứng ngắc quá thì phải cảnh giác!
 
 Cũng nhớ rằng tới tuổi nào đó tai  cũng sẽ bắt đầu kém nhạy, mắt bắt  đầu  kém tinh, đầu óc bắt đầu kém sắc sảo. Tai kém nhạy để bớt nghe những điều chướng tai. Mắt kém tinh để bớt thấy những điều gai mắt. Đầu óc cứ sắc sảo hoài ai chịu cho nổi! Tuy vậy, tai kém mà muốn nghe gì thì nghe, không thì đóng lại; mắt kém mà muốn thấy gì thì thấy, không thì khép lại. Thế là “căn” hết tiếp xúc được với “trần”. Tự dưng không tu hành gì cả mà cũng như tu, cũng thực tập ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!
Rồi một hôm đẹp trời nào đó ta còn có thể phát hiện mắt mình chẳng những  nhìn kém mà còn thấy những ngôi sao lấm chấm, những lốm đốm hoa trên bầu trời trong xanh vời vợi kia. Nếu không phải do một thứ bệnh mắt nào  đó thì đây hẳn là hiện tượng thoái hóa của tuổi già, nói nôm na là xài lâu  quá, hết thời hạn bảo hành. Cái mà người xưa gọi là “hoa đốm hư không”  chính là nó. Tưởng hoa đốm của trời, ai dè trong mắt mình! Chính cái  “tưởng” của ta nhiều khi làm hại ta. Biết vậy ta bớt mất thì giờ cho những cuộc tranh tụng, bớt tiêu hao năng lượng vào những chuyện hơn thua. Dĩ  nhiên có những chuyện phải ra ngô ra khoai nhưng cái cách cũng đã khác,  cái nhìn đã khác, biết tôn trọng ý  kiến người khác, biết chấp nhận và nhìn lại mình.
Khi 20 tuổi người ta băn khoăn lo lắng  không biết người khác nghĩ gì về  mình. Đến 40 thì ai nghĩ gì mặc họ. Đến 60 mới biết chả có ai nghĩ gì về  mình cả!
 Tóm  lại, chấp nhận mình là mình và từ bi với mình  một chút vậy!
 
 BS Đỗ Hồng Ngọc
 
Nón lá
image
http://baomai.blogspot.com
BaoMai
 
“Nón ny che nng che mưa
Nón ny đ đi cho va đôi ta”

Ca dao
 
               Nón lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam, chắc chắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.
 
image
 
            Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:
- Nón dấu: Nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
- Nón gò găng hay nón ngựa: Sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa.
- Nón rơm: Nón làm bằng cộng rơm ép cứng.
- Nón quai thao: người miền Bắc thường dùng trong lễ hội.
- Nón cời: Nón rách
- Nón gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa.
- Nón lá sen: Cũng gọi là nón liên diệp.
- Nón thúng: Thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
- Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa.
- Nón chảo: Thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng.
- Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang.
- Nón bài thơ: Ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.v…
 
image
 
Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón.
 
image
 
Với cây mác sắc, người làm nón chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng.
 
image
 
Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón?
 
image
 
Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Quy Diệp là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá nầy làm cái tơi để mùa đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ Quy Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.
 
image
 
Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh.
 
image
 
Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nan quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.
 
image
 
Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồng lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón.
 
image
 
Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung nầy phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng.
 
image
 
Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ…
 
image
 
Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt nam:
 
“Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm”
 
Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao.
 
image
 
Thuở xưa, con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẻ đẹp bề ngoài.
 
“Chưa chồng nón thúng, quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai…”
Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai:
“Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong”
 
image
 
Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng…
Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng. Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:
 
“Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt
Còn ta mắt anh…
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
Đôi chân bước… anh nghe chừng sai nhịp.”

Thu Nhất Phương
 
image
 
Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương… và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế:
 
image
 
“Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình”

Ca dao
 
 
image
 
“Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Nguyễn Khoa Điềm
“Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay”

Bích Lan
 
Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ. Lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề:
 
“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”
 
Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều.
 
image 
 
“Anh về Bình Định ba ngày
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua” 
 
Nón bài thơ đặc sản Huế, nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao:
 
“Cưới nàng đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn”
 
image
 
Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài. Để làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm.
 
image
 
Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành - An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25-30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50,000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất cảng sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền Nam:
 
“Nhớ nón Gò Găng
Vầng trăng đập đá
Sông dài sóng cả
Người quân tử,
Khăn điều vắt vai…”
 
Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt Nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không
--




--
Dieu Huyen Vo

 

Thái Hà: Nhà cầm quyền cs Hànội không thể chối cãi hoặc che đậy được chính sách kỳ thị, >
tiêu diệt tôn giáo

Thái Hà, nhà cầm quyền không thể chối cãi hoặc che đậy được chính sách kỳ thị, tiêu diệt tôn giáo
 
Hầu hết những cư dận sống ở vùng Thái Hà ấp đều biết được lịch sử của khu đất này của Dòng Chúa Cứu thế – Giáo xứ Thái Hà đã bị nhà cầm quyền Hà Nội chiếm đoạt và bày ra ở đây những âm mưu hiểm độc có hệ thống nhằm tiêu diệt tôn giáo. Khu đất ban đầu với 61.455 m2 đã được “pháp luật bảo hộ” cho đến khi chỉ còn 2.700 m2 và nay còn âm mưu chiếm cướp nốt khu Tu viện, Hồ Ba Giang…
 
 
Không chỉ người công giáo mà cả những người dân ở đây cũng hiểu điều đó khá cặn kẽ lịch sử khu đất này. Chính vì vậy, những âm mưu, những hành động của nhà cầm quyền Hà Nội càng được bày ra, càng thi thố thì càng làm lộ rõ bộ mặt nham nhở không thể chối cãi của họ ở đây.
 
 

Nữ Vương Công Lý đưa lên đây Lời chứng của Linh mục Vũ Ngọc Bích, người đã có thâm niên sống và quản lý tại Dòng Chúa Cứu thế Hà Nội từ năm 1936 đến khi qua đời tại đây. Trước khi nhắm mắt lìa đời, ngài để lại lời nhắn với tất cả giáo dân, tu sĩ, linh mục ở đây rằng: Tôi, linh mục Vũ Ngọc Bích chưa hề hiến, tặng hoặc bán cho ai bất cứ một mét vuông đất nào của Dòng Chúa Cứu thế – Nhà thờ Thái Hà.
Linh mục Vũ Ngọc Bích - Quản lý Dòng Chúa Cứu thế Hà Nội
 
Chúng tôi cũng đưa lên đây việc nhà cầm quyền Hà Nội đang cố tình nhầm lẫn, áp đặt pháp luật cách sai trái nhằm vu cáo Giáo xứ Thái Hà, ý kiến của các giáo dân Thái Hà về ý chí của họ tại đây và tình trạng của Tôn giáo tại Việt Nam.

Và chúng tôi cũng đưa lên đây ý kiến do Phóng viên Trâm Oanh phỏng vấn của Giáo dân Hà Nội về vấn đề tài sản của Tu viện Dòng Chúa cứu thế Thái Hà.
 
Nữ Vương Công Lý
số lần đọc: 775
 
 
 

 


__._,_.___
Recent Activity:

 

Subject: LS LƯU NGUYỄN ĐẠT & LS TRẦN THANH HIỆP : CSVN CÓ CHÍNH DANH, CHÍNH NGHĨA, CÓ DÂN CHỦ & PHÁP TRỊ HAY KHÔNG? - NÊN ỦNG HỘ HAY CẦN CHỐNG CSVN?  Date: Mon, 31 Oct 2011 12:26:53 +0100
From: lethile654@gmail.com



(THƯỢNG KHẨN & RẤT QUAN TRỌNG) LS LƯU NGUYỄN ĐẠT & LS TRẦN THANH HIỆP : CSVN CÓ CHÍNH DANH, CHÍNH NGHĨA, CÓ DÂN CHỦ & PHÁP TRỊ HAY KHÔNG? - NÊN ỦNG HỘ HAY CẦN CHỐNG CSVN?

Trân trọng kính chuyễn để QUÝ VỊ tham khảo; phổ biến rộng rãi trong ngòai nước trên mọi phương tiện. Tòan dân :
- rất hoan nghênh, trân quý, tri ân Ls LƯU NGUYỄN ĐẠT & Ls TRẦN Thanh Hiệp đã viết hai bài tham luận rất có gia trị để cho tòan dân (Quốc, cộng, trung lập) biết rõ ràng rằng CSVN vi phạm trầm trọng các hiệp định nhất là hiệp định Paris mà họ đã ký kết và đã xua quân tấn chiếm VNCH bằng bạo lực, lừa đảo, theo lệnh quan thầy cộng sản quốc tế vô thần, như vậy chính phủ CSVN được coi như là bất hợp pháp, bất chính thức, bất hợp lệ để chọn lựa một quốc hội, một chính phủ hợp pháp, đại diện cho cả tòan dân.
- mong rằng quân đội, công an, Ls LƯU NGUYỄN ĐẠT, Ls TRẦN Thanh Hiệp, các Luật Gia, các Luật Sư sẽ cùng các Trí thức, Nhân sỉ và đồng bào các giới trong lẫn ngòai nước hãy mạnh dạn cùng nhau tìm mọi phương cách hoặc đứng lên lật đổ Chính phủ CSVN bất hợp pháp này đồng thời cùng nhau sớm truy tố tội ác chiến tranh, chống nhân lọai trong đó có tội diệt chủng ra trước các Tòa Án Hình Sự Quốc Tế & Quốc Gia có thẩm quyền, Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu...
- mong rằng hai bài tham luận rất giá trị này sẽ được Ls Đạt, Ls Hiệp, các Luật gia, các Luật sư, các thông dịch viên cho dịch ra tiếng Pháp, Anh, Đức...để đánh động cộng đồng thế giới và các Thanh Niên, Sinh Viên, Học Sinh tị nạn CSVN.
Kính mến,
Bs LÊ Thị Lễ

CSVN có Tính Chính Danh Chính Thống không? LS Lưu Nguyễn Đạt và LS Trần Thanh Hiệp 
Xin chuyễn hai baì tham luận chính trị sâu sắc và trực diện cuả Ls Lưu Nguyễn Đạt và Ls Trần Thanh Hiệp, hai baì tham luận đa diện nầy cho thấy lập luận phiến diện của một số trí thức hải ngoại đã ký tên trong "Thư Ngỏ" (do LXK vận động ký) gữi "nhà cầm quyền công sản VN" và đã gây bất bình trong cộng đồng ngươì Việt tự do ở haỉ ngoaị và trong nước.
Xin mời quý vị theo dõi hai bài tham luận của hai vị trí thức luật gia ưu tú Lưu Nguyên Đạt và Trần Thanh Hiệp rất chính xác, thực tế và có sở.

sirbing

   

Cộng Sản Việt Nam: Có Chính Danh, Chính Nghĩa, Có Dân Chủ và Pháp Trị Hay Không?

TS-LS. Lưu Nguyễn Đạt
 
Trong dịp “Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại, GS Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc xác định CSVN là một “chính quyền chính thức[governement légal], có “chính danh” [légalité],nhưng lại phân biệt: “Đối với những người chống cộng, thì nhóm C.S đang nắm quyền ở Việt Nam không có chính nghĩa [légitimité] vì đã chiếm quyền dưới vĩ tuyến 17 bằng bạo lực, trái với các hiệp định đã ký kết ở Paris năm 1973…” [1]
 
Sau đó GS Vũ Quốc Thúc còn nhấn mạnh: “Chúng ta – những người sông yên ổn ở hải ngoại – có bổn phận ủng hộ họ : thư ngỏ là một hành động yêu nước , phục vụ dân chủ , phục vụ RULE OF LAW .[2]
Với tất cả sự kính trọng dành cho một vị trưởng thượng đại trí thức như GS Vũ Quốc Thúc, người viết cùng độc giả chân chính vẫn thấy có bổn phận xét kỹ lại những thuật ngữ trên để xem:
  • Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam [CSVN] có phải là một “chính quyền chính thức”, có “chính danh” hay không?
  • Lý do nào chính thể này còn bị coi là không có “chính nghĩa”?
  • Và phải chăng những người đồng ký tên trong “Thư Ngỏ” trên đều có bổn phận ủng hộ “họ”[CSVN], với kỳ vọng chuyển hoá CSVN, hay với ước mong họ trở thành chính quyền có “chính nghĩa”, …có “dân chủ đích thực”, có “pháp trị đích thực”?
 
I. CSVN CÓ PHẢI LÀ MỘT “CHÍNH QUYỀN CHÍNH THỨC”, CÓ CHÍNH DANH HAY KHÔNG?
Trước hết, xin định nghĩa rõ rệt lại: một chính quyền chính thức [governement légal], có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp, xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định.[3]
 
Người viết căn cứ vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” [4] mà cho rằng những sự kiện táo bạo của hai thời điểm 1945 và 1975 đã chứng tỏ CSVN không phải là một “chính quyền chính thức”, theo nghĩa “governement légal” hay có “chính danh”, theo nghĩa “légalité” như GS Vũ Quốc Thức xác nhận, mà chỉ đáng được gọi là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], hay một hiện tượng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] không hơn không kém, và tất cả những trạng thái áp đặt đó đều bất chính, bất hợp pháp.
 
1. Cách Mạng Mùa Thu 1945
Vậy khi căn cứ vào định nghĩa trên, chỉ chính quyền quốc gia của Chính phủ Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hởp lệ, có chính danh, sau khi vua Bảo Đại của Triều Nhà Nguyễn đã công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 11.3.1945 và giao cho Trần Trọng Kim thành lập nội các vào ngày 17.4.1945.
Còn cái nguồn gốc chấp chính của CSVN, cái gọi là Cách mạng mùa thu thực chất chỉ là một cuộc cướp chính quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim.  Thật vậy, ngày 17.8.45, từ một buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức để chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bổng chốc trở thành biểu tình của Mặt Trận Việt Minh: “Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây.[5]
 
Như vậy, trên căn bản pháp lý, thuật ngữ “cách mạng mùa thu” [1945] cũng đủ chứng tỏ hành vi cướp chính quyền của lực lượng Việt Minh dẫn tới hiện tượng chấp chính bất hợp pháp, ngược lại với thế hợp pháp, có chính danh của Chính phủ Trần Trọng Kim.
 
2. Hànội Vi Phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 Khi Xua quân Chiếm Sàigòn, Mùa Xuân 1975
Hiệp Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, do 4 bên tham chiến — Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa — ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, với những khoản chính như sau:
  • Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam Việt Nam kể từ ngày 27 tháng giêng năm 1973;
  • Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân.
  • Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình.
  • Các lực lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lượng không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hành động tấn công nhau.
  • Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến ngày thành lập chính phủ …hai miền Nam Việt Nam không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
  • Hai bên miền Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược, dụng cụ chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau khi ngừng bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng…
 
Vậy ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam ồ ạt tăng quân, binh chủng, súng đạn, chuẩn bị đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa.  Như vậy âm mưu xua quân của ngụy quyền Hànội, ồ ạt vượt vĩ tuyến 17 để cưỡng chiếm Sàigòn là một hình thức xâm nhập lãnh thổ và tiếm quyền bất chính, bất hợp pháp, vì đã vi phạm những điều khoản căn bản trên của Hiệp Định Paris 1973, cũng như đã từng vi phạm Hiệp Định Genève 1954 trước đó.  Vậy, việc áp đặt chính quyền “thống nhất” trên Miền Nam Việt Nam, dưới chướng ngụy quyền Hànội/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, sau khi lật đổ thể chế Việt Nam Cộng Hoà và gạt bỏ lực lượng bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một hành vi tiếm quyền bằng lừa đảo và bạo lực.
 
Căn cứ vào những sự kiện lịch sử trên [1945 & 1975], CSVN ngày nay, bắt nguồn từ hai đợt tiếm quyền bằng lừa đảo và cưỡng chiếm bằng bạo lực không thể được coi là một chính phủ chính thức, hợp pháp, hợp lệ, có chính danh chính thực.
Chính thể Hànội sau 1945 và nhất là sau 1975, không hơn không kém, vẫn chỉ là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], một hiện trạng tiếm quyền [un état d’usurpation depouvoir] bất hợp pháp, bất hợp lệ, khác hẳn với sự thẩm định của nhóm “Thư Ngỏ”, như đã được minh thị xác nhận bởi vị thầy chỉ đạo, GS Vũ Quốc Thúc và vị chánh chủ thảo, GS Lê Xuân Khoa.
 
II. TẠI SAO CSVN KHÔNG CÓ CHÍNH NGHĨA?
1. Thế nào là “chính nghĩa”?  
Về mặt thuần thục, “Chính nghĩa” là trạng thái hành xử thích hợp với lẽ phải chân chính của công lý; ứng dụng đại nghĩa công bình và đạo đức nhân bản; bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của toàn dân.[6] Do đó, một chính quyền có chính nghĩa địch thực khi được dân chúng tín nhiệm, tin tưởng. [7] 
Một lực lượng cách mạng, khởi đầu có thể là một tổ chức bất hợp pháp, khi nổi dậy đào thải một chính quyền tại vị.  Nhưng sau cuộc đảo chính hay cách mạng đó, lực lượng nổi dậy có thể tạo dựng thành một chính quyền có chính nghĩa, như trường hợp của những cuộc cách mạng giành độc lập, tự do, dân chủ tại Pháp, Hoa Kỳ và gần đây tại các quốc gia Ả Rập và Trung Đông.  Những lực lượng nhân dân này đã khởi nghĩa phá bỏ những thể chế lỗi thời, phản nước, hại dân để tạo dựng vào đó những chính thể phù hợp với chủ quyền quốc gia, với quyền lợi và phẩm giá của toàn dân.
2. Tại sao lại quả quyết CSVN không có chính nghĩa?
Một lần nữa, người viết lại vịn vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” mà khẳng định rằng CSVN không có chính nghĩa, bởi những chứng cứ sau đây:
  • Rõ rệt nhất, từ lúc thành lập bán khai cho tới khi lộ diện, đảng phái và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam [CSVN] không bao giờ phục vụ quyền lợi của dân tộc Việt Nam. 
  • Đối với Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản, cứu cánh biện minh cho phương tiện, kể cả thủ đoạn đê hèn nhất. Cái dã tâm là cứu cánh của họ không có mục đích chính đáng, phục vụ dân tộc, mà chỉ phỉnh gạt, lừa lọc, gây tội ác để củng cố đảng phiệt và chế độ cộng sản của họ, và để duy trì quyền lợi cho khối cộng sản chuyên chính quốc tế [comintern], dù phải làm thiệt hại cho dân tộc Việt Nam. 
  • Ứng dụng tư tưởng căn bản trên, năm 1941, Đảng CSVN họp ở Cao Bằng đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) để “mượn đầu heo nấu cháo”, gây thêm lực lượng, kết tụ “đồng minh giai đoạn” dưới chiêu bài “ái quốc”, chống Pháp, dành độc lập: “Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”  Sau đó vài năm, thành phần cộng sản bắt đầu loại trừ các hệ phái quốc gia trong “Mặt trận Liên Việt”: Cán bộ cộng sản thẳng tay tiêu diệt các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân v.v., dù những thành phần dân tộc này đã từng nhiệt thành sát cánh chống Pháp, cứu nước, bênh dân. 
  • Cũng theo chiêu bài lợi dụng và tiếm quyền “đồng minh nhất thời” trên, lực lượng cộng sản miền Bắc đã xâm nhập miền Nam và tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960.  Lực lượng Việt Cộng miền Nam trá hình này sau 1975 cũng bị “thất sủng”, các lãnh tụ cuả “Mặt trận Dân Tộc” cũng bị thủ tiêu, hoặc đi “cải tạo” như kẻ thù phản động.  Đồng chí hôm trước, kẻ thù hôm sau: Làm gì có “Mặt trận  Dân tộc”? Làm gì có giải phóng dân tộc Miền Nam,  khi đó chỉ là một cuộc tảo thanh ý thức hệ, một mưu toan bá chủ quyền lợi độc nhất của đảng cộng sản “Bắc Thuộc”. 
  • Kể cả “đồng bào” của chế độ CSVN, dù được tuyên truyền tung hô là “dân làm chủ”, bất cứ lúc nào họ cũng sống trên đe dưới búa và dưới lưỡi liềm sát cổ.  Làm gì có việc “bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của toàn dân” khi đội ngũ mác-xít trá hình “công bộc” chỉ biết tiếm quyền dân, với dã tâm nuôi dưỡng hận thù, tranh đấu giai cấp, đấu tố tư sản, đấu tố phú nông, sát hại địa chủ? Đó là những đợt “cải cách ruộng đất”, từ năm 1953 tại vùng Thanh Hoá, Liên Khu IV tới năm 1956, trên khắp miền Bắc, bằng cách thảm sát tập thể khoảng hai trăm ngàn người dân, quy vào thành phần địa chủ và phú nông, rập khuôn theo mưu đồ “vô sản hoá” của Nga Xô và Trung Cộng.  Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”.  Bằng cách thủ tiêu và sát hại dân oan. 
  • Ngoài cuộc  thảm sát tập thể thành phần địa chủ và phú nông, tiểu tư sản, nhân danh “cải cách ruộng đất”, chế độ CSVN còn trực tiếp nhúng tay vào sách lược sát hại, thủ tiêu, chôn sống gần 8 ngàn dân vô tội, [2] cũng lạnh lùng nhân danh “giải phóng” dân tộc xứ Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968. 
  • Để thực hiện chính sách hại dân, độc tài đảng phiệt chuyên chính, sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để biến họ thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850 ngàn người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo” theo Nghị Quyết  mang số 49-NQTVQH ngày 20/06/1961, áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. 
  • Tương tự, ngay sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Chế độ CSVN đã tiếp tục thi hành kế hoạch bỏ tù cả triệu quân cán chính của phe Quốc Gia bại trận, đồng thời thủ tiêu mất tích hài cốt của 165 ngàn quân, cán, chính VNCH trong 150 “trại tù cải tạo” trên toàn cõi Việt Nam. 
  • Chế độ CSVN này tới ngày nay vẫn truy tố và tiếp tục bỏ tù bất cứ ai dám bày tỏ bất đồng chính kiến, hay can đảm chỉ trích những sai quấy, thối nát của Chế độ này. 
  • Ngoài chính sách lừa dân, tiếm quyền, bội ước, vi phạm hiến pháp  rừng và lạm quyền pháp định cuội; ngoài việc hủy hoại tư tưởng, niềm tin căn bản của 90  triệu dân, chế độ CSVN còn trắng trợn trở thành một bày tham nhũng tư bản đỏ,  cướp đất của dân, của chùa, của chúa, thụt két của công, đại náo môi trường mậu dịch toàn cầu, chia chác toàn bộ lãnh đạo.  Chế độ CSVN ngày nay không hơn, không kém là một hệ thống mafia quốc tế, một băng đảng tội ác dây chuyền, di căn toàn bộ. 
  • Chế độ CSVN luôn luôn chủ mưu Hán hoá, bán đứng lịch sử và căn cước của toàn dân Việt Nam; tìm mọi cách cầm cố, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải cho đàn anh Trung Cộng, miễn sao họ được bảo vệ, được giữ nguyên cái ghế quyền hành mục nát, “Made in China”.
Những chứng cứ điển hình trên cho thấy CSVN chỉ là một chính thể ngụy tạo, độc tài, vô nhân đạo, bán nước, hại dân. Bị dân oán trách.  Như vậy, CSVN không hề có chính nghĩa quốc gia nhằm bảo tồn vận mệnh đất nước và cũng không hề có chính nghĩa quốc dân nhằm bảo trọng và phát huy dân tộc, vốn đó là những điều kiện cần và đủ [conditions nécessaires & suffisantes] để được lòng tin của toàn dân trong và ngoài nước.
Trên căn bản tiên quyết của đại nghĩa chí nhân, đất nước, dân tộc, nhân loại mới là cứu cánh của chính nghĩa đích thực.  Ý thức hệ chỉ là phương thức, nếu khả chấp, hữu hiệu, nếu tử tế, nhân bản. Khi chủ trương ngược lại những điều kiện cần và đũ trên, ý thức hệ kiểu phát xít, cộng sản, giáo phiệt v.v. chỉ có tính cách ngụy tạo, phản động, tự hủy. Lịch sử đã và đang loại trừ những tai ương nhân tạo này.
 
III. CSVN: PHÁP TRỊ HAY ĐẢNG TRỊ?
 
“Pháp trị”, dịch từ Anh-Mỹ ngữ “Rule of Law”, đôi khi còn gọi là “Supremacy of Law”hay “Ưu Thế của pháp luật”, là một châm ngôn pháp lý [legal maxim] xác định rằng:
  • Không ai đứng trên pháp luật;
  • Không ai bị nhà nước trừng trị, nếu không vi phạm pháp luật;
  • Không ai bị xét xử về một tội trạng ngoài phạm vi và thủ tục xét xử về tội danh đó.
Ngắn gọn, chế độ Pháp trị chủ trương bất cứ ai, kể cả cấp lãnh tụ, người có quyền hành, mọi công dân trong nước đều phải tôn trọng và thi hành pháp luật một cách đích thực, chính đáng, căn cứ vào “ưu thế của pháp luật” và nguyên tắc “pháp luật chi phối”. [8]
Trong năm 1959, có tất cả 185 luật gia gồm thẩm phán, luật sư, giáo sư luật học, đã họp mặt tại New Delhi dưới danh xưng “International Commission of Jurists” để xác định những nguyên tắc chính của “Pháp trị”/Rule of Law như sau:
  • Ngành tư pháp độc lập;
  • bị can được đoán chừng vô tội [presumption of innocence];
  • xét xử công minh không bị chậm trễ;
  • hình phạt tương xứng, không quá mức;
  • công bằng trước pháp luật;
  • mọi hình thức tầm nã, bắt giữ trái phép; giam cầm vô hạn định; xét xử bí mật; hình phạt quá đáng, độc ác; doạ nạt, mua chuộc thẩm đoàn, v.v. đều bất khả chấp.
  • Pháp trị đặt nền móng công minh, trong sáng, ứng dụng cho mọi trường hợp, mọi công dân, vừa để xét xử nội vụ đúng cách, vừa để bảo vệ nhân cách của mọi bị can đem xét xử.
 
Để thực thi, định nghĩa “Pháp trị” theo hình thức bao gồm những thủ tục pháp lý chuẩn mực phù hợp với cơ cấu pháp quy đem thi hành.  Còn định nghĩa “Pháp trị” theo nội dung cho phép ứng dụng pháp luật ợ những khía cạnh phụ thuộc, trong phạm vị pháp định, đối với từng trường hợp liên can.[9]   Do đó, xét về nội dung, một đạo luật bất công, thiếu công minh [unjust law] không đáng gọi là luật, và không thể thi hành.  Đương nhiên những đạo luật bất hợp hiến thì bất khả thi.[10]
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc định nghĩa Pháp Trị/Rule of Law như sau:
  • Nguyên tắc cai trị [principle of governance] mà theo đó mọi người dân, tổ chức, pháp thể, tư cũng như công, kể cả Chính quyền, Nhà Nước [including State itself], đều phải tôn trọng, thi hành một cách công minh, công bằng, phù hợp với quy tắc nhân quyền quốc tế.
  • Tôn trọng ưu thế của pháp luật, trên căn bản công minh, công bằng, phân quyền xét xử và bảo trọng pháp luật, cũng như bãi bỏ mọi hình thức võ đoán, biệt đãi, hay miệt thị.
Trong khi đó, CSVN chủ chương Đảng Trị, căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam [1992, sửa đổi 2001], Điều 4:
  • “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”
Bất cứ ai, nếu minh mẫn, công bằng, không thiên vị, đều phải thấy những bất cập, sai lầm sau đây do Điều 4 gây ra:[11]
  • Điều 4 Hiến pháp 1992 đặt Đảng vào vị thế siêu quyền lực. 
  • Trước đó, điều 4 Hiến pháp năm 1980 đã khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 1992 xây dựng trên cơ sở điều 4 Hiến pháp 1980, chỉ bỏ đi từ “duy nhất” sau khi chủ nghĩa cộng sản Đông Âu sụp đổ, nhưng không vì thế mà làm giảm đi siêu quyền lực của đảng CSVN. 
  • Việc quy định quyền lãnh đạo của Đảng trong hiến pháp tất nhiên tạo ảnh hưởng đến cả các bộ luật hay văn bản dưới luật, cũng như gây ảnh hưởng trực tiếp đến các điều khoảnkhác trong hiến pháp, cũng như các luật lệ ban hành sau đó.  Có thể nói hầu hết các điều trong Hiến pháp đều bị điều 4 chi phối, nghĩa là sự lãnh đạo của Đảng vẫn là tối thượng. 
  • Như vậy Đảng Cộng Sản, thực chất chỉ là một nhóm người được quy định tại điều 4 Hiến pháp, được độc quyền lãnh đạo đất nước, nhà nước và xã hội, đã tước đi vai trò làm chủ thật sự của người dân và mặc nhiên đứng trên pháp luật của lãnh thổ, đương nhiên xoá bỏ tận gốc nguyên tắc Pháp trị. 
  • Ngay quyền làm luật qua Quốc hội cũng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng bởi hơn 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên CSVN và mọi đảng viên phải tuân theo chính sách và chỉ thị của đảng CSVN.
  •  Kể cả ngành tư pháp cũng do Đảng chỉ định, bổ nhiệm, kiểm soát, qua vai vế Quốc hội. Vậy, mỗi khi Toà án nhân dân xét xử là Đảng CSVN cũng lại ra chỉ thị tiên quyết về bản án, như trường hợp xét xử các bị can bất đồng chính kiến, hoặc gần đây vụ xét xử LS Cù Huy Hà Vũ. 
  •  Còn khi Đảng sai lầm, phạm pháp, tham nhũng như trong các vụ đặc nhượng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên, bán rừng, buôn lậu gỗ, và cả những vụ tầy trời như lạm dụng công quỹ trong các vụ Vinashin vỡ nợ hơn 4 tỷ Mỹ kim, hay Vụ tham nhũng RBA/Securency về tội danh đưa hối lộ số tiền lên tới $17 triệu Mỹ kim thông qua môi giới liên can tới Lương Ngọc Anh và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng v.v. thì lại không bị chế tài theo nguyên tắc Pháp trị mà chỉ kiểm thảo theo cương lĩnh Đảng trị.
Như vậy, Hiến pháp Việt Nam, nền móng của luật pháp ở Việt Nam lại nằm dưới Cương lĩnh của Đảng CSVN.  Do đó, thuật ngữ “Pháp Quyền/Rule by Law” [cai trị bằng luật] do CSVN trưng bày chỉ là một mạo nhận xảo trá của nguyên tắc Pháp Trị/Rule of Law[thượng tôn luật pháp].  Do đó, luật rừng của chế độ CSVN cũng chỉ là một trò hề nực cười của công lý.[12]
 
IV. TẠM KẾT : NÊN “ỦNG HỘ” HAY CẦN CHỐNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?
 
Vậy trong khi CSVN quyết tâm bám chặt định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng vị thế siêu quyền lực để củng cố đảng phiệt, độc quyền thao túng thị trường, độc quyền tham nhũng và gây thảm hoạ cho đất nước, cho dân tộc, thì những người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại vẫn phải giữ vững lập trường vừa cảnh tỉnh tai ương lịch sử, vừa chuẩn bị cho giai đoạn tái thiết đất nước khi CSVN tất nhiên phải cáo chung.
Chống CSVN-Mafia bằng trí giác, bằng lời lẽ từ tốn nêu cao sự thật và đại nghĩa là chính danh, chính nghĩa, là trân trọng dân tộc.
Còn ”Ủng hộ” kẻ quyết liệt phạm pháp, phản nước, hại dân có phải là nối giáo cho giặc, là a dua, a tòng với “họ” hay không? Là liều lĩnh tự hủy trong ngay cái bẫy ngỏ do chính quý vị tạo bày, khi biết rõ ”ỦNG HỘ HỌ” không đi tới đâu?  Cả cựu Tổng Thống Nga Boris-Yeltsin cũng đã từng nói “CỘNG SẢN KHÔNG THỂ NÀO THAY ĐỔI, MÀ CẦN PHẢI DẸP BỎ.”
Vậy, mời quý vị về lại với lý trí, với lẽ phải, với gần 90 triệu dân Việt của chúng ta [sau khi trừ đi vài ngàn/vài trăm "Ngài" CS Đại gia Tư bản đỏ, đang tìm cách tẩu thoát ra "nước lạ/nước ngoài"].
 
Trân trọng,
TS-LS. Lưu Nguyễn Đạt
 


CHÚ THÍCH:
 
[1] Lê Xuân Khoa,”Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại”, Hẹn Nhau Saigon 2015, September 12, 2011– Original Message -

From: thuc.vu-quoc

To: Khoa Le

Cc: Nguyen Thai Son

Sent: Wednesday, September 07, 2011 6:25 PM

Subject: Re: phan ung doi voi Thu Ngo
Thua Anh ,Nguoi ta luôn luôn – vô tinh hay cô y – lân lôn vân dê chinh nghia (legitimité) voi vân dê chinh danh ( légalité ) . Dôi voi nhung nguoi chông công  , thi nhom C.S dang nam quyên o Viêt Nam không co chinh nghia vi da chiêm quyên duoi vi tuyên 17 bang bao luc , trai voi cac hiêp dinh da ky kêt o Paris nam 1973 và ho tiêp tuc nam quyên bang môt thê chê dôc tài , không tôn trong nhung quyên tu do thiên bâm cua công dân  . Noi khac : không co dân chu dich thuc và không co phap tri dich thuc . Nhung trong linh vuc quôc tê , theo quy tac cung nhu lê thoi bang giao quôc tê , ho vân là chinh quyên chinh thuc ( gouvernement légal ) cua nuoc Viêt Nam và da duoc quôc tê thua nhân. Chung ta gui thu ngo cho ho ( thu ngo không phai là kiên nghi hay don thinh câu ) vi hiên thoi chi co ho là co kha nang thay dôi thê chê . Nhu vây là ” danh chinh ngôn thuân ” .Nêu ho phuc thiên thi tranh duoc nhung su hôn loan luôn luôn di kèm cac cuôc nôi dây , biêu tinh , tuân hành .. nho vây mà ” cuôc cach mang nhung ” ( velvet revolution ) nhu o Tchecoslovaquie moi thuc hiên duoc . Trai lai , nêu ho không chiu phuc thiên , nhân dân , dung dâu là NHUNG NGUOI DANG CAN DAM CHÖNG DÖI CHINH QUYËN o quôc nôi se dung phuong thuc tranh dâu khac .
[2] …Chung ta – nhung nguoi sông yên ôn o hai ngoai – co bôn phân ung hô ho : thu ngo là môt hành dông yêu nuoc , phuc vu dân chu , phuc vu RULE OF LAW . Thu ngo gui cho ai ? Le nào cho Tông Thông Hoa Ky , Tông Thông Phap , Thu Tuong Anh hay Duc , Canada  , Australie  ? Nhung nguoi này co thê can thiêp truc tiêp dê thay dôi thê chê chinh tri o Viêt Nam không ? Phai chang nhung AI DO muôn co môt cuôc can thiêp bang vo luc nhu o  Irak , Afghanistan hay Lybie ? Dân Viêt Nam chua du khô hay sao mà lai muôn cho chiên tranh tai diên ?
Dây là môt vài y kiên tôi xin gop voi Anh , tuy Anh xet xem co nên dua ra trong cuôc phong vân cua nhà bao nu Trà My không .
Kinh thu : Vu Quôc Thuc
[3] Est légal ce qui est conforme à la loi, à la législation ; ce qui est prévu, désigné par la loi. D’après le dictionnaire Trésor de la langue française informatisé (TLFI)]
[4] “những người chống cộng” chỉ là những người Việt tỵ nạn cộng sản, còn ý thức về căn cước của họ và còn nêu cao cảnh giác về kinh nghiệm bản thân, hoặc thông thạo, hiểu biết về các sự kiện lịch sử và những sự thật trắng trợn liên hệ tới chế đô CSVN.
[5] Thiên Nam, “Quả lừa lịch sử: HCM / CSVN-CSTQ cướp chính quyền Việt Nam”
Tô Hải kể về cái “Quả lừa lịch sử” đó:
“Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc, đăng đàn diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng… Những khẩu hiệu vừa phát ra đã có hàng ngàn người hô to hưởng ứng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng từ ai, từ đâu, dù trại lính Nhật ở cách đó chỉ khoảng 300 mét!” (Tô Hải: Hồi ký của một thằng hèn).]
[6] Est légitime ce qui est conforme au droit positif ou ce qui est conforme à l’équité; ce qui est fondé sur la morale, le droit naturel… D’après le dictionnaire Trésor de la langue française informatisé (TLFI)
[7]  Rational-legal legitimacy derives from a system of institutional procedure, wherein government institutions establish and enforce law and order in the public interest. Therefore, it is through public trust that the government will abide the law that confers rational-legal legitimacy.
[8] “Law should govern”. Aristotle,Politics.
[9]  Craig, Paul P. (1997). “Formal and substantive conceptions of the rule of law: an analytical framework”.
[10] “…the framers of the U.S. Constitution believed that an unjust law was not really a law at all”… ^ Gedicks, Frederick“An Originalist Defense of Substantive Due Process: Magna Carta, Higher-Law Constitutionalism, and the Fifth Amendment”Emory Law Journal, Vol. 58, pages 585-673 (2009). See also Edlin, Douglas “Judicial Review without a Constitution“, Polity, Volume 38, pages 345-368 (2006).
[11] Xem thêm “Điều 4 Hiến pháp – những bất cập”, Quỳnh Chi- RFA, 2011-08-29
[12] A mockery of justice
 
 
Gửi VHT để góp một vài nhân xét về tính "chính danh" của chế độ Hà Nội.
 
Trần Thanh Hiệp
 

 
Về Tính Chính Thống (Legitimacy) của một chế độ
 
Trần Thanh Hiệp
 
Lời ghi chú cập nhật hóa của người viết : Trong những ngày gần đây, nhân việc một bản văn có nội dung chính trị mang tên “Thư Ngỏ của 36 nhà trí thức Việt Nam ở hải ngoại” liên quan tới tư cách và danh nghĩa cầm quyền của chế độ Hà Nội, một cuộc tranh luận ồn ào đã diễn ra trên nhiều diễn đàn của người Việt ở ngoài nước. Bài viết ngắn dưới đây là một đoạn “ghi chú” phụ đính một bài viết, của cùng tác giả, đăng trên Tập San Viễn Tượng Việt Nam, ấn hành tại Paris năm 2006, trong đó người viết đã nêu lên một số ý kiến sơ lược về vấn đề “Tính Chính Thống” của một chế độ chính trị. Ghi chú này đặc biệt quan tâm duyệt xét những khác biệt giữa những chữ “chính đáng”, “chính thống”, “hợp pháp” v.v…Nhận thấy những lời ghi chú kể trên hiện giờ vẫn còn tính thời sự cũng như những ích lợi thực tế để phân biệt sai đúng, phải trái, chính tà, người viết đã sửa chữa một vài điểm, đặt tựa đề mới và cho đăng lại như một góp phần nhỏ làm trong sáng thuật ngữ chính trị và luật học Việt Nam trong thời đại mới. Dịp này người viết xin được có lời kêu gọi sự thận trọng trong việc sử dụng trước công luận quyền tự do tư tưởng để lấy thái độ chính trị. Sự thận trọng này cũng còn cần phải được tôn trọng một cách nghiêm ngặt trong việc tranh luận về lập trường và thái độ chính trị. Không được vậy, sợ rằng vùng đất mới của người Việt ở hải ngoại sẽ lâm vào tình trạng hỗn loạn không thị phi, không kỷ cương làm ô nhiễm không gian xã hội văn minh tiến bộ Việt Nam được hình thành sau biến cố 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào qũy đạo của độc tài toàn trị.
Trần Thanh Hiệp
 
 
Cụm từ « tính chính thống » đã được dùng để dịch những chữ tiếng Pháp légitimité, tiếng Đức legitimität, tiếng Anh legitimacy, tiếng Tây Ban Nha legitimidat, tiếng Ý legitimita (trước đây người ta dịch là sự chính thống, bây giờ người ta còn dịch là tính chính đáng nữa, dưới đây sẽ nói rõ tại sao lại chỉ dùng tính chính thống).  Tất nhiên, muốn tìm hiểu nội dung cụm từ này cần qui chiếu vào những ngoại ngữ kể trên. Trong khuôn khổ ghi chú này chỉ xin nêu lên một ít điều với hy vọng giúp trả lời một cách đại cương câu hỏi « tính chính thống » là gì? Câu hỏi này sẽ được giải đáp trên hai bình diện từ ngữ và khái niệm.  Về mặt từ ngữ, xin giới hạn vào hai chữ tiếng Pháp légitimité và tiếng Anh legitimacy.  Về mặt khái niệm thì xin đối chiếu quan điểm của phương Đông với quan điểm của phương Tây về tính chính thống.
 
Tự điển Tàu dịch chữ tiếng Anh Legitimacychính thống tính, sang tiếng hán việt thành tính chính thống và dịch chữ tiếng Pháp légitimité là tính hợp pháp, tính chính thống. Từ điển Việt Nam dịch chữ légitimitétính chính đáng và dành chính thống cho chữ orthodoxe. Cũng vẫn theo tự điển Việt Nam thì chữ tiếng Anh legitimacy có nghĩa là tính hợp pháp, tính chính đáng.  Không rõ vì lý do nào mà tự điển của ta khi dịch những chữ légitimité, legitimacy lại đặc biệt khác tự điển của Tàu như vậy (cần chú ý rằng chữ đáng cũng là chữ Hán).  Nhưng điểm đáng nói là một mặt, chữ chính đáng không đủ rộng để phản ánh được nội dung của hai chữ légitimité và legitimacy và mặt khác, khái niệm phương Tây về legitimacylégitimité phân biệt tính hợp pháp (légalité) với tính chính thống (légitimité) trong khi tự điển của ta không phân biệt như thế.  Do đó tưởng nên dùng tính chính thống thay vì tính chính đáng.
 
Một chính quyền phải có những điều kiện nào để được coi là có tinh chính thống?  Có hai loại điều kiện : pháp lý và chính trị .  Điều kiện pháp lý là phải hợp pháp tức là phù hợp với pháp luật.  Nhưng không phải là bất cứ loại pháp luật nào mà phải là loại pháp luật xuất phát từ ý chí chung của tòan dân (volonté générale).  Nếu không như thế thì chính quyền nào cũng đều có tính chính thống, kể cả chính quyền độc tài. Vì vậy lại còn phải thỏa mãn những điều kiện chính trị theo đó chính quyền ấy được toàn dân tự nguyện tuân lệnh, không phải dùng bạo lực khủng bố để ép buộc dân phải theo.  Một chính quyền không hội đủ hai loại điều kiện đó thì không được kể như có tính chính thống.
 
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hai kinh nghiệm về tính chính thống, một ở dưới thời quân chủ và một ở dưới thời độc tài toàn trị.  Thời xưa tuy ở dưới chế độ quân chủ nhưng muốn cầm quyền thì đối với dân vua phải được coi là chính thống.  Và tính chính thống được quy định vừa bởi huyết thống vừa bởi khả năng chăm lo cho dân. « Chính giả chính dã » câu nói này của Khổng Tử để khẳng định rằng làm chính trị thì phải lo cho có được chính thống.  Vua phải ra vua, quan phải ra quan, cha phải ra cha, con phải ra con, đó là ý nghĩa câu « Quân quân Thần thần, Phụ phụ, Tử tử », những điều kiện để kiến tạo một xã hội thanh bình thịnh trị.  Vua trái đạo vua, không lo cho dân, không được dân tín nhiệm nữa thì mất chính thống và mất ngôi vua.  Kẻ cướp ngôi dù cầm được quyền mà không lo được cho dân thì vẫn không được nhìn nhận là chính thống.
 
Dưới thời cộng sản, thời cách mạng vô sản, vấn đề chính thống đã bị đảo lộn, chính tà lẫn lộn, đúng hơn chỉ là tà trong sự chờ đợi tà trở thành chính.  Những người cộng sản cướp quyền, tự đặt mình lên thế lãnh đạo tối cao rồi dùng bạo lực, gian dối để áp đặt chế độ toàn trị. Thời thế thay đổi, dân chúng đang có cơ đặt lại vấn đề chính thống.  Nhiều hành động bất phục tùng đã xảy ra hàng ngày và ở khắp nơi trong nước.
 
Người dân Việt Nam hiện nay đang sắp sửa thực hành một thí nghiệm mới về chính thống, đó là thí nghiệm chính thống dân chủ (légitimité démocratique, democratic legitimacy). Trong viễn tượng mới này, chính quyền sẽ phải thực sự hợp pháp nghĩa là phải nhận được ủy nhiệm của toàn dân để cầm quyền, phải tôn trọng pháp luật do toàn dân làm ra và phải trả lại quyền hành khi mãn nhiệm kỳ để toàn dân chọn những người cầm quyền mới.  Nói cách khác, chủ quyền quốc gia, bị Đảng cộng sản sang đoạt từ hơn nửa thế kỷ, phải được trả lại cho toàn dân. Và toàn dân, muốn được coi là chủ tập thể của đất nước, phải được thực sự hành sử chủ quyền ấy. Theo tiêu chuẩn chính thống của chính trị học và luật học phương Tây, chủ quyền quốc gia thể hiện qua cơ chế dân chủ đa nguyên, đa đảng, nghiêm chỉnh tôn trọng dân quyền, nhân quyền.
 
Dưới chế độ cộng sản, thời cách mạng vô sản với một bộ máy cầm quyền chuyên sử dụng gian dối và bạo lực để áp đặt chế độ thì không thể nói rằng chế độ này có tính chính thống. Vì những người cộng sản cướp quyền, rồi tiếm quyền, tự đặt mình lên thế lãnh đạo tối cao và dùng bạo lực, gian dối để bắt dân phải tuân phục tập đoàn cầm quyền.  Tức là không hề có tự nguyện phục tùng mà chỉ có bất phục tùng. Thái độ bất phục tùng của dân là chỉ dấu của một chế độ phi-chính-thống. Việc coi chế độ ấy có « chính nghĩa » để cầm quyền tất phải gây ra những căng thẳng thôi ./.
 
Trần Thanh Hiệp

__._,_.___
Recent Activity:

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================