Hồi
Ức Của Một Sĩ Quan Tùy Viên.
(Viết để tưởng nhớ hai bạn cùng khóa là Vũ Ngọc Hồ Paul và Nguyễn Anh
Tuấn cũng
từng là tùy viên và đã yên giấc ngàn thu ở quê nhà).
Cuối năm 1966, khi
tôi đang làm trưởng ban 3/TĐ.41/BĐQ thì
được lệnh về trình diện văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Khi đến trình
diện mới
biết là do Quách Tinh Cần khóa 20/VB giới thiệu để thay thế Cần chuẩn bị
đi du
học Hoa Kỳ về khóa điện tử 4 năm.
Bắt đầu công việc mới trong đời binh nghiệp nên có rất nhiều bỡ ngỡ,
nhưng dần
dần cũng quen, rồi thích ứng cũng mau, hằng ngày đi làm việc theo thầy,
thầy
bảo gì làm nấy, bảo sao làm vậy. Nhưng điều tôi ghi nhớ cái đặc điểm đầu
tiên
của Đại Tướng Cao Văn Viên là mỗi khi ra lệnh cho tôi làm điều gì, ông
thường
hỏi:
_ Có hiểu rõ tôi nói không? Có cần hỏi thêm gì không?
Sau cùng ông nhắc nhở rằng:
_ Những gì tôi bảo chú làm, nếu lúc thi hành gặp trở ngại hay không biết
thì
suy nghĩ, chừng nào suy nghĩ không có kết quả thì hỏi tôi.
Từ dạo ấy, thời gian của tôi bắt đầu dính liền với thời gian của ông
thầy, bất
kể ngày đêm, cuối tuần hay lễ lạc gì cả. Có khi tôi phải ở lại nhà của
ông thầy
hai ba ngày liên tiếp, đề phòng khi có những cuộc họp khẩn cấp bất
thường, vì
thời gian ấy tình hình rất nhiễu nhương, nội các của ông Nguyễn Cao Kỳ
bắt đầu
có sự rạn nứt với ông Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc
Gia. Vì
khi Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa do Quốc Hội Lập Hiến sẽ ban hành vào ngày
1/4/1967 thì cả hai ông Thiệu và Kỳ đều có ý định ra ứng cử tổng thống.
Khoảng thời gian
này Hội Đồng Tướng Lãnh thường xuyên hội
họp nên tôi cũng thường gặp Vũ Ngọc Hồ Paul xách cặp theo Tướng Thắng và
Bùi
Văn Đoàn theo Tướng Chinh, khi quý vị tướng lãnh họp đấu đá thì ba chúng
tôi,
nhửng thằng cùng khóa 19VB cũng họp đấu … láo bên lề. Ngoài ra cứ mỗi
tháng ông
thầy bay ra vùng I để duyệt xét thi hành kế hoạch “AB” thì tôi lại được
gặp
Nguyễn Văn Hóa (W.P) là tùy viên của Tướng Trưởng TL/SĐ.1BB.
Thời gian dần trôi qua, ngày 1/4/67, bản Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa được
ban
hành thì hai vị tướng chủ tịch của hai ủy ban là Tướng Nguyễn Văn Thiệu
và
Tướng Nguyễn Cao Kỳ cùng thành lập hai liên danh khác nhau ra tranh cử
Tổng
Thống. Liên danh của Tướng Thiệu thì
ông Trình Qu ốc Khánh đứng phó TT. Liên danh Tướng
Nguyễn Cao Kỳ thì luật sư Nguyễn Văn Lộc đứng phó tổng thống. Đến lúc
này thì
sự chia rẽ càng rõ rệt và sự rạn nứt càng gay gắt giữa các tướng lãnh
với nhau.
Các vị ấy đã phân chia ranh giới công khai như sau:
Các tướng lãnh ngả hẳn theo Tướng Nguyễn Cao Kỳ gồm có:
Lê
Nguyên Khang, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Nguyễn Ngọc Loan, Hoàng
Văn Lạc, Linh Quang Viên …
Các tướng ngả hẳn
theo Tướng Nguyễn Văn Thiệu gồm có:
Trần Ngọc Tám,
Nguyễn Văn Là, Hoàng Xuân Lãm, Chung Tấn
Cang, Lâm Quang Thi ,
Lâm Quang Thơ ,
Dư Qu ốc Đống, Phạm
Quốc Thuần, Trần Văn Chơn, Nguyễn Văn Minh…
Các tướng trung
dung gồm có:
Cao Văn Viên, Vĩnh
Lộc, Trần Văn Minh (KQ), Nguyễn Văn Mạnh
…
Lúc bấy giờ dinh
Độc Lập chia làm hai bên, từ trong nhìn ra
cổng thì Trung Tướng Thiệu ở bên phải, Thiếu Tướng Kỳ ở bên trái mà cả
hai bên
gần như có hàng rào ngăn cách ở giữa, không bên nào qua với bên nào!
Thậm chí
khi Tướng Thiệu, với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia triệu
tập
phiên họp thì Tướng Kỳ không qua tham dự. Và ngược lại, với tư cách là
Chủ Tịch
UBHPTU, Tướng Kỳ triệu tập phiên họp thì Tướng Thiệu không sang.
Thấy tình trạng
chia rẽ trầm trọng như vậy, Đại Tướng Cao
Văn Viên mời Hội Đồng Tướng Lãnh họp ở Bộ TTM để kêu gọi đoàn kết ngỏ
hầu có đủ
sức mạnh để chống CS. Sau vài phiên họp ở Bộ TTM, tình hình êm dịu dần
trở lại,
các tướng lãnh có vẻ gần gũi với nhau hơn. Cuối củng hai Tướng Thiệu và
Kỳ đồng
ý cùng đứng chung với nhau trong một liên danh để ứng cử tổng thống.
Nhưng khổ một nỗi
không ông nào chịu đứng vị trí số 2, tức
là phó tổng thống. Thấy không có cách nào giải quyết được vấn nạn này
nên chẳng
đặng đừng, buộc lòng Đại Tướng Viên phải nghĩ ra một cách khác, dù thực
tâm ông
không muốn chút nào, đó là mời Đại Sứ Mỹ Bunker, Phó đại Sứ William
Colby và
Đại Tướng Westmoreland đến dự bữa cơm tối tại tư gia đại tướng, đề nhân
dịp này
ông tham khảo ý kiến các giới chức kể trên.
Nói một cách tổng
quát thì ý kiến các vị này như sau:
1/Đại Tướng
Westmoreland: “Tướng Kỳ hoạt bát năng động hơn
Tướng Thiệu. được lòng quân đội hơn Tướng Thiệu, nói tiếng Mỹ thạo hơn
Tướng
Thiệu, nếu Tướng Kỳ ở vị trí số một thì thuận lợi hơn”.
2/Phó Đại Sứ
William: “Tính nết Tướng Kỳ bốc đồng, hay phát
biểu linh tinh, thiếu suy nghĩ, không được lòng các chính khách kỳ cựu
trong
nước. Hơn nữa, theo chỗ tôi thăm dò thì những vị lãnh đạo các nước Đông
Nam Á
như Thái Lan, Singapour, Lào, Campuchia và nhất là Tưởng Giới Thạch của
Đài
Loan và Phắc Chánh Hy của Nam Hàn thích Tướng Thiệu hơn Tướng Kỳ”.
3/ Ông Đại Sứ
Bunker, mà báo chí gọi là “ông già tủ lạnh”
phát biểu:
_ “Chính phủ Hoa
Kỳ muốn có một Tổng Thống VNCH gốc tướng
lãnh để điều hành cuộc chiến chống CS, mà hiện nay hai ông Thiệu và Kỳ
chịu
đứng chung trong m ột
liên danh là hợp với mong muốn của chính phủ HK rồi, còn việc ai số một,
ai số
hai là do nội bộ các tướng lãnh Việt Nam thu xếp. Nhưng theo ý tôi, quân
đội đã
có truyền thống giữ tôn tri
trật tự, tôn trọng hệ thống quân giai, cấp nhỏ phải phục tùng cấp lớn.
Vậy Đại
Tướng (Viên) họp các tướng lãnh lại giải quyết theo hướng đó có lẽ sẽ ổn
thôi”.
Qua lời phát biểu
của Đại Sứ Bunker, Đại Tướng Viên hiểu ý
“ông già tủ lạnh” muốn ông Thiệu đứng số một.
Buổi cơm diễn ra
tối Thứ Bẩy thì sáng hôm sau Chúa Nhật,
Đại Tướng bảo tôi gọi mời bốn vị Tư Lệnh vùng, Tư Lệnh Hải Quân, Tư Lệnh
Không
Quân và vài tướng lãnh trong Bộ TTM, vào lúc 8 giờ 30 sáng Thứ Hai, đến
văn
phòng TTMT họp để giải quyết vấn đề liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn
Cao
Kỳ. Riêng hai ông Thiệu và Kỳ thì đích thân Tướng Viên mời họp bằng điện
thoại
riêng.
Sáng Thứ Hai hôm
ấy, không khí phòng họp rất căng thẳng,
gương mặt của các tướng đăm chiêu lầm lỳ, chẳng ai hé môi cười. Lần này
Đại
Tướng Viên chủ tọa buổi họp, sau khi ông phát biểu vài lời khai mạc và
cho biết
mục đích của buổi họp xong thì Tướng Hoàng Xuân Lãm TL vùng I có ý
kiến đầu tiên như
sau:
_ “Thứ nhất, Trung
Tướng Thiệu đang giữ vai trò quốc
trưởng, Thiếu Tướng Kỳ đang giữ vai trò thủ tướng. Thứ hai, nói về thuần
túy
quân đội, Tướng Thiệu cấp bậc lớn hơn, có thâm niên quân vụ hơn Tướng
Kỳ. Vậy
theo ý tôi, Tướng Thiệu ở vị trí số một là hợp lý”.
Thiếu
Tướng Kỳ phản ứng:
_ “Chúng ta nên
xét theo năng lực, không phải ai lớn lon,
lớn tuổi là điều hành đất nước tốt hơn. Bằng chứng là trong thời gian
hai năm
vừa qua, từ chỗ tình hình rối ren của đất nước, tôi đứng ra lèo lái Nội
Các
Chiến Tranh, ổn định được tình thế, điều đó mới quan trọng. Hơn nữa,
cuộc sống
của dân chúng được cải thiện tốt đẹp, sinh viên học sinh không còn xuống
đường biểu
tình, các đảng phái không còn chống đối chính phủ, đó có phải là do Nội
Các
Chiến Tranh, “nội các của người nghèo” do tôi lãnh đạo tạo được thành
tích này
hay không? Còn Tướng Thiệu đã tạo được thành tích gì trong thời gian
qua?”
Trung
Tướng Thiệu đáp lời: “Cái thành tích mà Thiếu Tướng Kỳ vừa nêu lên,
đó là
thành tích chung của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia mà tôi là chủ tịch, công
lao là
của các tướng lãnh thành viên trong ủy ban chứ không của riêng ai cả”.
Tướng
Nguyễn Đức Thắng: “Tôi thấy qua vài ý kiến phát biểu nãy giờ, hai
vị chưa ai chịu nhường
ai, nếu tình trạng này kéo dài sẽ có lợi cho các liên danh dân sự. Theo ý
tôi,
hiện giờ ngoài xã hội, đồng bào mọi giới đều ái mộ Tường Kỳ, kể cả quân
nhân
công chức cũng đều có thiện cảm với Tướng Kỳ, còn Trung Tướng Thiệu thì
dân
chúng ít người biết đến, vậy nếu Trung Tướng Thiệu không chịu ở vị trí
số hai
thì nên rút lui là tốt hơn để Tướng Kỳ ứng cử một mình, cơ hội đắc cử sẽ
cao
hơn, còn nếu Trung Tướng Thiệu “thụ ủy liên danh”, coi chừng chúng ta sẽ
thua một
liên danh dân sự nào đó thì mất mặt quân đội hết.”
Tướng
Thiệu: “Tôi
ứng cử lần này, cho dù chỉ có bà con họ hàng tôi bỏ phiếu cho tôi thôi
thì tôi
cũng cứ thử thời vận anh Thắng ơi”. (!?).
Tướng
Lãm: “Nếu ép
Tướng Thiệu rút lui là một sự bất công, tôi sẽ từ chức Tư Lệnh vùng I,
trả lon
tướng lại cho quân đội và xin xuất ngũ”.
Vì đang tức giận
nên khi tháo “lon tướng” bỏ xuống bàn,
Tướng Lãm vô ý để cây kim đồng của cái lon đâm vào ngón tay cái của bàn
tay
phải, tôi phải lấy band-aid dán chỗ bị thủng lại để máu không chảy ra.
Tướng
Lãm định bỏ ra về, nhưng Tướng Viên khuyên ông nên ở lại. Tướng Lãm ngồi
xuống
và lấy lon gắn lại lên bâu áo.
Đại Tướng Viên
thấy tình hình có vẻ căng thẳng nên lúc này
mới kể cho mọi người trong phòng họp nghe lời phát biểu của Đại Tướng
Westmoreland, của Phó Đại Sứ William Colby, của Đại Sứ Bunker về ý kiến
của họ
trong bữa cơm tối Thứ Bẩy tại nhà Tướng Viên. Nghe xong Tướng Thắng xin
có ý
kiến.
Tướng
Thắng đề nghị: “Để
cho công bằng, nếu Tướng Kỳ chịu nhường vị trí số một cho Tướng Thiệu
thì nếu
đắc cử, Tướng Thiệu phải chịu những điều kiện sau đây:
1/ Nhường quyền
chỉ định thủ tướng cho Tướng Kỳ.
2/ Phải duy trì
Hội Đồng Tướng Lãnh (mà Tướng Kỳ hiện làm
chủ tịch). Những vấn đề hệ trọng của Quốc Gia, Tướng Thiệu phải đưa ra
Hội Đồng
Tướng Lãnh để thảo luận biểu quyết, không được tự ý giải quyết.
3/ Muốn bổ nhiệm
Tư Lệnh vùng phải tham khảo với Tướng Kỳ.
Sau khi nghe ý
kiến của Tướng Thắng và những điều kiện ông
đưa ra, Tướng Thiệu đồng ý và Tướng Kỳ cũng bằng lòng đứng vị trí thứ
hai. Tất
cả phòng họp vỗ tay hoan nghênh, mọi người thở phào nhẹ nhõm vì vừa trút
đi
được gánh nặng tưởng như vô phương giải quyết:
Liên
danh Thiệu-Kỳ chính thức ra mắt cử tri.
Tưởng đã êm xuôi,
nào ngờ ngày 2 tháng 6 năm 1967, Đại
Tướng Dương Văn Minh ,
đang ở Thái Lan, cũng tuyên bố sẽ về Saigon ứng cử tổng thống. Tình hình
lúc đó
vẫn có một số quần chúng và một số trong quân đội còn cảm tình với Tướng
Dương Văn Minh , nếu để
ông Minh về ứng cử thì liên danh Thiệu-Kỳ có thể mất nhiều phiếu, hậu
quả khó
lường. Vì thế cho nên, để bảo vệ liên danh Thiệu-Kỳ, Đại Tướng Cao Văn
Viên,
T.T.M.T kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng ra thông báo “không bảo đảm an ninh”
cho
Tướng Minh về Việt Nam ứng cử tổng thống. Tướng Minh đành bỏ ý định về
ứng cử.
Kết quả bầu cử
tháng 9/1967, liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử,
ngày tuyên bố nhậm chức là ngày 1 tháng 11 năm 1967:
Nền Đệ
Nhị Cộng Hòa bắt đầu.
***
Biến Cố
Mậu Thân.
Đêm 30 rạng 31
tháng 1 năm 1968, VC đồng loạt tấn công trên
khắp lãnh thổ VNCH. Riêng Saigon thì chúng đã chiếm các khu vực Hàng
Xanh, Bà
Quẹo, Mũi Tàu Phú Lâm, Cổng số 4 Bộ TTM, trường sinh ngữ Quân Đội, hãng
rượu
Bình Tây, tấn công tòa Đại sứ Mỹ, thậm chí còn chiếm được một cao ốc ở
góc
đường Nguyễn Du và Công Chúa Huyền Trân, bên hông dinh Độc Lập*.
(* Đại Đội 1/TĐ.2
TQLC biệt phái chạy theo Tướng Loan, đã
được ông giao nhiệm vụ thanh toán ổ VC nằm trên cao ốc này và TQLC đã
tóm được
7 tên, Đại Đội 1 vô sự. CT)
Các nơi khác cũng
rối ren, quân số
bị thiế u hụt, Bộ TTM bèn điều
động Chiến Đoàn B/TQLC đang hành quân ở Cai Lậy được trực thăng Chinook
bốc về
Saigon và TĐ.2/TQLC đã được đổ xuống ngay sân cờ trong Bộ TTM để giải
tỏa
áp lực địch ở trường Sinh Ngữ Quân Đội, trường Tổng Quản Trị, khu Ấn
Loát
v.v.. Sau đó vì nhu cầu khẩn thiết, TĐ.2/TQLC được lệnh tăng phái cho
BTL/CSQG
của Tướng Nguyễn Ngọc Loan thì Bộ TTM lại điều động tiếp TĐ.11 Dù, đang
thụ
huấn tại TTHL Vạn Kiếp, về giải tỏa cồng số 4 và các nơi khác nữa trong
TTM.
TĐ.41BĐQ đang thụ
huấn tại TTHL/BĐQ ở Trung Hòa Cử Chi được
điều động về giải tỏa địch ở hãng rượu Bình Tây v.v..Trận đánh của TĐ.41
BĐQ
trông như trong cine’, Đại Tướng Viên và Đại Tá Hai rất hài lòng đã tận
mắt
chứng kiến BĐQ tác chiến trong thành phố. Tôi xin phép không đi sâu vào
chi
tiết các đơn vị về giải cứu thủ đô và những chiến thằng của họ.
Rồi liên tục ngày
nào cũng vậy, hai thầy trò cứ đi hết mặt
trận này đến mặt trận khác, thăm Dù, thăm TQLC, BĐQ khắp ven đô Saigon.
Một buổi sáng nọ,
cuối tháng 5/68, hai thầy trò tôi vừa tới
văn phòng chừng 15 phút thì Trung Tướng
Lê Nguyên Khang , Tư Lệnh
Quân Đoàn III, tới rủ Đại Tướng đi thăm Liên Đoàn 5/BĐQ đang chiến đấu ở
Chợ
Lớn, cả hai ông cùng ra đi trên hai chiếc xe ieep, chạy tới góc đường
Đồng
Khánh và Tổng Đốc Phương thì dừng lại, hai vị tướng xuống xe đứng bên lề
đường,
Đại Úy Lương Xuân Đương ,
tùy viên của Tướng Khang và tôi cùng đứng cạnh hai ông thầy, lúc đó tôi
nghe
Tướng Khang nói với Đại Tướng Viên:
_ “Tôi điều động
thêm TĐ.35/BĐQ từ Nhà Bè về đây tăng cường
cho LĐ.5/BĐQ. Chờ tiểu đoàn tới nơi, tôi chỉ thị cho tiểu đoàn trưởng
xong rồi
mình sẽ tới LĐ.5/BĐQ, đang ở trường tiểu học Phước Đức gần đây thôi. Lực
lượng bên
ngoài là TĐ.30/BĐQ đang dánh nhau với VC”.
Sau đó vài phút,
Hồ Văn Hòa, TĐT/TĐ.35 BĐQ tới, xuống xe
chào Tướng Khang:
_Trình Trung
Tướng, TĐ.35 về tới, đang ở khu BV chợ Rẫy,
chờ lệnh Trung Tướng.
Trung Tướng Khang
bảo Hồ Văn Hòa cho bố trí quân tại chỗ,
đừng cho lính đi lang thang phá phách dân chúng, ứng chiến 100% chờ
lệnh. Hồ
Văn Hòa tuân lệnh và vừa quay ra đi thì Đại Tá Trần Văn Hai đến, Tướng
Khang
bảo Đ/Úy Lương Xuân
Đương liên lạc xem Tướng Kỳ gần tới chưa, rồi Tướng Khang
quay sang nói với Tướng Viên:
_ Mình ở đây chờ
anh Kỳ tới rồi cùng vào Liên Đoàn 5 luôn.
Đại Tướng Viên hỏi
lại:
_ Phó tổng thống
tới làm gì chỗ người ta đang đánh giặc?.
Tướng Khang đáp:
_ Chẳng biết nữa?
Liền sau đó anh
Đương báo cáo với Tướng Khang:
_ Trình trung
tướng, phó tổng thống vừa rời khỏi nhà, đang
trên đường tới đây.
Ngay lúc đó, bỗng
thấy một trực thăng võ trang lượn vòng
vòng trên vùng trời nơi chúng tôi đang đứng rồi bất ngờ phóng hỏa tiễn
xuống về
phía BCH/LĐ.5BĐQ, nơi mà PTT Kỳ cùng hai Tướng Viên Khang chuẩn vị tới,
chúng
tôi tưởng là trực thăng bắn vào mục tiêu VC, yểm trợ hỏa lực cho BĐQ
đang hành
quân phía dưới, nhưng liền sau đó thì Đại úy Đương báo cho Tướng Khang
biết tin
một đại họa vừa xẩy ra, trực thăng đã bắn “lầm” vào trường Phước
Đức,
nơi BCH/LĐ.5BĐQ
đang
họp, gây một số thương vong
Sự việc xẩy ra quá
bất ngờ, Đại Tá Hai và Tướng Khang cùng
vội vã xin phép ra đi xem xét tình hình, còn Đại Tướng thì quay gấp về
văn
phòng. Khi Trung Tâm Hành Quân Bộ TTM báo cáo cho Đại Tướng biết số
người chết
và bị thương trong tai nạn “bắn lầm” này thì Đại Tướng ngạc nhiên rồi
giận dữ
trách rằng:
_ Ai kêu mấy ông
ấy tới đó để làm gì?
Theo báo cáo ghi
nhận từ TTHQ/TTM thì số tử vong gồm có:
1/Trung Tá Đào Bá
Phước, Liên Đoàn Trưởng LĐ.5.BĐQ.
2/Tr/Tá Lê Ng ọc
Trụ, Trưởng Ty CS Quận 5
3/ Tr/Tá Nguyễn
Văn Luận, Nha Cảnh Sát Đô Thành.
4/ Th/Tá Nguyễn
Ngọc Xinh, Tổng Nha Cảnh Sát
5/ Phó Quốc Chụ*
(khóa 1 Nam Định)
6/Nguyễn Bảo Thùy*
(em Tướng Nguyễn Bảo Trị
7/ Một số sĩ quan
khác nữa mà tôi không nhớ tên.
(* Hai ông Chụ và Thùy gốc quân đội nhưng đã được biệt phái sang thương
cảng).
Những người bị thương gồm có:
1/Đại Tá Giám,
quyền TL/BKTD.
2/ Đại Tá Văn Văn
Của, Đô Trưởng Saigon.
3/Trung Tá Phấn,
thuộc BTL/CSQG.
Tin dữ loan truyền gây chấn động cho quân nhân các cấp trong Bộ TTM rồi
lan
truyền nhanh ra ngoài quần chúng, sự giận dữ của Đại Tướng cũng là những
câu
hỏi và nghi vấn của mọi người, nhưng những nghi vấn này mà mãi cho đến
nay vẫn
chưa có một tia sáng nào hé ra để có thể giải đáp:
1/Ngoại trừ Tr/Tá
Phước LĐT/LĐ.5BĐQ và Đại Tá Giàm TL/BKTĐ,
Tr/Tá Trụ, Trưởng Ty Quận 5 có trách nhiệm trong cuộc hành quân này, còn
những
vị khác không có dính dáng gì đến cuộc hành quân của LĐ.5/BĐQ thì tới đó
để làm
gì?
2/Trung Tướng
Khang điều động TĐ.35BĐQ từ Nhà Bè về Chợ Lớn
với nhiệm vụ gì? Nếu tăng cường cho LĐ.5 thì sao không bảo Đ/Úy Hòa
trình diện
Tr/Tá Phước để nhận lệnh?
3/ Ai là người ra
lệnh gọi những vị không có nhiệ
m vu qui tụ về trường Phước Đức?
4/Tướng Kỳ dự tính
tới trường Phước Đức để gặp các vị kia
toan tính chuyện gỉ?
Giả sử trực thăng
kia xạ kích trễ hơn chừng 10 phút, khi mà
PTT Kỳ, Đ/Tướng Viên, Tr/Tướng Khang, Đ/Tá Hai đang từ ngoài đường Tổng
Đốc
Phương vào đến trường Phươc Đức thì chuyện gì sẽ xẩy ra cho các vị kể
trên? Cả
Đại Úy Đương và tôi nữa?
Vài ngày sau tai
nạn này xảy ra, một ký giả có dịp phỏng
vấn TT Thiệu, đã hỏi:
_ Thưa tổng thống,
nghe đồn rằng vụ trực thăng bắn lầm ở
Chợ Lớn là một vụ thanh toán chính trị, tổng thống nghĩ sao về lời đồn
này?
Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu trả lời:
_ Tôi không biết,
trực thăng Mỹ bắn thì cứ hỏi người Mỹ.
Dư luận thì thầm
thật là một câu trả lời rất hay, “huề
vốn”.
Về phần Đại Tướng
Viên thì tôi biết rõ ràng là do Tướng
Khang, TL/QĐIII đến văn phòng rủ đi thị sát mặt trận nên ông vô tình
cùng đi
thôi chứ không biết gì về sự tụ họp cùa các sĩ quan cấp tá không có
nhiệm vụ gì
ở trường Phước Đức.
Sau tai nạn của
LĐ/5BĐQ, Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm lại các
chức vụ sau đây:
-Đại Tá Đỗ Kiến
Nhiễu làm đô trưởng thay Đại Tá Văn Văn Của.
-Th/Tướng Nguyễn
Văn Minh TL/SĐ.21BB làm TL/BKTQ thay Đ/Tá
Giám.
-Đ/Tá Hai, CHT/BĐQ
làm TL/CSQG thay Tướng Nguyễn Ngọc Loan
(bị thương).
Về Thủ Tướng
Nguyễn Văn Lộc, do PTT Kỳ chỉ định, mới làm
việc được 6 tháng thì TT Thiệu cho là thiếu năng lực, làm việc không
hiệu quả
nên muốn thay thế bởi một người khác. Theo thỏa thuận trong phiên họp
HĐTL
trước ngày bầu cử thì việc chỉ định thủ tướng là do PTT Kỳ nên Tướng Kỳ
định
bụng đưa Tướng Thắng ra làm thủ tướng và đã nói cho Tướng Thắng biết mà
chuẩn
bị nhân sự để thành lập nội các. Nhưng khi PTT Kỳ đưa ý định này ra thì
TT
Thiệu thẳng thường từ chối, ông nói với ông Kỳ rằng:
_ Anh với tôi cùng
là tướng, nay đưa một tướng lãnh nữa ra
làm thủ tướng thì không sợ thiên hạ nói mình là quân phiệt trá hình sao?
Tôi là
tổng thống, hiến pháp quy định rõ ràng tôi có trách nhiệm chỉ định thủ
tướng,
nếu PTT chỉ định thủ tướng thì tôi là bù nhìn hay sao? Và như vậy là vi
hiến.
Sau đó thì TT
Thiệu chỉ định ông Trần Văn Hương làm thủ
tướng. Ông Kỳ tức giận tuyên bố với báo chí rằng ông Thiệu phản bội lời
giao
ước. Một tờ báo đề tựa lớn ở trang nhất:
Cặp vợ
chồng gượng ép Thiệu-Kỳ chưa hết tuần trăng mật đã bất hòa.
Chưa hết, TT Thiệu
còn muốn triệt hết vi cánh của PTT Kỳ
bằng cách gọi Tướng Đỗ Cao Trí, đang làm đại sứ ở Đại Hàn, về thay thế
Tướng Khang
trong chức vụ Tư Lệnh Q.Đ.III. Việc làm này càng chứng tỏ ông Thiệu nuốt
lời
hứa khiến ông Kỳ tức giận, bất mãn, tuyên bố linh tinh đụng chạm tới ông
Thiệu
khiến hố ngăn cách ngày càng sâu rộng thêm.
Chưa hết, ông
Thiệu dựa vào hiến pháp, giải tán Hội Đồng
Quân Lực mà ông Kỳ đang làm chủ tịch, vì cho rằng hội đồng này vi hiến,
còn các
tướng lãnh theo phe ông Kỳ thì ông Thiệu cho về TTM giữ các chức vụ
không có
quân, hoặc ngồi chơi xơi nước, thí dụ Tướng Khang làm Tổng Thanh Tra (!)
Từ chỗ hai ông hục
hặc nhau thì dẫn tới việc hai bà cũng
tìm cách đối đầu, tìm sơ hở của nhau để xì ra cho báo chí biết mà khai
thác.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể để chứng minh:
1/ Nhân dịp ngày
Quân Lực 19/6/1969, các bà lớn kéo nhau
vào Tổng Y Viện Cộng Hòa để tặng quà cho thương bệnh binh. Các gói quà
này đã
được Tổng Cục CTCT gói sẵn và đồng đều như nhau. Khi tới giường một
thương binh
cụt hai chân, cô nữ quân nhân trao một gói quà cho bà Thiệu để bà ấy
trao cho
anh thương binh, khi bà Thiệu bước đi thì anh thương binh này mở gói quà
ra
xem, bà Kỳ đi sau nhìn vào gói quà, thoáng thấy có đôi vớ, bà liền quay
ra nói
với phóng viên báo chí đi theo:
_ Không có gì nực
cười cho bằng tặng một thương binh cụt
hai chân một đôi bí-tất.
Thế là báo chí
được dịp bèn mỉa mai khai thác mâu thuẫn
giữa hai bà.
Cũng trong năm
này, ngày Quốc Khánh 1/11/1969, trên khán
đài danh dự, Tổng Thống và Phó TT đứng hàng đầu, hàng thứ hai có Đại
Tướng Cao
Văn Viên, Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, Trung Tướng Linh Quang Viên đứng kề
bên nhau,
các mệnh phụ đứng hàng sau, khi chào cờ vừa xong, bà Kỳ quay sang bà dân
biểu
Hai đứng gần bên nói:
_ Chị hai ơi, nhà
em có “2 viên” mà em còn chịu không nổi
mà chị xem kia, có tới những 3 viên thì bố ai mà chịu nổi. (!) (dấu than
của
người viết).
Những người tùy
tùng của bà Thiệu nghe được bèn học lại và
tung tin cho báo chí biết để trả đũa. Từ đó hai bà không xuất hiện chung
trong
bất cứ dịp nào nữa.
Trở lại chuyện
quân đội, vì sau Mậu Thân, VC bị ta đánh tan
tác, chúng không còn khả năng tấn công và chống lại những cuộc càn quét
của ta,
chúng rút về bên kia biên giới Campuchia hoặc rừng sâu để chỉnh đốn lại
hàng
ngũ nên năm 1969 ít có trận đánh lớn xảy ra.
Năm 1970, bên
Camphuchia, Lon Nol đảo chánh Shihanouk (?)
và đồng ý cho quân đội ta vượt biên giới để truy lùng MTGPMN và cục R,
thế
là 2 Quân Đoàn III và IV của ta tràn qua đất Chùa Tháp quần bon VC tả
tơi, nhưng phía ta bị tai nạn “rủi ro” khiến 2 tướng tài tử nạn, đó là
Tướng
Nguyễn Viết Thanh TL/QĐ IV, và Tướng Đỗ Cao Trí TL/QĐ III.
Tướng Thanh tử nạn
vì hai trực thăng đũụng nhau trên trời,
sự việc quá rõ ràng khiến ít hoài nghi, nhưng việc Tướng Trí tử nạn thì
có
nhiều vấn đề đáng ngờ vực.
Hôm đó là ngày
23/2/1969, hai Tướng Cao Văn Viên và Đỗ Cao
Trí cùng tới BTL tiền phương của QĐII đang đóng ở Trảng Lớn, Tây Ninh để
nghe
thuyết trình tình hình các cuộc hành quân bên kia biên giới. Trong buổi
thuyết
trình, chúng tôi ghi nhận tin tức từ Phòng 7 Bộ TTM cho biết cục R và
MTGPMN
đang bị QĐ III của ta bao vây tứ phía, không liên lạc được với Hà Nội và
Hà Nội
cũng không liên lạc được với miền Nam nên BTTM Bắc Việt họp liên miên để
tìm
cách đối phó. Sau khi nghe thuyết trình xong, Đại Tướng Viên và Tr/Tướng
Trí
vào phòng riêng để hội ý, còn 2 tùy viên là Tuấn và tôi trờ ra chỗ 2
trực thăng
đậu để chờ 2 ông thầy. Lúc đó Tuấn nói với tôi:
_ Đáng lẽ hôm nay
tao xuống phiên về nghỉ, nhưng ông tướng
của tao ra đi sớm quá, tên tùy viên kia chưa tới nên tao phải đi theo,
hôm nay
tao có vài chuyện nhà cần phải lo mà không về được, buồn quá!
Tôi nói với Tuấn,
thằng bạn cùng khóa 19:
_ Đã chấp nhận ôm
cặp theo tướng thì thời giờ của mình gắn
liền với các ông, mày còn có 2 người thay phiên nhau, còn tao chỉ có một
mình,
kẹt hơn mày nhiều.
Đang nói chuyện
tới đây thì có một người Mỹ mang
một thùng
pin (battery) của máy ANPRC 25 tới nói với Thiếu Tá Đắc, trưởng phi cơ,
cho gửi
theo phi cơ để tiếp tế cho toán cố vấn của đơn vị nào đó trong vùng hành
quân
(mà tôi nghe không rõ). Th/Tá Đắc chỉ qua Đ/Úy Tuấn tùy viên của tướng
Trí để
quyết định. Tuấn nói:
_ Vì nhu cầu hành
quân cứ nhận đi, nếu trung tướng có rầy
thì tôi chịu trách nhiệm.
Một lúc sau, Đại
Tướng đi ra trước, còn Tướng Trí ở lại chỉ
thị thêm cho ban tham mưu cùa ông nên ra sau. Trực thăng của đại tướng
cất cánh
trước, vừa về đến Bộ TTM thì nghe tin trực thăng của Tướng Trí lâm nạn,
bị nổ
khi vừa cất cánh bay lên được chừng vài phút, những người đứng ở bãi
trực thăng
còn nhìn thấy máy bay Tướng Trí bị nổ. Những người trên trực
thăng đều
tử
thương, gồm có:
1/Trung Tướng Đỗ
Cao Trí
2/Phóng viên chiến
trường người Pháp Francois Sully, viết
cho báo New York Time.
3/ Thiếu Tá Đắc,
phi công chánh
4/Đ/Úy Thanh, phi
công phụ.
5/ Đ/Úy Tuấn, sĩ
quan tùy viên
6/Tr/Tá Châu,
truyền tin QĐIII
7/Tr/Tá Sĩ, Phòng
Ba/QĐIII
8/ Một cơ phi.
9/ Một xạ thủ đại
liên.
Tại sao trực thăng
của Tướng Đỗ Cao Trí bị nổ? Có liên quan
gì tới thùng pin PRC25 của người Mỹ gửi không? Tất cả còn trong bí mật.
Những tai nạn trực
thăng xảy ra khiến các Tướng
Trương Quang Ân , Nguyễn
Viết Thanh bị tử nạn đều được tất cả các cơ
quan an ninh vào cuộc điều tra và gửi kết quả về văn
phòng Đại Tướng TTMT, nhưng vụ trực thăng Tướng Trí thì không và vụ
trực
thăng
bắn lầm vào trường Phước Đức Chợ Lớn gây tử thương cho nhiều sĩ quan cấp
tá
cũng không. Văn phòng đại tướng hỏi Cục ANQĐ thì được cục trả lời vắn
tắt là
“LỆNH TRÊN nói KHÔNG”!
Không điều tra hay
không gửi bản điều tra về văn phòng đại
tướng thì không biết, nhưng điều ai cũng biết là nguyên nhân 2 “tai nạn”
thảm
khốc này đều không ai biết.
Tôi cần nói thêm ở
chỗ này, có vài bài viết nói về cuộc
điều tra tai nạn Phước Đức, nhưng đó chỉ là nhận xét của cá nhân ở cấp
thấp,
vòng ngoài, còn cấp cao như văn phòng Đại Tướng TTMT còn không biết thì
làm sao
vòng ngoài biết được nguyên nhân
Đây có lẽ là một
cú “sốc” lớn đối với Đại Tướng TTMT mà dần
dần sau đó Đại Tướng Viên gửi đơn lên Tổng Thống xin từ chức, nhưng đơn
của ông
chính thức không được TT chấp thuận mà gần như “treo chơi”, rồi ông ngồi
chơi.
Vì lý do đó ông không cần tùy viên nữa, chỉ sử dụng một quân nhân có võ
làm cận
vệ, ông cho tôi đi học quân chánh và sau khóa quân chánh tôi được bổ
nhiệm về
làm quận trưởng Chợ Gạo, Định Tường.
Ngày 31/1/1974,
xẩy ra vụ “Còi Hụ Long An”, ngày 1/3/74,
tôi bị gọi lên Cục ANQĐ đề điều tra. Lý do vì tôi đã báo cho tỉnh Long
An của
Đại Tá Tư có mấy tầu HQ đáng nghi ngờ chạy qua vùng sông rạch do quận
tôi phụ
trách, dẫn đến vụ Tỉnh Trưởng Long An chận bắt đoàn xe GMC có QC hú còi
dẫn
đầu, đoàn xe GMC này chở hàng lậu là thuốc lá và rượu quý do tàu “há
mồm” chở
từ ngoài khơi vào đổ hàng.
Khi bị cục ANQĐ
gọi lên điều tra, tôi đã đến trình ông thầy
thì Đ/Tướng nói rằng tôi đã dính líu vào làm đổ bể một vụ lớn ngoài tầm
tay can
thiệp của ông. Hậu quả là tôi bị kết án tù 20 năm, đày ra Phú Quốc cùng
với
những người chận bắt đoàn xe vì tội “làm lũng loạn nền kinh tế quốc
gia”. Sau
30/4/75, VC nhốt tiếp cho tới 1/1986 tôi mới được thả ra.
Cũng cần nói thêm
là sau đêm chận bắt đoàn xe có còi hụ của
Quân Cảnh dẫn đầu, Đại Tá Tỉnh Trưởng Long An được văn phòng Thủ Tướng
Khiêm
gọi lên trình diện và sau đó “được” bàn giao chức vụ tỉnh trưởng để đi
làm
trung đoàn trưởng!?
Xin hẹn vụ “Còi Hụ
Long An” ở một bài khác.
Bảo
Định Giang.
No comments:
Post a Comment