Cộng Sản Việt Nam: Có Chính Danh, Chính Nghĩa, Có Dân Chủ và Pháp Trị Hay Không?
Trong
dịp “Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại, GS Thạc sĩ Vũ
Quốc Thúc xác định CSVN là một “chính quyền chính thức[governement légal], có “chính danh” [légalité],nhưng lại phân biệt: “Đối với những người chống cộng, thì nhóm C.S đang nắm quyền ở Việt Nam không có chính nghĩa [légitimité] vì đã chiếm quyền dưới vĩ tuyến 17 bằng bạo lực, trái với các hiệp định đã ký kết ở Paris năm 1973…” [1]
Sau đó GS Vũ Quốc Thúc còn nhấn mạnh: “Chúng ta – những người sông yên ổn ở hải ngoại – có bổn phận ủng hộ họ : thư ngỏ là một hành động yêu nước , phục vụ dân chủ , phục vụ RULE OF LAW .[2]
Với
tất cả sự kính trọng dành cho một vị trưởng thượng đại trí thức như GS
Vũ Quốc Thúc, người viết cùng độc giả chân chính vẫn thấy có bổn phận
xét kỹ lại những thuật ngữ trên để xem:
- Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam [CSVN] có phải là một “chính quyền chính thức”, có “chính danh” hay không?
- Lý do nào chính thể này còn bị coi là không có “chính nghĩa”?
- Và phải
chăng những người đồng ký tên trong “Thư Ngỏ” trên đều có bổn phận ủng
hộ “họ”[CSVN], với kỳ vọng chuyển hoá CSVN, hay với ước mong họ trở
thành chính quyền có “chính nghĩa”, …có “dân chủ đích thực”, có “pháp
trị đích thực”?
I. CSVN CÓ PHẢI LÀ MỘT “CHÍNH QUYỀN CHÍNH THỨC”, CÓ CHÍNH DANH HAY KHÔNG?
Trước hết, xin định nghĩa rõ rệt lại: một chính quyền chính thức [governement légal], có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp, xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định.[3]
Người
viết căn cứ vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của
“những người chống cộng” [4] mà cho rằng những sự kiện táo bạo của hai
thời điểm 1945 và 1975 đã chứng tỏ CSVN không phải là một “chính quyền
chính thức”, theo nghĩa “governement légal” hay có “chính danh”, theo
nghĩa “légalité” như GS Vũ Quốc Thức xác nhận, mà chỉ đáng được gọi là
một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], hay một hiện tượng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] không hơn không kém, và tất cả những trạng thái áp đặt đó đều bất chính, bất hợp pháp.
1. Cách Mạng Mùa Thu 1945
Vậy
khi căn cứ vào định nghĩa trên, chỉ chính quyền quốc gia của Chính phủ
Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hởp lệ, có chính
danh, sau khi vua Bảo Đại của Triều Nhà Nguyễn đã công bố bản Tuyên Ngôn
Độc Lập vào ngày 11.3.1945 và giao cho Trần Trọng Kim thành lập nội các
vào ngày 17.4.1945.
Còn
cái nguồn gốc chấp chính của CSVN, cái gọi là Cách mạng mùa thu thực
chất chỉ là một cuộc cướp chính quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim.
Thật vậy, ngày 17.8.45, từ một buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức để
chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bổng chốc trở thành biểu tình của Mặt
Trận Việt Minh: “Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây.[5]
Như
vậy, trên căn bản pháp lý, thuật ngữ “cách mạng mùa thu” [1945] cũng đủ
chứng tỏ hành vi cướp chính quyền của lực lượng Việt Minh dẫn tới hiện
tượng chấp chính bất hợp pháp, ngược lại với thế hợp pháp, có chính danh
của Chính phủ Trần Trọng Kim.
2. Hànội Vi Phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 Khi Xua quân Chiếm Sàigòn, Mùa Xuân 1975
Hiệp
Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam, do 4 bên tham chiến — Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa
miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa — ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1
năm 1973, với những khoản chính như sau:
- Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam Việt Nam kể từ ngày 27 tháng giêng năm 1973;
- Các lực
lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của
Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực
hiện kế hoạch rút quân.
- Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình.
- Các lực
lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lượng
không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hành động
tấn công nhau.
- Từ khi
thực hiện ngừng bắn cho đến ngày thành lập chính phủ …hai miền Nam Việt
Nam không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự
và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược
và dụng cụ chiến tranh.
- Hai bên
miền Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược, dụng cụ
chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau khi
ngừng bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng…
Vậy
ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam ồ ạt tăng quân,
binh chủng, súng đạn, chuẩn bị đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng
hòa. Như vậy âm mưu xua quân của ngụy quyền Hànội, ồ ạt vượt vĩ tuyến
17 để cưỡng chiếm Sàigòn là một hình thức xâm nhập lãnh thổ và tiếm
quyền bất chính, bất hợp pháp, vì đã vi phạm những điều khoản căn bản
trên của Hiệp Định Paris 1973, cũng như đã từng vi phạm Hiệp Định Genève
1954 trước đó. Vậy, việc áp đặt chính quyền “thống nhất” trên Miền Nam
Việt Nam, dưới chướng ngụy quyền Hànội/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, sau
khi lật đổ thể chế Việt Nam Cộng Hoà và gạt bỏ lực lượng bù nhìn Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam là một hành vi tiếm quyền bằng lừa đảo và bạo
lực.
Căn cứ vào những sự kiện lịch sử trên [1945 & 1975], CSVN
ngày nay, bắt nguồn từ hai đợt tiếm quyền bằng lừa đảo và cưỡng chiếm
bằng bạo lực không thể được coi là một chính phủ chính thức, hợp pháp,
hợp lệ, có chính danh chính thực.
Chính thể Hànội sau 1945 và nhất là sau 1975, không hơn không kém, vẫn chỉ là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], một hiện trạng tiếm quyền [un état d’usurpation depouvoir] bất hợp pháp, bất hợp lệ,
khác hẳn với sự thẩm định của nhóm “Thư Ngỏ”, như đã được minh thị xác
nhận bởi vị thầy chỉ đạo, GS Vũ Quốc Thúc và vị chánh chủ thảo, GS Lê
Xuân Khoa.
II. TẠI SAO CSVN KHÔNG CÓ CHÍNH NGHĨA?
1. Thế nào là “chính nghĩa”?
Về
mặt thuần thục, “Chính nghĩa” là trạng thái hành xử thích hợp với lẽ
phải chân chính của công lý; ứng dụng đại nghĩa công bình và đạo đức
nhân bản; bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của
toàn dân.[6] Do đó, một chính quyền có chính nghĩa địch thực khi được
dân chúng tín nhiệm, tin tưởng. [7]
Một
lực lượng cách mạng, khởi đầu có thể là một tổ chức bất hợp pháp, khi
nổi dậy đào thải một chính quyền tại vị. Nhưng sau cuộc đảo chính hay
cách mạng đó, lực lượng nổi dậy có thể tạo dựng thành một chính quyền có
chính nghĩa, như trường hợp của những cuộc cách mạng giành độc lập, tự
do, dân chủ tại Pháp, Hoa Kỳ và gần đây tại các quốc gia Ả Rập và Trung
Đông. Những lực lượng nhân dân này đã khởi nghĩa phá bỏ những thể chế
lỗi thời, phản nước, hại dân để tạo dựng vào đó những chính thể phù hợp
với chủ quyền quốc gia, với quyền lợi và phẩm giá của toàn dân.
2. Tại sao lại quả quyết CSVN không có chính nghĩa?
Một
lần nữa, người viết lại vịn vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe
ngóng lập trường của “những người chống cộng” mà khẳng định rằng CSVN
không có chính nghĩa, bởi những chứng cứ sau đây:
- Rõ rệt
nhất, từ lúc thành lập bán khai cho tới khi lộ diện, đảng phái và nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam [CSVN] không bao giờ phục vụ quyền lợi của
dân tộc Việt Nam.
- Đối với Hồ
Chí Minh và các đồng chí cộng sản, cứu cánh biện minh cho phương tiện,
kể cả thủ đoạn đê hèn nhất. Cái dã tâm là cứu cánh của họ không có mục
đích chính đáng, phục vụ dân tộc, mà chỉ phỉnh gạt, lừa lọc, gây tội ác
để củng cố đảng phiệt và chế độ cộng sản của họ, và để duy trì quyền lợi
cho khối cộng sản chuyên chính quốc tế [comintern], dù phải làm thiệt hại cho dân tộc Việt Nam.
- Ứng dụng
tư tưởng căn bản trên, năm 1941, Đảng CSVN họp ở Cao Bằng đã quyết định
thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) để “mượn đầu heo
nấu cháo”, gây thêm lực lượng, kết tụ “đồng minh giai đoạn” dưới chiêu
bài “ái quốc”, chống Pháp, dành độc lập: “Liên hiệp hết thảy tất cả
các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng
yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn
độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.” Sau đó vài
năm, thành phần cộng sản bắt đầu loại trừ các hệ phái quốc gia trong
“Mặt trận Liên Việt”: Cán bộ cộng sản thẳng tay tiêu diệt các đảng viên
Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân v.v., dù những thành phần dân
tộc này đã từng nhiệt thành sát cánh chống Pháp, cứu nước, bênh dân.
- Cũng theo
chiêu bài lợi dụng và tiếm quyền “đồng minh nhất thời” trên, lực lượng
cộng sản miền Bắc đã xâm nhập miền Nam và tuyên bố thành lập Mặt trận
Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960. Lực lượng Việt Cộng
miền Nam trá hình này sau 1975 cũng bị “thất sủng”, các lãnh tụ cuả “Mặt
trận Dân Tộc” cũng bị thủ tiêu, hoặc đi “cải tạo” như kẻ thù phản
động. Đồng chí hôm trước, kẻ thù hôm sau: Làm gì có “Mặt trận Dân
tộc”? Làm gì có giải phóng dân tộc Miền Nam, khi đó chỉ là một cuộc tảo
thanh ý thức hệ, một mưu toan bá chủ quyền lợi độc nhất của đảng cộng
sản “Bắc Thuộc”.
- Kể cả
“đồng bào” của chế độ CSVN, dù được tuyên truyền tung hô là “dân làm
chủ”, bất cứ lúc nào họ cũng sống trên đe dưới búa và dưới lưỡi liềm sát
cổ. Làm gì có việc “bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh
phúc của toàn dân” khi đội ngũ mác-xít trá hình “công bộc” chỉ biết tiếm
quyền dân, với dã tâm nuôi dưỡng hận thù, tranh đấu giai cấp, đấu tố tư
sản, đấu tố phú nông, sát hại địa chủ? Đó là những đợt “cải cách ruộng
đất”, từ năm 1953 tại vùng Thanh Hoá, Liên Khu IV tới năm 1956, trên
khắp miền Bắc, bằng cách thảm sát tập thể khoảng hai trăm ngàn người
dân, quy vào thành phần địa chủ và phú nông, rập khuôn theo mưu đồ “vô
sản hoá” của Nga Xô và Trung Cộng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Bằng cách thủ tiêu và sát hại dân oan.
- Ngoài cuộc
thảm sát tập thể thành phần địa chủ và phú nông, tiểu tư sản, nhân
danh “cải cách ruộng đất”, chế độ CSVN còn trực tiếp nhúng tay vào sách
lược sát hại, thủ tiêu, chôn sống gần 8 ngàn dân vô tội, [2] cũng lạnh
lùng nhân danh “giải phóng” dân tộc xứ Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968.
- Để thực
hiện chính sách hại dân, độc tài đảng phiệt chuyên chính, sau khi chiếm
được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê
nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng
vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết
người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo”
những người chống đối chủ nghĩa xã hội để biến họ thành công dân của
nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí
Minh đã giết và thủ tiêu 850 ngàn người dân Miền Bắc trong những cái gọi
là “trại học tập cải tạo” theo Nghị Quyết mang số 49-NQTVQH ngày
20/06/1961, áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
- Tương tự,
ngay sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Chế độ CSVN đã tiếp tục thi hành kế
hoạch bỏ tù cả triệu quân cán chính của phe Quốc Gia bại trận, đồng thời
thủ tiêu mất tích hài cốt của 165 ngàn quân, cán, chính VNCH trong 150
“trại tù cải tạo” trên toàn cõi Việt Nam.
- Chế độ
CSVN này tới ngày nay vẫn truy tố và tiếp tục bỏ tù bất cứ ai dám bày tỏ
bất đồng chính kiến, hay can đảm chỉ trích những sai quấy, thối nát của
Chế độ này.
- Ngoài
chính sách lừa dân, tiếm quyền, bội ước, vi phạm hiến pháp rừng và lạm
quyền pháp định cuội; ngoài việc hủy hoại tư tưởng, niềm tin căn bản của
90 triệu dân, chế độ CSVN còn trắng trợn trở thành một bày tham
nhũng tư bản đỏ, cướp đất của dân, của chùa, của chúa, thụt két của
công, đại náo môi trường mậu dịch toàn cầu, chia chác toàn bộ lãnh đạo.
Chế độ CSVN ngày nay không hơn, không kém là một hệ thống mafia quốc
tế, một băng đảng tội ác dây chuyền, di căn toàn bộ.
- Chế độ
CSVN luôn luôn chủ mưu Hán hoá, bán đứng lịch sử và căn cước của toàn
dân Việt Nam; tìm mọi cách cầm cố, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải cho đàn
anh Trung Cộng, miễn sao họ được bảo vệ, được giữ nguyên cái ghế quyền
hành mục nát, “Made in China”.
Những
chứng cứ điển hình trên cho thấy CSVN chỉ là một chính thể ngụy tạo,
độc tài, vô nhân đạo, bán nước, hại dân. Bị dân oán trách. Như vậy, CSVN
không hề có chính nghĩa quốc gia nhằm bảo tồn vận mệnh đất nước và cũng
không hề có chính nghĩa quốc dân nhằm bảo trọng và phát huy dân tộc,
vốn đó là những điều kiện cần và đủ [conditions nécessaires & suffisantes] để được lòng tin của toàn dân trong và ngoài nước.
Trên
căn bản tiên quyết của đại nghĩa chí nhân, đất nước, dân tộc, nhân loại
mới là cứu cánh của chính nghĩa đích thực. Ý thức hệ chỉ là phương
thức, nếu khả chấp, hữu hiệu, nếu tử tế, nhân bản. Khi chủ trương ngược
lại những điều kiện cần và đũ trên, ý thức hệ kiểu phát xít, cộng sản,
giáo phiệt v.v. chỉ có tính cách ngụy tạo, phản động, tự hủy. Lịch sử đã
và đang loại trừ những tai ương nhân tạo này.
III. CSVN: PHÁP TRỊ HAY ĐẢNG TRỊ?
“Pháp
trị”, dịch từ Anh-Mỹ ngữ “Rule of Law”, đôi khi còn gọi là “Supremacy
of Law”hay “Ưu Thế của pháp luật”, là một châm ngôn pháp lý [legal maxim] xác định rằng:
- Không ai đứng trên pháp luật;
- Không ai bị nhà nước trừng trị, nếu không vi phạm pháp luật;
- Không ai bị xét xử về một tội trạng ngoài phạm vi và thủ tục xét xử về tội danh đó.
Ngắn
gọn, chế độ Pháp trị chủ trương bất cứ ai, kể cả cấp lãnh tụ, người có
quyền hành, mọi công dân trong nước đều phải tôn trọng và thi hành pháp
luật một cách đích thực, chính đáng, căn cứ vào “ưu thế của pháp luật”
và nguyên tắc “pháp luật chi phối”. [8]
Trong
năm 1959, có tất cả 185 luật gia gồm thẩm phán, luật sư, giáo sư luật
học, đã họp mặt tại New Delhi dưới danh xưng “International Commission
of Jurists” để xác định những nguyên tắc chính của “Pháp trị”/Rule of
Law như sau:
- Ngành tư pháp độc lập;
- bị can được đoán chừng vô tội [presumption of innocence];
- xét xử công minh không bị chậm trễ;
- hình phạt tương xứng, không quá mức;
- công bằng trước pháp luật;
- mọi hình
thức tầm nã, bắt giữ trái phép; giam cầm vô hạn định; xét xử bí mật;
hình phạt quá đáng, độc ác; doạ nạt, mua chuộc thẩm đoàn, v.v. đều bất
khả chấp.
- Pháp trị
đặt nền móng công minh, trong sáng, ứng dụng cho mọi trường hợp, mọi
công dân, vừa để xét xử nội vụ đúng cách, vừa để bảo vệ nhân cách của
mọi bị can đem xét xử.
Để
thực thi, định nghĩa “Pháp trị” theo hình thức bao gồm những thủ tục
pháp lý chuẩn mực phù hợp với cơ cấu pháp quy đem thi hành. Còn định
nghĩa “Pháp trị” theo nội dung cho phép ứng dụng pháp luật ợ những khía
cạnh phụ thuộc, trong phạm vị pháp định, đối với từng trường hợp liên
can.[9] Do đó, xét về nội dung, một đạo luật bất công, thiếu công minh
[unjust law] không đáng gọi là luật, và không thể thi hành. Đương nhiên những đạo luật bất hợp hiến thì bất khả thi.[10]
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc định nghĩa Pháp Trị/Rule of Law như sau:
- Nguyên tắc cai trị [principle of governance]
mà theo đó mọi người dân, tổ chức, pháp thể, tư cũng như công, kể cả
Chính quyền, Nhà Nước [including State itself], đều phải tôn trọng, thi
hành một cách công minh, công bằng, phù hợp với quy tắc nhân quyền quốc
tế.
- Tôn trọng
ưu thế của pháp luật, trên căn bản công minh, công bằng, phân quyền xét
xử và bảo trọng pháp luật, cũng như bãi bỏ mọi hình thức võ đoán, biệt
đãi, hay miệt thị.
Trong
khi đó, CSVN chủ chương Đảng Trị, căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam [1992, sửa đổi 2001], Điều 4:
- “Đảng
cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”
Bất cứ ai, nếu minh mẫn, công bằng, không thiên vị, đều phải thấy những bất cập, sai lầm sau đây do Điều 4 gây ra:[11]
- Điều 4 Hiến pháp 1992 đặt Đảng vào vị thế siêu quyền lực.
- Trước đó,
điều 4 Hiến pháp năm 1980 đã khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực
lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều 4 Hiến pháp Việt Nam
1992 xây dựng trên cơ sở điều 4 Hiến pháp 1980, chỉ bỏ đi từ “duy nhất”
sau khi chủ nghĩa cộng sản Đông Âu sụp đổ, nhưng không vì thế mà làm
giảm đi siêu quyền lực của đảng CSVN.
- Việc quy
định quyền lãnh đạo của Đảng trong hiến pháp tất nhiên tạo ảnh hưởng đến
cả các bộ luật hay văn bản dưới luật, cũng như gây ảnh hưởng trực tiếp
đến các điều khoảnkhác trong hiến pháp, cũng như các luật lệ ban hành
sau đó. Có thể nói hầu hết các điều trong Hiến pháp đều bị điều 4 chi
phối, nghĩa là sự lãnh đạo của Đảng vẫn là tối thượng.
- Như vậy
Đảng Cộng Sản, thực chất chỉ là một nhóm người được quy định tại điều 4
Hiến pháp, được độc quyền lãnh đạo đất nước, nhà nước và xã hội, đã tước
đi vai trò làm chủ thật sự của người dân và mặc nhiên đứng trên pháp
luật của lãnh thổ, đương nhiên xoá bỏ tận gốc nguyên tắc Pháp trị.
- Ngay quyền
làm luật qua Quốc hội cũng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng bởi hơn 90%
đại biểu Quốc hội là đảng viên CSVN và mọi đảng viên phải tuân theo
chính sách và chỉ thị của đảng CSVN.
- Kể cả
ngành tư pháp cũng do Đảng chỉ định, bổ nhiệm, kiểm soát, qua vai vế
Quốc hội. Vậy, mỗi khi Toà án nhân dân xét xử là Đảng CSVN cũng lại ra
chỉ thị tiên quyết về bản án, như trường hợp xét xử các bị can bất đồng
chính kiến, hoặc gần đây vụ xét xử LS Cù Huy Hà Vũ.
- Còn khi
Đảng sai lầm, phạm pháp, tham nhũng như trong các vụ đặc nhượng khai
thác Bauxite tại Tây Nguyên, bán rừng, buôn lậu gỗ, và cả những vụ tầy
trời như lạm dụng công quỹ trong các vụ Vinashin vỡ nợ hơn 4 tỷ Mỹ kim,
hay Vụ tham nhũng RBA/Securency về tội danh đưa hối lộ số tiền lên tới
$17 triệu Mỹ kim thông qua môi giới liên can tới Lương Ngọc Anh và Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng v.v. thì lại không bị chế tài theo nguyên tắc Pháp
trị mà chỉ kiểm thảo theo cương lĩnh Đảng trị.
Như
vậy, Hiến pháp Việt Nam, nền móng của luật pháp ở Việt Nam lại nằm dưới
Cương lĩnh của Đảng CSVN. Do đó, thuật ngữ “Pháp Quyền/Rule by Law”
[cai trị bằng luật] do CSVN trưng bày chỉ là một mạo nhận xảo trá của
nguyên tắc Pháp Trị/Rule of Law[thượng tôn luật pháp]. Do đó, luật rừng
của chế độ CSVN cũng chỉ là một trò hề nực cười của công lý.[12]
IV. TẠM KẾT : NÊN “ỦNG HỘ” HAY CẦN CHỐNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?
Vậy
trong khi CSVN quyết tâm bám chặt định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng
vị thế siêu quyền lực để củng cố đảng phiệt, độc quyền thao túng thị
trường, độc quyền tham nhũng và gây thảm hoạ cho đất nước, cho dân tộc,
thì những người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại
vẫn phải giữ vững lập trường vừa cảnh tỉnh tai ương lịch sử, vừa chuẩn
bị cho giai đoạn tái thiết đất nước khi CSVN tất nhiên phải cáo chung.
Chống
CSVN-Mafia bằng trí giác, bằng lời lẽ từ tốn nêu cao sự thật và đại
nghĩa là chính danh, chính nghĩa, là trân trọng dân tộc.
Còn ”Ủng
hộ” kẻ quyết liệt phạm pháp, phản nước, hại dân có phải là nối giáo cho
giặc, là a dua, a tòng với “họ” hay không? Là liều lĩnh tự hủy trong
ngay cái bẫy ngỏ do chính quý vị tạo bày, khi biết rõ ”ỦNG HỘ HỌ” không
đi tới đâu? Cả cựu Tổng Thống Nga Boris-Yeltsin cũng đã từng nói “CỘNG
SẢN KHÔNG THỂ NÀO THAY ĐỔI, MÀ CẦN PHẢI DẸP BỎ.”
Vậy,
mời quý vị về lại với lý trí, với lẽ phải, với gần 90 triệu dân Việt
của chúng ta [sau khi trừ đi vài ngàn/vài trăm "Ngài" CS Đại gia Tư bản
đỏ, đang tìm cách tẩu thoát ra "nước lạ/nước ngoài"].
Trân trọng,
TS-LS. Lưu Nguyễn Đạt
|
|
|
No comments:
Post a Comment