Hà Thượng Nhân
1. Hà Thượng Nhân
Khoảng tháng Sáu năm 1973, nhân buổi họp mặt văn nghệ tại tòa soạn nhật báo Tiền Tuyến, tọa lạc tại số 2bis đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn, có chiến hữu hỏi ký giả Lô Răng
Phan Lạc Phúc, Chủ bút báo này về vị Chủ nhiệm Hà Thượng Nhân – Hà
Thượng Nhân tên thật hay bút hiệu? Và ý nghĩa như thế nào? Ký giả Lô
Răng cười đáp: Hà Thượng Nhân là bút hiệu, là con nguời của làng Hà
Thượng. Thế thôi.
Người làng Hà
Thượng được động viên vào Quân Đội Quốc Gia (*) những năm đầu thập niên 1950, khi ông từ “Vùng Kháng chiến” trở về Hà Nội, di cư vào Nam, bởi ông đã sớm nhận chân được chủ trương, đường lối của đảng Lao
Động (tiền thân đảng Cộng sản) Việt Nam, ngày càng lộ rõ chân tướng chư
hầu, tay sai của Cộng Sản Quốc tế. Thành phần, giai cấp tiểu tư sản như
ông, sớm muộn cũng bị loại bỏ, thanh trừng:
Nói nhân nghĩa chẳng qua lừa bịp
Nói hy sinh có dịp giàu to
Chết vì một chữ Tự do
Là thôi! Lỡ cả chuyến đò hoa niên.
Vào
Quân đội, cấp bậc Đại Úy, làm việc tại Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Năm 1957
lên Thiếu tá, giữ chức Phụ Tá Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn. Ông
chứng tỏ là mẫu người giàu kinh nghiệm về công tác Văn Hóa, tâm lý;
đồng thời cùng là một người yêu thích thi ca. Có điều lạ, ông không bao
giờ chạy thơ ông trên mặt báo, dù là báo nhà. Theo lời yêu cầu của nhà
báo Như Phong, ông nhận phụ trách mục “Đàn Ngang
Cung” trên nhật báo Tự Do. Năm 1958 ông phụ trách thêm mục “Những Điều
Trông Thấy”, viết hàng ngày trên báo Ngôn Luận dưới bút hiệu Nam Phương
Sóc.
Những bài thơ trào lộng đều đặn trong mục này đã nói lên
nhiều điều, nhiều vẻ về những con nguời quyền chức, về những hiện tượng
“khó coi” trong xã hội miền Nam thời bấy giờ. Vừa nhận diện, điểm mặt,
vừa xây dựng từ “thói hư tật xấu” chuyển hóa thành cái lành mạnh, cái
tốt đẹp cho chế độ chính trị và cuộc sống của quần chúng miền Nam.
Thơ
ông viết với số lượng đáng kể, đủ thể loại dành cho sinh hoạt thi đàn,
cho bạn hữu thưởng thức, cho những trao đổi, đàm đạo... Ông sở trường và
rất yêu thích xướng họa thơ. Ông rất nhạy cảm chữ nghĩa, “xuất khẩu
thành thơ” mà người xưa từng trân trọng khả năng này. Giới thi nhân quý
trọng và cảm mến thi tài Hà Thượng Nhân, khi ông thể hiện những bài thơ
ông làm tức thời trước một số bạn hữu hiện diện với đầy đủ tên gọi mỗi
người và ý nghĩa của nó.
Hình như ông làm thơ đúng với nhận định
“cuộc đối thoại giữa nhà thơ với cõi đời” thầm lặng, sâu kín hơn là in
thơ thành sách, phổ biến trên thị trường văn chương chữ nghĩa. Chúng tôi
nghĩ rằng, giá như ông làm thơ trước năm 1945, tên tuổi và thơ ông sẽ
ngang tầm với Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư... Và có lẽ ông còn đứng
trên một số nhà thơ tiền chiến khác trong “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài
Thanh, Hoài Chân.
Đọc một số thơ Ông trước năm 1975, so chiếu
thơ ông ngày nay
tại hải ngoại, dáng dấp, giọng điệu thơ ít thay đổi, vẫn là dòng cảm
xúc tinh tế, mượt mà, trẻ trung, ấn tượng trong các thể loại truyền
thống chân phương.
Bản tính vốn hiền hòa, đôn hậu, khiêm tốn,
ông hòa nhạp xuô dòng tư tưởng Lão Trang, một phong cách sống an nhiên
giữa trần lụy đầy bon chen, phức thành phôạ:
Sống chỉ lấy cái tam làm trọng
Gửi ngàn sau mấy giọng tiêu tao
Cuộc đời thế chẳng đẹp sao?
Lựa là cứ phải anh hào thần tiên
Chẳng cầu cạnh, chẳng ưu phiền
Miễn sao lòng cứ an nhiên là mừng.
(Không Đề)
Qua
lăng kính nhiều mặt của thi nhân, quan niệm tình yêu phải là tình yêu
rộng lớn, không biên cương, và một khi tình yêu đượcc kahc chạm vào thi
ca nghệ thuật, tình yêu càng bất tử:
Ta có một tình yêu
Bao la như trời đất
Ta viwết vào trang thơ
Tình yêu ta không mất
(Tình Yêu)
Nội
hàm chí thiết, đồng thời cũng là nhu cầu hòa cảm, kiếm tìm hạnh phúc
giữa đời thường, tình bạn tạo động lực liên kết chuyển đổi tâm tư tình
cảm, chắp cánh cho ý sống vươn lên:
Ta từ có bạn đến giờ
Lời thơ lại bỗng bất ngờ thành vui
Khi
đã coi thường danh vọng phù phiếm, quyền lợi nhất thời, ông càng gần
gũi đồng đội, bạn bè giữa vòng vây tù ngục cải tạo. Trung tá Hà Thượng
Nhân thường nói với những ai dễ yếu lòng, sợ hãi bạo lực của kẻ thù
rằng:”Nếu không có phong ba - Thì cây lớn và cỏ hèn cũng vậy”. Phải biết
chịu đựng khổ đau, thử thách, đó chính là sự tôi luyện nhân cách để
vươn lên phí trước ngày mai:
Nếu như không đau khổ
Làm sao biết căm hờn
Càng muôn trùng sóng gió
Tay chèo càng vững hơn
Đêm
âm u của vũ trụ, nhân sinh quan lạc quan – bó đuốc thắp sáng của niềm
tin – tín hiệu cùng tồn tại bền bỉ ý thức tự do của con người:
Chúng ta cùng có nhau
Nhìn nhau vui hớn hở
Trên luống cày khổ đau
Hoa Tự do vẫn nở
Những mái đầu cất cao
Không một lời than thở
(Thắp Sáng Muôn Vì Sao)
Nhà
thơ Hà Thượng Nhân đã ngẩng cao đầu khi ra khỏi trại tù cải tạo trên
đất Bắc, rồi cùng với bạn bè, đồng đội lần lượt đến quê hương mới tỵ
nạn, thấm thía, chua xót cuộc bể dâu lịch sử. Từ lục địa Hoa Kỳ mênh
mông, vĩ đại, ông nhìn về thủ đô Sài Gòn ngày cũ mà cảm nhận như xa xôi
diệu vợi hơn cả từ trái đất đến mặt trăng, cũng chỉ vì khoảng
cách chia của hệ tư tưởng khác biệt:
Người ta lên mặt trăng
Mặt trăng gần quá nhỉ!
Anh muốn về Sài Gòn
Sài Gòn xa đến thế!
Sài Gòn xa hơn trăng
trăng đêm đêm vẫn thấy
Lòng Anh, em thấu chăng
Thấm trên từng trang giấy.
(Nhìn Trăng)
Kinh qua hiện thực đầy biến động lịch sử, thơ ông biểu hiện lời tâm huyết của thời đại.
Phong phú ngôn ngữ, ý tưởng, thơ biểu đạt được phần sâu chính luận lý tưởng, mẫu người quân tử, đạo lý Nho giáo thanh lịch, tài hoa...
Thơ Ông tự nhiên như hơi thở – một chân khí tác dụng của sự sống con người
vượt lên tầm cao trí tuệ.
Không cần thép, thơ vẫn là bó đuốc
Thơ nâng người cao sát với thần linh.
Thơ
Hà Thượng Nhân đủ thể loại: Lục bát, Thất ngôn Đường thi, Ngũ ngôn,
Song thất lục bát, Cổ phong trường thiên, thơ mới, thơ phá thể, Tứ
tuyệt... dù ở thể loại nào thơ ông cũng điêu luyện, đặc sắc. Trong giới
thơ văn người ta vẫn thường gọi ông là Hà Chưởng môn để tỏ lòng ngưỡng
mộ thi tài đáng kính.
(*) Nghị định do đích thân Tổng thống Ngô Đình Diệm ký,
nguyên văn: Mr Pham Xuan Ninh est mobilisé par besoin de service à titre de Capitain de réserve.
Nhất Tuấn
|
No comments:
Post a Comment