VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Saturday, October 31, 2009

TÀI LIỆU LỊCH SỬ
CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA





LS Nguyễn Văn Chức

Hôì 4:30 trưa thứ sáu, mùng 1/11/1963, nghĩa là khoảng 3 giờ sau khi tiếng súng đảo chánh bắt đầu nổ, TT Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Lodge. Và đây là nôị dung cuộc nói chuyện lần cuôí cùng giữa vị Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam vơí viên đại sứ Mỹ.

Tổng thống Diệm: Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy những tiếng súng nổ, nhưng không biết rõ thực hư. Vả lại bây giờ là 4:30 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và chính quyền Mỹ có lẽ không thể đưa ra một ý kiến về vấn đề này.



Tổng thống Diệm: Nhưng chắc chắn ngài cũng có những ý niệm đại khái về vấn đề này. Dù sao, tôi cũng là một vị quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận trên tất cả.

Đaị sứ Lodge: Dĩ nhiên ngài đã làm bổn phận của ngài. Như tôi đã nói với ngài lần đầu tiên sáng hôm nay, tôi khâm phục sự can đảm của ngài và khâm phục sự đóng góp to lớn của ngài đối với quê hương của ngài. Không ai có thể lấy đi cái công của ngài đối với tất cả những gì ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn bản thân của ngài. Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài bình yên đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức. Ngài có nghe thấy nói điều đó không?

Tổng thống Diệm: Không (ngừng một lúc, TT Diệm nói tiếp) ngài có số điện thoại của tôi.

Đaị sứ Lodge: Vâng. Nếu tôi có thể làm được điều gì cho sự an toàn bản thân của ngài, thì xin ngài cứ gọi tôi.

Tổng thống Diệm: Tôi đang tìm cách lập lại trật tự.

Về cuộc nói chuyện nói trên giữa TT Diệm và đại sứ Lodge chúng ta chỉ cần ghi nhận ba điểm sau đây:

Thứ nhất: cái bất lương của đại sứ Lodgẹ Ông đã dối trá khi nói với TT Diệm: "Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy tiếng súng nổ, nhưng không rõ thực hư".



Thứ hai: cái ngu dấu đầu hở đuôi của nhà ngoại giao được coi là thượng thặng của Mỹ. Thật vậy, ở câu trên, đại sứ Lodge vừa nói với TT Diệm rằng ông chỉ nghe thấy tiếng súng nổ, mà không rõ thực hư. Thì ngay câu dưới ông lại nói với TT Diệm rằng: "Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức".



Thứ ba: cái khí phách của TT Diệm. Đến phút chót, và trong cơn nguy khốn, trước mặt ngoại bang, ông vẫn giữ được thể thống của một người lãnh đạo quốc gia, và tư cách của vị tổng thống một quốc gia có chủ quyền. Ông không hạ mình xuống xin ân huệ của ngoại bang. Như tổng thống Marcos của Phi Luật Tân đã hạ mình xuống xin ân huệ của Mỹ, ngày 25/2/1986.



Hồi 5:30 chiều 1/11, tức là khoảng một giờ sau cuộc điện đàm giữa TT Diệm và đại sứ Lodge, trung tướng Dung văn Minh gọi điện thoại cho ông Diệm và đòi ông Diệm phải đầu hàng. Ông Diệm từ chối không muốn nói chuyện với tướng Minh.

Hai giờ sau, tức là khoảng 7:30, tướng Minh lại gọi cho ông Diệm, ông Diệm lại từ chối không nói chuyện. Tướng Minh rất tức giận về thái độ khinh bỉ của ông Diệm.

Khoảng 8 giờ chiều, tướng Minh ra lệnh tấn công vào dinh Gia Long. Người được chọn để thi hành cuộc tấn công là đại tá Nguyễn văn Thiệu, một sĩ quan công giáo, lúc đó chỉ huy sư đoàn 5 bộ binh.



Một điều mà nhóm đảo chánh đã không ngờ đến, là khoảng 8 giờ chiều hôm đó, anh em ông Diệm đã lên một chiếc xe hơi màu đen do ông Cao Xuân Vỹ lái, bí mật ra khoải dinh Gia Long và đến tạm trú tại nhà Hoa kiều Mã Tuyên.

Vào lúc 3 giờ sáng ngày 2/11, đại tá Thiệu mở nhiều đợt tấn công với thiết giáp và pháo binh vào dinh Gia Long. Nhưng các cuộc tấn công ấy đã bị đẩy lui. Những quân nhân trung thành với ông Diệm đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, mặc dù thua sút về quân số, vũ khí, mặc dù không được tiếp tế và mặc dù ở trong tình thế tuyệt vọng. Cuối cùng, nhóm đảo chánh đã phải cầu cứu trung tá Nguyễn cao Kỳ cho phi cơ phóng pháo lên bắn phá thành Cộng Hòa để hỗ trợ quân đảo chánh và áp đảo tinh thần những binh sĩ phòng thủ dinh Gia Long.

Hồi 5 giờ sáng ngày 2/11, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại của ông Diệm.



Hồi 6:45, ông Diệm lại gọi điện thoại. Người nghe điện thoại là thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Diệm cho tướng Khiêm biết ông và ông Nhu hiện đang ẩn náu tại nhà thờ cha Tam, Chợ Lớn, và yêu cầu đem xe đến đưa về bộ Tổng Tham Mưu gặp các tướng lãnh. Tướng Dương văn Minh bèn cử thiếu tướng Mai hữu Xuân, đại tá Nguyễn văn Quang, đại tá Dương ngọc Lắm, thiếu tá Dương hiếu Nghĩa và đại úy Nguyễn văn Nhung đem xe thiết giáp đi rước những kẻ đầu hàng về bộ tổng tham mưu. Đoàn xe rời bộ tổng tham mưu hồi 7:30. Tướng Đôn cho sửa soạn một căn phòng cho anh em ông Diệm, và mời bác sỉ Đinh Xuân Minh đến "săn sóc cho Cụ".



Những gì xảy ra sau đó, đã được sách vở báo chí cũng như lịch sử ghi chép đầy đủ. (xin qúy vị đọc bài "Bọn Ác Ôn Côn Đồ" của Tú Gàn vừa post lên Net để biết rõ chi tiết diễn tiến ....bọn côn đồ phản loạn kia đã làm gì đối vởi anh em TT Diệm trên đường về từ nhà thờ cha Tam trở về tổng tham mưu?)

Khoảng 8:30, chiếc xe thiết giáp về đổ tại sân tổng tham mưu với hai xác chết trên sàn xe. TT Diệm đã bị bắn đàng sau ót, ông Nhu bị bắn ở lưng và bị đâm nhiều nhát dao trên ngực. Hai tay các nạn nhận đều bị trói quặt ra đàng sau lưng.

Cuộc đảo chánh 1963 đã kết thúc bằng cái chết của ông Diệm và em ông, Nhu.



CHÁNH NGHĨA DÂN TỘC


Người ta đã suy nghĩ và đã viết nhiều về cái chết đó.

Có người cho là quả báo nhãn tiền: ông Diệm đã phạm tội ác đối với quốc gia dân tộc, ông Diệm phải đền tội. Đó là cái nhìn của những kẻ ghét ông Diệm.

Có người lại nghiêm khắc phê phán nhóm tướng lãnh đảo chánh là mọi rợ, Ông Diệm đã ra đầu hàng, với sự thỏa thuận của các tướng lãnh. Ông Diệm phải được đối xử như một kẻ đã đầu hàng. Nếu nhóm tướng lãnh đảo chánh không coi ông Diệm là một tổng thống đầu hàng, thì ít nhất cũng nên có cái mã thượng và phẩm cách của người quân nhân "thắng trận" để đối xử với một hàng binh. Cùng lắm, họ có thể đưa ông Diệm ra trước tòa án để công lý tùy nghi định tội. Tại sao lại phải giết một cách lén lút và hèn hạ như vậy? Đó là cái nhìn của số đông, cái số đông gồm những kẻ thương mến ông Diệm, cũng như những kẻ không thương mến nhưng không thù ghét ông Diệm.



Nhưng, lịch sử có cái nhìn riêng của nó. Cái chết của ông Diệm là một sự cần thiết. Nó mang ý nghĩa trọn vẹn của một phủ định và một xác định. Nó phủ nhận và thẳng tay xóa bỏ gía trị lịch sử và gía trị dân tộc của biến cố 1963, đồng thời xác định bản chất đích thực của biến cố ấy, trước dân tộc và lịch sử. Thật vậy:

Biến cố ngày 1/11/1963 đã từng được tôn vinh là một cuộc vùng lên của nhân dân miền Nam và của cái gọi là "đại bộ phận của dân tộc VN". Vùng lên để lật đổ một bạo quyền.

Nhân dân vùng lên, vì anh em ông Diệm là "những kẻ đại tội làm hư uế chánh nghĩa dân tộc và làm suy nhược sức mạnh của miền Nam ".

Nhân dân vùng lên, vì Ngô Đình Diệm "phong kiến như vua, độc tài như cộng sản".

Nhân dân vùng lên, vì chế độ Ngô Đình Diệm là "một chế độ dùng bạo lực thay chính trị, dùng khủng bố thay vì giáo dục".

Nhân dân vùng lên, vì Ngô Đình Diệm "độc tài dộc tôn độc đảng", và vì "suốt chín năm nhà Ngô và đảng Cần Lao ngự trị tại miền Nam, ngoại trừ một thiểu số thống trị với tất cả đặt quyền đặc lợi, còn thì nhân dân phải sống khổ nhục sợ hãi không khác gì nhân dân miền Bắc đã sống dưới chế độ Tần Thủy Hoàng của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản".

Nhân dân vùng lên, vì "chín năm cai trị là chín năm bạo trị, 15 triệu đồng bào là gần 15 triệu nạn nhân, quân đội và phong trào đấu tranh của Phật giáo chỉ là những lực lượng có duyên và phương tiện để thi hành bản án mà gần 15 triệu đã tuyên án từ 9 năm qua".

Nhân dân vùng lên, vì bạo quyền Ngô Đình Diệm "đã tiến hành những chính sách tai hại không phải cho một người mà cho cả một dân tộc", đã "dùng bạo lực để hủy diệt một tôn giáo chỉ biết có tình thương" và "đã dùng gian trá để đem nữa phần đất còn lại của dân tộc bán đứng cho CS miền Bắc"...



Trên đây là những nét chính, tổng qúat hóa tội ác của họ Ngô và được liệt kê trong quyển VNMLQHT (trang 279, 232, 303, 305, 317, 330, 791, 793...) Vì những tội ác ấy, nhân dân đã phải vùng lên.

Đó không phải là luận điệu của riêng ông Đỗ Mậu, mà còn là luận điệu của cả cái tập đoàn đứng sau lưng ông ĐM, cũng là cái tập đoàn từng mệnh danh là "đại bộ phận của dân tộc".

Trong những tháng ngày sau đảo chánh, luận điệu trên dã trở thành chân lý của những kẻ làm đảo chánh, cũng như của những kẻ hoan hô đảo chánh. Các tướng Tôn Thất Đính, Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Đặng văn Quang, Lê văn Kim, Mai hữu Xuân, Trần văn Đôn, Đỗ Mậu ....vv... đã "anh dũng" đưa ra những lời tuyên bố lịch sử: "quân đội lãnh sứ mạng của nhân dân, đứng lên lật đổ Ngô Đình Diệm, vì chế độ Ngô Đình Diệm độc tài phản dân hại nước, và vì anh em họ Ngô bắt tay với Hà Nội để dâng hiến miền Nam cho cộng sản".



Bản tuyên cáo chính thức của hội đồng quân nhân cách mạng đọc ngày 2/11 cũng đã mở đầu bằng câu: "cuộc cách mạng của toàn dân, thành công trong vinh quang, đã chấm dứt một chế độ độc tài, tàn bạo, bất lực..... Đứng trước sự thối nát của chính quyền Ngô đình Diệm, quân đội đã nhận thức sự cần thiết phải giải thóat đồng bào để tiến tới một chế độ dân chủ thực sự, nên quân đội, dưới sự lãnh đạo của hội đồng quân nhân cách mạng, đã cương quyết vùng lên...."

Bản tuyên cáo của chánh phủ lâm thời VNCH cũng cùng một luận điệu đó. Và bản hiến ước tạm thời của chính quyền "cách mạng" cũng đã mở đầu bằng lời ca tụng "cuộc cách mạng chống độc tài đã hoàn toàn thành công với truyền thống hy sinh phục vụ tổ quốc của quân đội VNCH để dành lại cho dân tộc nền dân chủ tự do..."

Nói tóm lại, Ngô Đình Diệm là một tên trọng tội, một tên đại gian đại ác, một tên phản dân hại nước, một kẻ Toan bán đứng miền Nam cho CS... Quyền lợi của quốc gia VN, và sự sống còn của dân tộc VN đòi hỏi rằng tên đại gian đại ác ấy phải bị lật đổ và đền tội trước quốc dân.

Đó là chính nghĩa được khoác lên vai biến cố ngày 1/11/1963.



Câu hỏi được đặt ra: đã có chính nghĩa dân tộc sáng ngời như vậy tại sao "cách mạng" 1963 lại phải lén lút và hèn hạ cho người ám sát tổng thống Diệm trên chiếc xe thiết giáp di chuyển từ nhà thờ cha Tam về bộ tổng tham mưu? Tại sao không đường đường chính chính đem tên tội đồ Ngô Đình Diệm ra trước tòa, dù là tòa án nhân dân - để xét xử và sau khi tòa tuyên án, hành quyết tên tội đồ trước khi mặt trời mọc? Tại sao lại phải hành động lén lút và đê tiện nhưng những kẻ đâm thuê chém mướn?

Chánh nghĩa dân tộc của cách mạng để đâu? Liêm sỉ của cách mạng để đâu?

Khí phách của các tướng lãnh để đâu?



LIÊM SỈ CÁCH MẠNG


Hồi 8:30 ngày 2/11/63, chiếc xe thiết giáp từ nhà thờ cha Tam trở về đỗ tại sân bộ tổng tham mưu.

Khi nhìn thấy hai xác chết bê bết máu của anh em ông Diệm, các tướng đảo chánh đã hoảng hốt cực độ. Trong cơn hốt hoảng đó, họ đã tuyên bố với báo chí rằng anh em ông Diệm đã tự sát. Nhưng ngay sau đó, Lucien Conein nhắc cho họ biết rằng anh em ông Diệm là người công giáo, vì vậy lời giải thích "anh em ông Diệm tự sát" sẽ chẳng được ai tin và chỉ càng gieo thêm nghi ngờ. Các tướng lãnh bèn đổi giọng và tuyên bố với báo chí rằng "đó là một cuộc tự sát vì rủi ro". Luận điện này đã trở thành lập trường chính thức của hội đồng quân nhân cách mạng và của chính quyền cách mạng.



Hiển nhiên, các tướng đảo chánh đã nói dối. Nhưng vấn đề đặt ra: tại sao họ phải nói dối? Tại sao họ phải cúi mặt không dám nhìn sự thật và phải che dấu sự thật?

Tướng Dương văn Minh là kẻ đã ra lệnh cho đàn em giết ông Diệm để trừ hậu họa. Nhưng sau khi ông Diệm chết, tướng Minh không dám nhìn nhận sự thật. Tướng Minh không phải là kẻ chiến bại, mà là kẻ chiến thắng ông Diệm, đồng thời là chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng và người hùng của cách mạng. Tại sao tướng Minh lại phải nói dối? Tại sao lại phải hèn hạ?



Chưa hết. Tướng Dương văn Minh chẳng những không dám nhìn nhận hành động của mình, mà còn tìm cách chối tội và đổ lỗi cho người khác.

Trong cuốn Les Guerres du Viet am và Our Endless Wars, trung tướng Trần văn Đôn đã viết như sau: "Big Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm. Mỗi khi vấn đề được nêu ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vàọ Trong thời gian bị lưu đày tại Vọng Các, big Minh đã thanh minh với một linh mục công giáo rằng ông không có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi" (Our Endless Wars, trang 113).

Tướng Dương văn Minh, lãnh tụ cuôc vùng dậy của nhân dân VN và của cái gọi là đại bộ phận dân tộc VN, đã phạm hai cái hèn.



Ông Diệm đã ra đầu hàng, đã được các tướng lãnh chấp nhận cho đầu hàng, và đã được các tướng lãnh cử người đưa xe đến chở về đại bản doanh của cuôc đảo chánh. Nhưng tướng Minh đã lén lút cho bộ hạ giết anh em ông Diệm trên xe thiết giáp. Đó là cái hèn thứ nhất..

Sau khi đã cho người ám sát ông Diệm, tướng Minh đã không dám nhìn nhận hành động của mình. Đó la cái hèn thứ hai.

Cái hèn của tướng Minh cũng là cái hèn của nhóm tướng lãnh ngày 1/11/63, những kẻ không có chánh nghĩa hoặc biết rằng mình không có chánh nghĩa, hoặc nghi ngờ về chánh nghĩa của mình. Bởi vì: nếu họ có chánh nghĩa, nếu qủa thật họ đã vì dân vì nước tự động đứng lên để diệt trừ một đai họa cho dân tộc, nếu qủa thât họ đã quân đội và cái "đại bộ phận của dân tộc" đã vùng lên lật đổ một bạo quyền để cứu lấy tổ quốc VN, thì việc giết ông Diệm phải được coi là một hành vi chánh đáng hợp tình hợp lý hợp lòng dân và hợp lịch sử. Và những kẻ đã ra tay giết ông Diệm có quyền tự hào về hành vi đó.



Còn gì chánh đáng hơn là thay mặt nhân dân diệt trừ một tên phản quốc, và diệt trừ mọi mầm mống phản loạn sau này? Diệt trừ bằng thủ đoạn giết lén tuy không đường đường chính chính như diệt trừ bằng một bản án tử hình của tòa án, nhưng xét cho kỹ, cũng không có gì đáng hổ thẹn. Cách mạng nào mà không đổ máu? Cách mạng nào mà không giết? Mà giết thì đã sao? Nhất là giết một tên "đại gian đại ác, tội đồ của dân tộc".

Thế thì tại sao lại phải nói dối, tại sao phải chối tội và tìm cách đổ tội cho người khác?

Câu trả lời là: những kẻ đó không có chánh nghĩa. Vì vậy phải hèn hạ, phải giết lén, phải nói dối, phải chối tội và đổ tội lẫn cho nhau.



KHÍ PHÁCH TƯỚNG LÃNH


Tại sao các tướng lãnh không có được cái khí phách tối thiểu và tinh thần liên đới trách nhiệm để tuyên bố rằng: ông Diệm có tội với dân tộc, cách mạng đã giết ông để trừ hậu họa. Nếu không được cái khí phách tối thiểu đó, thì ít nhất cũng phải có được cái liêm sĩ tối thiểu để nói sự thật với quốc dân. Nói rằng: ông Diệm đã bị giết ngoài ý muốn và ngoài dự liệu của các tướng đảo chánh.

Tại sao lại lừa bịp quốc dân và sống sượng nói dối rằng người chết đã tự sát?



Là vì: họ không có chánh nghĩa, không kết hợp và hành động vì chánh nghĩa, vì vậy đã phải nói dối, nói quanh, chối tội và đổ tội lẫn cho nhau. Thật là mỉa mai: người sống sợ người chết, và kẻ thắng trận sợ kẻ bại trận. Đúng là một lũ đầy tớ giết chủ như trung tướng Nguyễn chánh Thi đã nhận định một cách sâu sắc. Và giết chủ rồi, lũ đầy tớ nhìn nhau, lo sợ.



Vẫn chưa hết. Trong cuốn Our Endless War và Les Guerres du Vietnam, tướng Trần văn Đôn còn viết rằng: "trưa mùng 2/11, xác hai anh em ông Diệm được di chuyển về bệnh viện Saint Paul . Sáng hôm sau, ông Minh và tôi đến viếng thăm ông bà Trần Trung Dung tại nhà. Bà Dung là cháu ruột ông Diệm. Ông Minh nói với bà Dung: chúng tôi đến đây không phải chia buồn. Chúng tôi hy vọng bà hiểu cho rằng cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã xảy ra như là một sự ngẫu nhiên đáng tiếc lúc cuộc đảo chánh đang tiến hành. Chúng tôi rất buồn, nhưng bây giờ sự viêc đã xảy ra, chúng tôi không thể làm gì được nữạ Chúng tôi mong bà thu xếp lo viêc chôn cất" (Our Endless War, trang 111).

Một lân nữa, tướng Dương văn Minh lại nói dối, lại chối tội. Lúc này ông không còn là trung tướng Dương văn Minh nữa, mà là đại tướng Dương văn Minh, chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, quốc trưởng của nước VN, và "người hùng" của dân tộc. Ông không chối tội trước quốc dân, trước báo chí, hoặc trước đám đông, mà chối tội trước người cháu gái cua ông Diệm.

Tướng Minh nói rằng cái chết của anh em ông Diệm đã xảy ra như một sự tình cờ ngẫu nhiên. Sự dối trá thật là trắng trợn. Cái chết của anh em ông Diệm đã không xảy ra như một sự tình cờ, mà đã xảy ra theo kế hoạch của tướng Minh và với mệnh lệnh của tướng Minh.

Tướng Minh còn nói răng "cái chết ấy đã xảy ra trong lúc cuộc đảo chánh đang tiến hành". Tướng Minh lại nói dối. Anh em ông Diệm đã bị giết trên chiếc xe thiết giáp do chính các tướng lãnh đảo chánh gửi đến để đón ông về bộ tổng tham mưu. Lúc đó, cuộc đảo chánh đã chấm dứt. Chấm dứt từ lâụ Lúc đó các tưởng đảo chánh đã bắt đầu ăn mừng "cách mạng thành công" và bắt đầu chia tiền.



THẰNG HÈN VÀ THẰNG NÓI LÁO


Năm 1971 là năm bầu cử tổng thống nhiệm kỳ hai. Đại tướng Dương văn Minh nạp đơn ứng cử. Vấn đề giết ông Diệm lại được đặt ra. Một quyển sách mang tên "Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống" xuất hiện. Báo chí lai khơi đống tro của lịch sử, và những người trong cuộc đã có dịp lên tiếng về cái chết của ông Diệm.

Ứng cử viên tổng thống Dương văn Minh, trong nhiều cuộc phỏng vấn, tuyên bố rằng ông Thiệu phải chịu trách nhiệm về cái chết của anh em ông Diệm trong cuộc đảo chánh 1963. Ứng cử viên Dương văn Minh nói: "Thiệu, lúc đó một đại tá tham gia cuộc đảo chánh, đã không đem quân vào dinh tổng thống đúng thời điểm để ngăn chặn Ngô Đình Diệm trốn thoát". Theo ông Minh, nếu anh em ông Diệm bị bắt giữ ngay trong dinh Gia Long, họ đã không bị giết. (Tài liệu ngày 20/7/71 về VN tại thư viện quốc hội Mỹ ghi như sau: "Minh said Thieu, then a colonel who had participated in the coup, had failed to bring his troops to the presidential palace in time to prevent Diem trom escaping. Minh held that if Diem and his brother had been taken into custody at the palace they would not have been murdered”).

Ứng cử viên đương kim tổng thống Nguyễn văn Thiệu, khi thấy tướng Minh liên can mình vào vụ ám sát ông Diệm, đã chửi tướng Minh là thằng hèn và thằng nói láo.



Ông Thiệu nói: lúc đó ông được tướng Trần thiện Khiêm, bây giờ là thủ tướng cho biết Dương văn Minh đã nói với ông ta (tức Trần thiện Khiêm) rằng: đảo chánh phiền phức và khó khăn quá, chi bằng áp dụng phương thức dễ nhất, là ám sát Diệm. (tài liệu ngày 20/7/71 ghi như sau: Thieu called Minh a coward and a liar when linking him to the Diem assassination. .. Thieu said at the time he had been informed by gen. Tran thien Khiem, now premier, that Minh had told him the coup was so complicated and difficult that the easiest way is to assassinate Diem).

Hồ sơ lưu trữ tại thư viện quốc hội Hoa Kỳ ngày 20 và 21/7/71 có ghi rõ những lời nói trên của đại tứơng Dương văn Minh, kèm theo lời của đương kim tổng thống VN Nguyễn văn Thiệu gọi cựu quốc trưởng VN Dương văn Minh, chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, là "thằng hèn và thằng nói láo".



Tướng Nguyễn văn Thiệu chửi tướng Dương văn Minh là thằng hèn và thằng nói láo. Lời chửi sâu sắc và xác đáng này cũng có thể dùng để nói về toàn thể hội đồng quân nhân cách mạng 1963, trong đó có tướng Thiệu, trong vụ ám sát ông Diệm va giải thích cái chết của ông Diệm.

Quả thật ông Diệm đã được phục thù trước lịch sử. Bởi chính cái gian dối hèn hạ của những kẻ đã lật đổ và giết ông. Kẻ thắng trận phải run phải sợ cúi mặt trước kẻ bại trận. Và đổ tội lẫn cho nhau, nguyền rủa lẫn nhau.

Ông Diệm đã được phục thù trước lịch sử. Chính cái gian dối hèn hạ của những kẻ giết ông đã phơi bày thực chất của nhóm người làm đảo chánh và phơi bày cái ý nghĩa đích thực của biến cố 1963. Một nhóm người không có chính nghĩa. Một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ xướng và để phục vụ mưu đồ của ngoại bang. Một "lũ đầy tớ giết chủ" như lời nhận định của tướng Nguyễn Chánh Thi Một vụ "giết mướn, như lời phê phán của nhà văn quân đội Nguyễn Đạt Thịnh.



BA TRIỆU ĐỒNG (VN) CỦA CIA


Như đã trình bày ở chương 6 về cuộc đảo chánh, ngày 30/10/1963 tức là hai ngày trước khi cuộc đảo chánh bùng nổ, đại sứ Lodge đã gửi về tòa Bạch Ốc một công điện gồm 13 điểm. Điểm 11, đại sứ Lodge đề cập đến lời yêu cầu của các tướng đảo chánh muốn có một số tiền để "mua chuộc phe chống đối".

Theo các tài liệu còn lưu trữ tại thư viện quốc hội Mỹ, thì hôm đảo chánh Lucien Conein đã đến bộ ổng tham mưu trao một gói bạc ba triệu bạc VN ($3,000,000 đồng) cho tướng Trần văn Đôn, gọi là để "mua chuộc phe chống đối nếu cần".



Trong quyển VNMLQHT, ông Đỗ Mậu cũng viết: "Conein bèn mặc quân phục mang theo một khẩu 375 Magnum và một gói tiền độ 3 triệu đồng bạc rồi đến bộ tổng tham mưu". Nhưng ông ĐM không biết rõ mục đích và số phận của số tiền đó. Vì vậy, ông viết tiếp: "cũng cần nói rõ rằng số tiền ba triệu đồng VN do Conein mang đến đã không được một tướng lãnh nào hay biết trừ tướng Đôn. Tướng Đôn không bao giờ trình bày cho hội đồng tướng lãnh biết có nhận số tiền đó của Conein hay không, và nếu có thì đã xử dụng vào việc gì". (trang 816).

Trong quyển Việt Nam Nhân Chứng, tứơng Đôn nhình nhận có đươc Conein trao cho số bạc ba triệu, và ông đã "tặng cho các bạn", chứ không bỏ vào túi. Ông viết: "Đúng 1:30 trưa, ông Conein vào có mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc vơi đại sứ Mỹ và một bao tiền ba triệu bạc VN. Đảo chánh vừa thành công, trong không khí rộn ràng đó, tôi có tặng cho các gạn một số tiền ủy lạo binh sĩ đơn vị mà không đòi làm biên nhận đầy đủ. Đến năm 1971, tôi ra lệnh cho thiếu tá Đặng văn Hoa tìm lục lai các biên nhận về việc ghi số tiền ba triệu bạc của Conein, thì th/tá Đặng văn Hoa làm tờ trình và một số các biên nhận. Tôi xin đính kèm theo đây để chứng minh. Tôi không tổ chức đảo chánh để kiếm số bạc như vậỵ Vì lúc đó mấy triệu bạc VN đối với tôi không phải là số tiền mà tôi khao khát" (VN Nhân Chứng, TVD, trang 211).



Viết như vậy, tướng Đôn đã muốn thanh minh cho sự trong sạch của ông. Nhưng ông đã làm một công việc thừa thãị Bởi lẽ: không ai kết tội tướng Đôn nhận tiền của Mỹ để bỏ vào túi riêng. Người ta kết tội các tướng đảo chánh đã làm như nhuốc cuộc đảo chánh, và làm nhơ nhuốc Quân Lực VNCH. Người ta kết tội các tướng lãnh đã xử sự như những tay sai của Mỹ, trong vụ lật đổ ông Diệm năm 1963.

Chúng ta hãy đọc kỹ phiếu đệ trình của th/tá Hoa, được tướng Đôn công bố và đính kèm trong phần phụ lục của quyển VN Nhân Chứng của ông, để có một ý niệm.



Phiếu đệ trình, ngày 14 tháng 8 năm 1971

Trích yếu: Về số bạc ba triệu đồng của ông Conein cho mượn để thù lao các đơn vị trong ngày Cách mạng 1/11/63.

Kính thưa trung tướng,

Số bạc 3 triệu đồng của ông Conein cho mượn thì đã được trung tướng chỉ thị cấp cho những người sau đây:

Ngày 1/11/63, T/T/TMT Trần thiện Khiêm nhận ............ .......... ........500, 000 $
(do đại tá Đặng văn Quang làm biên nhận)

Ngày 1/11/63, T/T Tôn Thất Đính tư lệnh quân đoàn 3 nhận ............ ...500,000 $
(do đại úy Phạm viết Hùng nhận)

Ngày 10/11/63, TT Tôn thất Đính có nhân thêm
............ .......... ......... 100,000 $

Ngày 4/11/63, tặng sư đoàn 5 ............ ......... ......... .......... ......... ....50,000 $
(do đại tá Nguyễn văn Thiệu nhận)

Ngày 5/11/63, tặng liên đoàn thủy quân lục chiến của đại tá Lê nguyên Khang ..100,00$ (do đại úy Quế nhận)

Ngày 5/11/63, đại tá Trần ngọc Huyến thị trưởng Đàlạt
nhận........... ....100,000 $

Ngày 9/11/63, thiếu tá Phan hòa Hiệp trường thiết giáp nhận ............ ...100,000$

Ngày 19/11/63, đại úy Đào ngọc Diệp câu lạc bộ tổng tham mưu nhận...100,000$

Tổng cộng.......... ......... ......... ......... ......... ......... .......... ......... ..1,550,000$

Tất cả số tiền 1,550,000 $ trên đây đều có biên nhận (đính kèm). Như vậy còn lại 1,450,000 $, trung tướng cũng tặng cho anh em nhưng không có chữ ký biên nhận. Nếu tôi nhớ không lầm thì trung tướng đã tặng cho các ông sau đây:



Trung tướng Dương văn Minh
Trung tướng Lê văn Kin
Trung tướng Tôn thất Đính
Thiếu tướng Nguyễn hữu Có
Thiếu tướng Trần ngọc Tám
Trung tướng Nguyễn Khánh
Trung tướng Nguyễn cao Trí

Ngày 14 tháng 8 năm 1971
Ký tên
Hoa



Đọc phiếu trình trên đây, người ta thấy rõ số tiền ba triệu đã được tuớng Đôn chia ra làm haị Một nửa "tặng" cho các đơn vị đảo chánh gọi là tiền ủy lạọ Một nữa "tặng" cho các bạn !

Trong những người nhận tiền "ủy lạo", tướng Trần thiện Khiêm, tham mưu trưởng QLVNCH, nhận 500,000$. Tướng Tôn thất Đính, tư lệnh quân đoàn 3 kiêm tổng trấn Saigon-Gia Định, nhận 600,000$. Số còn lại chia cho sư đoàn 5, liên đoàn thủy quân lục chiến, trường thiết giáp, câu lạc bộ tổng tham mưu và đại tá thị trưởng Dalat, Trần ngoc Huyến.

Trong những người được "tặng" tiền, có các tướng Dương văn Minh, Lê văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn hữu Có, Trần văn Tám, Nguyễn Khánh, Đỗ cao Trí (riêng tướng Dương văn Minh còn được hưởng số bạc 6 ngàn Mỹ kim lấy được trong chiếc cặp của TT Diệm).



Nói tóm lại: tất cả tướng tá có quân hoặc có công tham dự
và cuộc đảo chánh, đều được "ủy lạo" hoặc "tặng tiền". Nói cách khác: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng (tặng). Và đây là điều quan trọng: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng bằng tiền của CIA, do đích thân CIA đưa đến.

Vấn dề đặt ra: các tướng đảo chánh đã xin tiền, hay chính người Mỹ đã tự động đem đến?

Theo như công điện ngày 30/10/63 của của đ/s Lodge gửi cho cố vấn an ninh tòa Bạch Ốc thì các tướng đảo chánh đã "yêu cầu" được có một số tiền để dùng vào việc mua chuộc phe chống đối, nếu cần. Điểm 11 của công điện viết như sau: "As to requests from the Generals, they may well have need of funds at the last movnent with which to buy off potential opposition". Tạm hiểu như sau: Theo lời yêu cầu của các tướng lãnh, họ có thể cần một số tiền vào phút chót để mua chuộc (những kẻ) chống đối có thể xuất hiện.

Tức là: các tướng lãnh đảo chánh đã xin tiền. Và xin tiền với danh nghĩa để mua chuộc phe chống đối (các sĩ quan còn trung thành với ông Diệm).



Theo những cuốn hồi ký của tướng Đôn (Our Endless War, Les Guerres du Vietnam, và Nhân Chứng VN), thì cuộc đảo chánh năm 1963 là một "vấn đề hoàn toàn nội bộ của VN". Tướng Đôn đã vô tình hay hữu ý không biết đến nội dung bức công điện của đại sứ Lodge về vấn đề các tướng đảo chánh đã xin tiền. Ông mô tả Lucien Conein như một bà phước tự động đem tiền đến cho các tướng xử du.ng. Trong cả hai trường hợp (các tướng xin tiền, hoặc Conein tự động đem tiền đến), việc cung cấp số bạc ba triệu đã được chính quyền Mỹ sắp đặt và quyết định trước. Rất có thể các tướng đảo chánh đã xin, cũng rất có thể các tướng lãnh đã không xin. Nhưng trong cả hai trường hợp, họ đã ngửa tay ra nhận !

Hành động ngửa tay nhận tiền của các tướng đảo chánh đã làm nhơ nhuốc cuộc đảo chánh. Họ đã làm nhục chính họ, điều đó không quan hê.. Họ đã sỉ nhục Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ..!!

Phiếu đệ trình phát tiền do tướng Đôn công bố có nhiều điều làm cho người ta phải thắc mắc.

1/ Trích yếu của phiếu trình có ghi: "về số bạc ba triệu bạc của ông Conein cho mượn để thù lao các đơn vị trong ngày cách mạng 1/11/63.

Trước hết, số bạc ba triệu đồng (VN) đã do chính quyền Mỹ cung cấp, chứ không phải tiền ông Conein cho mượn. Điều này không cần phải chứng minh, nó đã đi vào lãnh vực hiểu biết công cộng, cũng như đã được các tài liệu của Mỹ xác nhận. Thâm tâm các tướng Đôn, Minh, Đính, Kim Khiêm cũng biết điều đó. Vậy thì, tại sao trong phiếu trình lại ghi là tiền ông Conein cho mượn? Và nếu là tiền ông Conein cho mượn thì các tướng đảo chánh đã trả lại cho ông Conein chưa? Nếu trả rồi, chắc chắn tướng Đôn sẽ thấy có bổn phận phải xuất trình bằng chứng, cũng như ông đã thấy có bổn phận phải xuất trình bằng chứng về sự chi tiêu số bạc.



Thứ đến, phiếu trình ghi rằng số tiền ấy dùng để thù lao các đơn vị trong ngày cách mạng 1/11/63. Thù lao là trả công. Tại sao lại ghi như vậy? Người ta lại nghĩ rằng tướng Đôn đã không đọc kỷ phiếu trình, trước khi công bố.

Những chi tiết nói trên không nên có trong phiếu trình. Dư luận đã từng cười ra nước mắt, nay một lân nữa lại phải cười ra nước mắt, và thương hại cho cái gọi là cuộc cách mạng 1963.



2/ Phiếu trình của thiếu tá Hoa đề ngày 14/8/1971, tức là gần 8 năm sau cuộc đảo chánh.

Trong quyển VN Nhân Chứng, tướng Đôn cũng đã viết rõ: năm 1963, ông tặng tiền mà không làm biên nhận, đến năm 1971, ông mới ra lệnh cho thiếu tá Hoa tìm lại các biên nhận và lập phiếu trình.

Cau hỏi được đặt ra: lý do nào đã thúc đẩy tướng Đôn năm 1971 phải cho lập phiếu trình về số bạc đã chi tiêu năm 1963?

Như chúng ta đã biết: năm 1971 là năm bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 2. Năm đó, tướng Dương văn Minh ra ứng cử: vấn đề ông Diệm và cuộc đảo chánh 1963 lại được đặt ra trước công luận. Và như trên đã trình bày, ngày 20 và 21 tháng 7 năm đó, hai ông Nguyễn văn Thiệu và Dương văn Minh chửi lộn nhau về cái chết của ông Diệm.



Năm 1971 cũng là năm bầu cử Hạ Nghị viện khóa 2. Ngày bỏ phiếu là 30/8/1971. Tướng Trần văn Đôn ra tranh cử dân biểu tại đơn vị Quảng Ngãị Và ông đắc cử. Những sự việc nói trên có thể trả lời cho câu hỏi: lý do nào đã thúc đẩy tướng Đôn năm 1971 phải cho lập phiếu trình về số bạc ba triệu đã chi tiêu năm 1963,

Tôi muốn nói với các tướng đảo chánh và những kẻ vẫn lớn tiếng ca ngợi biến cố 1963 và cuộc vùng dậy của đại bộ phận dân tộc rằng: hãy có can đảm nhìn vào sự thật. Biến cố ngày 1/11/1963 chỉ là một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ mưu và nhằm phục vụ quyền lợi của ngoại bang. Cuộc tạo phản ấy đã được thi hành bởi những tay sai bản xứ. Những kẻ này đã ngửa tay nhận tiền của ngoại bang. Và: đảo chánh xong rồi, họ đã chia nhau số tiền ấy, mặc dù chẳng được bao nhiêu.

Thật là nhục ! Nhục cho những tướng lãnh đảo chánh. Nhục cho cuộc đảo chánh. Và nhục lây cho cả Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. (Việt Nam Chính Sử, Nguyễn Văn Chức, trang 86-95) .






2 câu hỏị của Mao Tôn Cuơng on-line:

TUỚNG QUẢNG LẠC RÂU DÊ NGUYỄN KHÁNH GÓP CÔNG ĐẢO CHÍNH CU. DIỆM VÀ SAU ĐÓ ÍT LÂU VỘI VÀNG KÝ SẮC LỆNH CẢI LUƠNG PHUỜNG TUỒNG GIẾT ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN. YÊU CẦU TUỚNG PHUỜNG CHÈO RẤT THI'CH CẦM "MI CÔ" PHÁT BIỂỤ..NINH TINH TRONG CÁC TIỆC CUỚI NHƯNG BI. QUAN VIÊN HAI HO. CẤM NGẶT KHÔNG CHO NÓI LĂNG NHĂNG, LÍT NHÍT TRUỚC "CUỐC DÂN ĐỒNG...HỒ" VÌ ÔNG KHÁNH ĐÃ HẾT QUYỀN "CUỐC TRUỞNG" TỪ NGÀY MANG NẮM ĐẤT THÓ ĐEN THÙI LÙI KHÓC TI? TÊ CHẠY RA HẢI NGOẠỊ .

YÊU CẦU ÔNG KHÁNH QUẢNG LẠC HÃY TRA? LỜI TRUỚC LỊCH SƯ? VÀ ĐỒNG BÀO (1) TẠI SAO ÔNG GIẾT ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN VÀ (2) TẠI SAO BÂY GIỜ ÔNG LẠI QÚA KHIÊM TỐN, ÉP MÌNH LÀM LOONG TOONG, GỌI DA. BẢO VÂNG CHO CHÚ CHÁNH.


Tro ve dau trang


======================================
====================================================
AI GIẾT ANH EM ÔNG DIỆM
Lê văn Bảy

Lịch sử Việt Nam có nhiều biến cố quan trọng. Lịch sử cận đại có biến cố 1 tháng 11 năm 1963, được xem là một dấu mốc đáng ghi nhớ vì nó mở đầu cho một sự thay đổi lớn lao của đất nước Việt Nam. Ngày này, 45 năm trước, các tướng lãnh của miền Nam đã thành công trong cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm. Cũng từ đó, cuộc chiến chống cộng sản trở nên khốc liệt hơn, rồi cuối cùng, quân cộng sản Hà Nội đã chiếm trọn Việt Nam, đưa cả nước vào quỹ đạo cộng sản.

Hậu quả là một nước Việt Nam bị phá sản toàn diện, từ kinh tế, chính trị đến đạo đức, giáo dục, văn hóa,... Cái mốc lịch sử này được ghi dấu qua cuộc ăn mừng của cộng sản Hà Nội sau khi nghe tin tổng thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại. Ăn mừng là vì miền Nam không còn ai là đối thủ đáng ngại khiến cho cộng sản Hà Nội tin rằng họ sẽ chiến thắng.

Biến cố lịch sử này, thế hệ lớn lên sau chính biến 1-11 đã có nhiều người thắc mắc tại sao hai ông Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu bị sát hại trong chiếc xe bọc thép, trên đường giải giao về Bộ Tổng Tham Mưu? Tại sao, anh em ông Ngô Ðình Diệm đã đầu hàng và chịu nạp mình mà vẫn bị thảm sát? Cuộc thảm sát này lại được thực hiện mờ ám trong một thiết giáp M-113. Ðã có nhiều tài liệu nói về cuộc chính biến này được công khai hóa, từ những thùng hồ sơ của cơ quan tình báo Hoa Kỳ đến những hồi ký của những người trong cuộc, nhưng vẫn còn có những điểm lờ mờ quanh cái chết của hai ông.

Khi ôn lại diễn biến của sự kiện 1-11-1963 , người ta vẫn gặp phải câu hỏi thường được đặt ra trong 45 năm qua: Ai đã ra lệnh giết anh em ông Diệm? Tại sao?

Ngay từ ngày 3 tháng 11, năm 1963, báo chí ở Sài Gòn đã loan tải theo lời tuyên bố của các tướng lãnh đạo cuộc đảo chánh nói rằng, hai ông đã tự vận trong chiếc xe bọc sắt M-113, trong lúc bị giải giao về Bộ Tổng Tham Mưu. Trong các cuộc họp báo, chính quyền mới không thể giải thích tại sao hai anh em ông Diệm bị chết trong vũng máu trên sàn xe bọc thép. Người ta cố tình lờ đi theo kiểu chờ cho thời gian biến cứt trâu thành bùn để xóa mờ vụ này. Một mặt, chính quyền sợ dư luận cho rằng mình làm tay sai cho Mỹ, mà cũng không muốn để cho Mỹ bị mang tiếng là kẻ chủ mưu về cái chết thảm của hai ông Diệm và Nhu; cho nên các báo chí thân chính quyền đã có những bài viết cố tình hướng dẫn dư luận sai lệch thật xa sự thật.

Ðôi khi còn có những bài viết thêu dệt trắng trợn về những con đường hầm dẫn từ Dinh Gia Long ra đến nhà thờ Ðức Bà, hay từ trong dinh ra đến phi trường,... có đến 7 đường hầm bí mật. Chỉ với mục tiêu hướng dẫn sai lạc trong dư luận và tô đậm thêm tính cách tàn ác của hai anh em ông Diệm và Nhu, để rồi phải chấp nhận cái chết của hai ông là hợp lý. 45 năm sau, báo Công An của cộng sản Việt Nam vẫn còn sử dụng những bài viết này để tiếp tục bôi nhọ chế độ Ngô Ðình Diệm và ghi tên ông Dương Văn Minh trong tự điển những nhân vật lịch sử do cộng sản Hà Nội in vào năm 2006.

Nhưng rồi, 45 năm qua người ta vẫn phải đối diện với câu hỏi: Ai đã ra lệnh giết anh em ông Diệm? Tại sao?


Mối Hận Lâu Năm Với Anh Em Ông Diệm

Tưởng cũng cần tóm lược biến cố chính trị xảy ra vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, đã được nói ngắn gọn là chính biến 1-11, và một vài dữ kiện chung quanh.

Năm 1954, nước Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17; miền Bắc theo chủ nghĩa cộng sản, cai trị bởi tập đoàn Hồ Chí Minh. Miền Nam theo chủ nghĩa Quốc Gia dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm.
Một năm sau, dân chúng miền Nam tín nhiệm ông Ngô Ðình Diệm vào chức vụ Tổng Thống và ông Ngô Ðình Nhu được tổng thống chọn làm cố vấn chính trị. Tổng thống Ngô Ðình Diệm tiếp thu một vùng đất từng là thuộc địa của Pháp, với các phe phái tôn giáo, chính trị và băng đảng trong xã hội. Phe phái nào cũng có lực lượng võ trang và thống lĩnh một vùng đất làm giang sơn riêng biệt. Những biệt danh nghe quen thuộc như Bảy Viễn, Năm Lửa, Ba Cụt,... là những vị tướng lãnh đạo các lực lượng võ trang này, trong đó có cả giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo,...

Trong cương vị lãnh đạo, ông Diệm nhận trọng trách củng cố tình hình chính trị xã hội và xây dựng quân đội cho miền Nam để sẵn sàng đối đầu với cuộc xâm lăng của cộng sản Hà Nội. Ngoài ra, gánh nặng của chính phủ còn phải lo cho gần một triệu người di cư tỵ nạn cộng sản, chạy từ Bắc vào Nam cần được chính phủ lo nơi ăn chốn ở.

Các lực lượng võ trang chống chính phủ, có nhóm chịu về hợp tác với chính phủ và cũng có lực lượng chấp nhận đối đầu và cuối cùng bị quân đội đánh tan. Trong hai năm 1954 và 1955, chính phủ Ngô Ðình Diệm đã mạnh tay giải quyết vấn đề phe phái, nhưng cũng chuốc lấy nhiều oán thù. Ngay trong giới lãnh đạo quân đội của miền Nam cũng có nhiều người thù ghét ông Diệm vì hoặc không được tin dùng, hoặc bị ngoại nhân mua chuộc, trở thành thế lực nguy hiểm cho chế độ nhà Ngô.

Ngay từ những ngày đầu của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ở miền Nam, ông Diệm đã gặp sự chống đối của Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Nhiều sĩ quan ở Bộ Tổng Tham Mưu bị ông Hinh thuyết phục thành lập lực lượng chống ông Diệm, phần lớn là những người được quân đội Pháp đào tạo.
Tháng 11 năm 1954, qua sự can thiệp của Mỹ, quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho tướng Nguyễn Văn Hinh phải rời Việt Nam, và trung tá Dương Văn Minh, sau đó được thăng lên đại tá, là người được Mỹ tin dùng, đưa ra hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm để ổn định xã hội miền Nam.

Tháng Ba, năm 1955, tướng Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn không thương lượng được với ông Diệm để cho Bình Xuyên kiểm soát các sòng bài ở Sài Gòn, nên đã ra lệnh tấn công vào các đồn cảnh sát ở Sài Gòn. Ðây cũng là ngày bắt đầu cuộc càn quét thẳng tay của quân đội quốc gia dưới sự chỉ huy của đại tá Dương Văn Minh. Ông Minh được sự hợp tác của các sĩ quan thâm niên trong binh chủng Nhảy Dù.
Thanh toán xong Bình Xuyên, ông tiếp tục cuộc hành quân xuống đến miền Tây Nam Bộ, băng qua các vùng sình lầy đến tận biên giới Cao Miên, truy lùng quân kháng chiến Hòa Hảo, là lực lượng mà cả Pháp lẫn cộng sản không thể nào đánh hạ được. Ông Minh và ông Nguyễn Ngọc Thơ đánh lừa và bắt được tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt của Hòa Hảo. Tướng Ba Cụt bị xử tử bằng máy chém, mà những người theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo không thể nào quên mối hận này. Tuy nhiên, ông Minh luôn tỏ ra là một quân nhân, ông không hề bận tâm.

Lập công xong, ông Minh chờ đợi được thăng thưởng nhưng không được như ý muốn. Ký giả người Pháp, Pierre Darcourt viết trong sách Vietnam, Qua'as-tu Fait De Tes Fils?: "Minh, qui est un tres bon combattant, mais vénal, pas très intelligent et surtout n'entendant rien à la politique... " (ông Minh là người đánh giặc giỏi nhưng dễ bị mua chuộc, không thông minh lắm và nhất là không biết gì nhiều về chính trị...). Pierre Darcourt kể lại lời nhận xét của ông Nhu nói với ông Diệm và cản không cho ông Diệm cất nhắc ông Minh ở chức vụ cao hơn.

Từ ấy cho đến năm 1959, vai trò ông Minh ngày càng lu mờ. Ông Minh được cử làm sĩ quan thanh tra các Quân Ðoàn I và II (miền Trung và Cao Nguyên), nhưng ông vẫn ngồi ở Sài Gòn vì cho rằng ông Ngô Ðình Cẩn (em ông Diệm) làm hết rồi.
Cuộc binh biến năm 11-11- 1960 các sĩ quan Nhảy Dù lãnh đạo cuộc đảo chánh có đến mời ông Minh nhưng ông Minh từ chối. Vụ này thất bại và những người chủ mưu đã chạy sang Cao Miên để lánh nạn. Năm 1961, ông nhận chức vụ Tư Lệnh Hành Quân, cũng chỉ là tượng trưng. Năm 1963, ông được chỉ định làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, cũng vẫn là chức vụ ngồi chơi rồi đi đánh tennis.

Pierre Darcourt, ký giả người Pháp, sinh ra ở Việt Nam, phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù của Pháp đánh giặc ở Việt Nam. Năm 1954, bắt đầu bước vào làng báo với tư cách phóng viên chiến trường, có mặt trên khắp vùng chiến thuật cho đến ngày chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị bứt tử. Ông ghi lại nhận xét của ông cố vấn Ngô Ðình Nhu về tướng Dương Văn Minh: "Il a la force d'un éléphant mais la cervelle d'un oiseau-mouche. " (Anh ta có sức như một con voi, nhưng có bộ óc con chim sâu).
Ông Minh chờ đợi được ngồi vào ghế thay thế tướng Lê Văn Tỵ là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội, nhưng tướng Trần Văn Ðôn lại được cử làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội khi đại tướng Lê Văn Tỵ xuất ngoại để chữa bệnh.

Ðược mệnh danh là anh hùng rừng Sác nhưng sao bảo là không đủ khả năng. Ông Dương Văn Minh coi đây là mối nhục. Ngay từ những năm của thập niên 50 và 60, các vị lãnh đạo trong quân đội cũng đã nói, ông Minh chưa bao giờ cầm quân đánh cộng sản mà chỉ đánh các giáo phái mà thôi. Ðiều này được nói rõ ràng hơn trong cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình Little Saigon TV ở miền Nam California, vào năm 2001. Tướng Khánh nói rằng:

"...Ông Dương Văn Minh là người miền Nam duy nhất ủng hộ ông Diệm xuyên qua ông Nguyễn Ngọc Thơ. Khi đưa ông Minh lên tới trung tướng mà không làm gì hết, không biết để ổng ở đâu. Ông Dương Văn Minh không có đánh cộng sản một ngày..."


Biến Cố 1-11-1963

Tài liệu của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), trong những phần đã giải mật có xác nhận chế độ Ngô Đình Diệm cản trở chương trình của Mỹ tại Đông Dương. Chính phủ Hoa Kỳ đã có ý định thiết lập một chế độ Cộng Hòa không có ông Diệm.

Mỗi năm, báo của VC vẫn lải nhải lên án Tướng Trần Thiện Khiêm nhận lệnh của Mỹ từ Washington, giết anh em ông Diệm rồi đổ cho tướng Dương Văn Minh. Báo Công An của VC số ra ngày 17 tháng Sáu, 2008, vẫn còn lải nhải, đăng bài nhiều kỳ, xào đi nấu lại, viết rằng: "Theo kế hoạch đã định, tướng Minh Lớn lên làm chủ tịch cái gọi là Hội đồng cách mạng. Dinh Gia Long, nơi anh em Diệm - Nhu đang trú ngụ, bị quân đảo chính bao vây. Rất nhiều viên tướng, kể cả tướng Minh Lớn và tướng Đôn, đã phải đôn đáo vào gặp tướng Khiêm tại đó. Có những nguồn tin cho rằng, cùng ở đó với tướng Khiêm là Trung tá CIA Conein...
...Nên tới 6h45', Ngô Đình Diệm đã gọi điện thoại đến cho tướng Khiêm và thông báo rằng, ông ta đang cùng Ngô Đình Nhu ẩn náu tại nhà thờ cha Tam thuộc khu vực Chợ Lớn và yêu cầu đem xe đến đưa về Bộ Tổng tham mưu gặp tướng Minh Lớn và tướng Đôn, mà ông ta cho là chủ mưu đảo chính để điều đình. Ngô Đình Diệm đã không ngờ rằng, chính Trần Thiện Khiêm theo lệnh từ Washington đã kín đáo ra lệnh cho thuộc hạ hạ sát anh em Diệm - Nhu trên đường.".

Vào tháng Mười Một, năm 2003, đánh dấu 40 năm cuộc đảo chánh 1-11-1963, tiến sĩ John Prados đã cho xuất bản tài liệu "JFK and the Diem Coup". Tài liệu này có đầy đủ các đoạn băng thu âm thanh cũng như các công điện ghi lại những diễn biến trong thời gian cuộc đảo chánh xảy ra. Tài liệu bao gồm các đoạn âm thanh của các buổi họp bí mật tại Tòa Bạch Ốc, giữa Tổng thống Kenedy và các nhân viên cố vấn Tổng thống; các cuộc điện đàm với Tổng thống Kenedy ngay sau khi cuộc đảo chánh kết thúc. Những tài liệu này đã được giải mã sau 40 năm, theo nguyên tắc của chính phủ Hoa Kỳ. Tiến sĩ Prados đã chứng minh chính phủ Hoa Kỳ có ý muốn tìm người thay thế ông Diệm, nhưng không bao giờ có ý định sát hại anh em ông Diệm.

Dưới mắt Hoa Kỳ, sau khi cộng sản Hà Nội cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ gặp khó khăn trên mặt trận du kích cũng như chính trị. Mỹ muốn tiếp tục viện trợ quân sự cho miền Nam với điều kiện phải đổ quân Mỹ và đồng minh vào miền Nam để can thiệp trực tiếp, với các vũ khí tối tân hơn.
Tháng Sáu năm 1963, tướng Trần Văn Đôn và Dương Văn Minh được tham dự cuộc biểu diễn các vũ khí mới của Mỹ tại Thái Lan, càng khiến hai ông cảm thấy quân đội Việt Nam lạc hậu cần phải cải thiện mới đương đầu được với cộng sản. Trong khi ấy, Tổng thống Ngô Đình Diệm nhất định chống đối ý kiến này với lý do nếu cho phép quân đội đồng minh đổ quân vào Việt Nam thì cả khối cộng sản sẽ mượn cớ để leo thang chiến tranh, và miền Nam mất chính nghĩa.

Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm được thiết lập, tại miền Nam sinh ra các phe cánh chống đối chính phủ. Trong đó có các giáo phái Cao Đài, Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo,... cũng như các chính đảng như Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lại thêm có xung đột giữa Phật Giáo và Công Giáo.
Đối với Hoa Kỳ, không có đối lập là không có dân chủ. Đó là khẩu hiệu để Hoa Kỳ và các thế lực chống đối chính phủ đòi hỏi Tổng thống Ngô Đình Diệm phải chấp nhận sinh hoạt đối lập tại chính trường miền Nam . Ông Diệm không tán thành đối lập theo kiểu Mỹ. Cho nên, chỉ còn một cách duy nhất là ông Diệm và chính phủ của ông phải ra đi.

Các tướng lãnh miền Nam và các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ gặp nhau ở một điểm là loại bỏ ông Diệm. Nhưng, một số tướng lãnh lợi dụng cơ hội để rửa mối thù riêng tư. Trong đó có tướng Dương Văn Minh.

Đoàn Xe An Ninh Hộ Tống Anh Em Ông Diệm

Ngày 1 tháng 11-1963 được định là ngày N của cuộc đảo chánh. Các tướng lãnh được triệu tập về Bộ Tổng Tham Mưu để họp. 1 giờ 30 trưa, tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tuyên bố đảo chánh và bắt đầu và hỏi từng sĩ quan có mặt.
Đại Tá Cao Văn Viên, Chỉ Huy Trưởng Lữ Đoàn Dù và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt từ chối không theo nhóm đảo chánh. Cả hai ông đều bị quân cảnh còng tay đem nhốt trong một căn phòng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng bị nhốt chung với hai vị đại tá này có Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, Chỉ Huy trưởng Thiết Giáp Binh và Đại Tá Trần Văn Trung, Tùy viên Quân sự ở Pháp từ Paris vừa mới về nuớc,...

Tối ngày 1 tháng 11, thành Cộng Hòa đầu hàng, quân đảo chánh khám phá hai anh em ông Diệm-Nhu không có mặt trong dinh. Các tướng lãnh bắt đầu lo lắng. Cũng tối hôm ấy Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và em trai của ông là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt bị đem ra nghĩa trang cạnh Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết. Chưa có tài liệu cho biết chính xác ai đã ra lệnh xử tử hai vị sĩ quan này. Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân cũng bị thủ tiêu mờ ám ở rừng cao su Thủ Đức.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 2 tháng 11, tùy viên của ông Diệm điện thoại từ nơi trú ẩn của hai ông, ở Chợ Lớn gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để điều đình nhưng không thành. 6 giờ sáng lại có một cú điện thoại khác, cũng từ Chợ Lớn gọi về cho biết hai ông đang ở nhà thờ Cha Tam và chấp nhận về Bộ Tổng Tham Mưu để cùng thảo luận với các tướng lãnh. Đây là cú điện thoại được xem là hai ông chấp nhận đầu hàng, yêu cầu đem xe đến đón.

Ðúng vào lúc này, đoàn xe thiết giáp do thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa chỉ huy đến Dinh Gia Long để đón hai anh em ông Diệm nhưng hai ông không có ở đó, và đã trở về đến sân cờ Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu tá Nghĩa được yêu cầu cho đoàn xe hướng về nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn để "bắt hai ông đem về đây", theo lệnh của tướng Dương Văn Minh. Trước đó, tướng Mai Hữu Xuân và Đại Tá Dương Ngọc Lắm cũng đã nhận lệnh từ Tướng Dương Văn Minh đi "đón hai ông" về Bộ Tổng Tham Mưu.

Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa, sau này là Đại tá, đơn vị sau cùng là Ủy Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên, hiện nay đã xuất gia, tu ở một chùa tại miền Nam California, Hoa Kỳ. Cuối tháng Tám, năm 2008, trong một dịp gặp gỡ, ông đã tuần tự kể lại diễn biến của chuyến "an ninh hộ tống" mà ông chịu trách nhiệm từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu.
Ông Nghĩa còn cho biết, chính ông đã bảo lãnh cho Trung tá Nguyễn Văn Thiện, thượng cấp của ông, và đề nghị để ông ngồi ở Bộ Chỉ Huy Lưu Động Thiết Giáp Binh, đặt ở lầu dưới Bộ Tổng Tham Mưu. Đại tá Cao Văn Viên (sau này là Đại tướng) về sau cũng cho biết, nhờ các sĩ quan bạn hữu của ông bảo lãnh nên ông không bị thanh toán bởi nhóm tướng lãnh đảo chánh.

Ðoàn xe gồm có xe Quân Cảnh đi đầu mở đường, rồi đến xe Jeep do thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa cầm lái và đại úy Phan Hòa Hiệp (sau này là Chuẩn Tướng) ngồi ghế bên phải. Băng ghế sau là tài xế và người lính truyền tin.
Xin mở dấu ngoặc ở đây để giải thích thêm về chiếc xe này. Ông Dương Hiếu Nghĩa thường cầm lái xe Jeep trong lúc sử dụng quân xa đi công tác, và bảo tài xế ra ngồi ở băng sau. Trên xe, hệ thống truyền tin đặc biệt có thể liên lạc với Bộ chỉ huy lưu động Thiết Giáp Binh và các thiết vận xa trong đoàn. Hệ thống này cũng liên lạc trên các tầng số của Bộ Binh vì trong đoàn xe có lính bộ binh tùng thiết, và với Bộ Tổng Tham Mưu. Trung tá Nguyễn Văn Thiện có mặt ở bộ chỉ huy lưu động Thiết Giáp Binh cũng được theo dõi chuyến di hành của trung đội Thiết Giáp an ninh hộ tống, do thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa điều động.

Theo sau xe Jeep của thiếu tá Nghĩa là hai chiếc xe Jeep của tướng Mai Hữu Xuân và đại tá Dương Ngọc Lắm. Sau đó là 4 chiếc thiết vận xa M-113, chiếc thứ ba được dùng để chở hai anh em ông Diệm. Kế tiếp là xe vận chuyển lính bộ binh tùng thiết và sau cùng là chiếc thiết vận xa M-113, có mặt trung đội trưởng.
Trước khi đoàn xe lên đường, đại úy Nguyễn Văn Nhung có đến gặp thiếu tá Nghĩa để xin tháp tùng theo đoàn xe, và đã lên thiết vận xa số 3. Đại úy Nhung là cận vệ của trung tướng Dương Văn Minh được lệnh đi theo đoàn xe vào Chợ Lớn với công tác đặc biệt.

Ðến trước nhà thờ Cha Tam, đại úy Phan Hòa Hiệp giúp thiếu tá Nghĩa điều động đoàn xe, quay đầu hướng về Bộ Tổng Tham Mưu và sắp đội hình theo thứ tự như lúc đến. Chiếc thiết giáp thứ 3 đậu sát lề phía trước cổng nhà thờ, cửa phía sau được hạ xuống để chuẩn bị cho Tổng thống và ông Cố Vấn vào trong xe.

Cổng lớn nhà thờ vẫn đóng, giáo dân lác đác đi lễ sớm, ngang qua cổng nhỏ. Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa tháo súng ngắn, đi qua cổng nhỏ bước vào sân nhà thờ để đón Tổng thống Diệm và ông Cố Vấn. Lúc này hai ông đã ra đứng ở thềm nhà thờ. Ông Nghĩa cho biết, đáng lẽ tướng Mai Hữu Xuân hoặc đại tá Dương Ngọc Lắm phải là người vào nhà thờ để đón Tổng thống và ông Cố Vấn, nhưng hai ông không vào nên thiếu tá Nghĩa bất đắc dĩ trở thành người đi đón Tổng thống.
Thiếu tá Nghĩa đến trước Tổng thống chào kính theo kiểu cách quân đội và mời hai ông ra xe. Hai anh em ông Diệm bước xuống thềm rồi tiếp đến là hai tùy viên và sau cùng là thiếu tá Nghĩa tuần tự hướng đến cổng, bước ra khỏi khuôn viên nhà thờ qua cổng nhỏ. Đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng với thiếu tướng Mai Hữu Xuân đã đứng ở cửa xe thiết giáp mở cửa chờ sẵn.
Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu hỏi xe nào để đưa Tổng thống và phản đối dùng xe thiết giáp để đưa hai ông về Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu tướng Mai Hữu Xuân lấy chiếc cặp da của Tổng thống Diệm từ tay tùy viên Đỗ Thọ rồi quay về xe riêng. Đại úy Nhung đã ép buộc Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu vào trong chiếc xe thiết giáp M-113, rồi cùng vào trong chiếc xe này. Cửa đóng và tất cả xe chuyển bánh theo vị trí đã định, hướng về Bộ Tổng Tham Mưu.
Lộ trình từ nhà thờ Cha Tam chạy đến đại lộ Cộng Hòa thì rẽ trái, đi qua ngã sáu rồi rẽ vào đại lộ Hồng Thập Tự. Đến cổng xe lửa số 6 thì đoàn công-voa phải ngừng lại vì cổng đã hạ xuống chặn lại để xe lửa chạy qua.
Trong lúc đoàn xe đang ngừng thì có tiếng súng nổ. Thiếu tá Nghĩa quay đầu xe Jeep lại, chạy dọc theo đoàn xe đi ngược về phía sau. Đến chiếc thiết giáp thứ ba thì thấy đại úy Nhung ngồi trên nóc xe, đưa ngón tay cái lên có ý nói mọi chuyện tốt đẹp.
Thiếu tá Nghĩa hỏi tiếng súng nổ ở đâu? Đại úy Nhung đưa tay chỉ vào trong xe nhưng không nói gì. Lúc ấy cũng đúng lúc đoàn xe lửa đã chạy qua, cổng được giở lên, nên thiếu tá Nghĩa quay xe trở lại để đoàn xe tiếp tục chạy về Bộ Tổng Tham Mưu.
Trung đội trưởng Thiết Giáp báo cáo với thiếu tá Nghĩa qua hệ thống truyền tin rằng, phụ tài xế thiết vận xa thứ ba có báo cáo tiếng súng nổ đó là do ông đại úy bộ binh bắn chết Tổng thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Thiếu tá Nghĩa và đại úy Hiệp đều nghe biết vụ này qua hệ thống truyền tin nhưng chưa báo cáo với Bộ Tổng Tham Mưu.

Về đến sân cờ của Bộ Tổng Tham Mưu, chiếc thiết vận xa số ba được canh gác cẩn thận không cho ai đến gần và không cho chụp hình.

Khi nghe đoàn xe về đến Bộ Tổng Tham Mưu, các tướng lãnh đi ra, đi đầu là Dương Văn Minh, gặp thiếu tướng Mai Hữu Xuân đưa tay chào và nói: "Mission accomplie!". Tướng Minh chưa nói gì thì tướng Khiêm phía sau hỏi chuyện gì xảy ra? Tướng Minh trả lời: "Hai ổng chết rồi". Trong vài câu đối thoại ngắn ngủn ấy, ai cũng chú ý đến câu nói của tướng Mai Hữu Xuân: "Mission accomplie!" (sứ mạng hoàn thành!). Tướng Mai Hữu Xuân nhận lệnh và đã thi hành hoàn đúng như yêu cầu của người ra lệnh, cho nên mới nói: sứ mạng hoàn thành.

Mấy tháng sau đó, tướng Nguyễn Khánh cùng với tướng Trần Thiện Khiêm thực hiện cuộc "chỉnh lý", bắt các tướng đảo chánh nhốt ở Đà Lạt. Trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình của Little Saigon hồi năm 2001, tướng Nguyễn Khánh kể lại:
"Lúc đó, chúng tôi họp trên Ðà Lạt 3 ngày 2 đêm, để xử mấy ông Tướng Ðà Lạt, thì xử ông Dương Văn Minh luôn, có lời khai tất cả. Ông Dương Văn Minh đã thú thật với Hội Ðồng chúng tôi, chính ổng đưa hai ngón tay thế này cho thằng sát thủ của ổng là thằng đại úy Nhung. Các tướng lãnh họp lúc đó đang bàn cãi về số phận hai ông về phải ở đâu, phải làm gì...
"Tại sao ông Minh Dương ra dấu cho thằng Nhung nó làm, nó thi hành cái mưu sát đó, mà nó thi hành một cách mọi rợ. Tui nói ra thì khó lắm... Tui nói ra thì thế giới nói dân tộc mình sống như thời ăn lông ở lỗ, mình không nói được... Nhưng mà vì sao ổng giết. Mà người ta vẫn biết ông Minh hiền từ, bon papa,... nhưng mặt trong của ông Dương Văn Minh ghê tởm lắm. Chú thi hành chuyện đó là đại úy Nhung.
"Trong cuộc Chỉnh Lý, sáng lại tui giao sinh mạng ông Nhung cho ông Cao Văn Viên, vì là Nhảy Dù mà. Tôi nói với anh Viên rõ ràng là anh phải giữ mạng sống của anh này, vì anh này biết nhiều chuyện làm của ông Dương Văn Minh, từ hồi Rừng Sác, lấy tiền làm sao, đưa cho ông Diệm ông Nhu bao nhiêu, giữ lại bao nhiêu, và chú này giết thằng Paul là thằng con của ông Bảy Viễn đó. Mấy ông Tàu ở Chợ Lớn đó, làm tiền này kia làm sao, làm sao,... thì thằng Nhung nó biết hết.
"Mình muốn thằng Nhung là một nhân chứng nó nói cái chuyện hiểu biết của nó. Nhưng mà sáng lại thì nghe nói là thằng Nhung dùng dây giày thắt cổ chết. Chuyện đó không phải như vậy. Ðó là một bí ẩn khác nữa... Tôi đã nói với người Mỹ biết chuyện đó rồi. Quyết định giết là ông Dương Văn Minh. Tại Sao? Vì cái thù riêng của ông Dương Văn Minh với gia đình họ Ngô.".

Trong biến cố 1-11, không chỉ Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị chết thảm và mờ ám, mà còn các vị Tư Lệnh Hải Quân, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Ngoài ra, Tư Tệnh Không Quân, Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh, Chỉ Huy Trưởng Lữ Đoàn Dù,... nhờ sự bảo trợ của bạn bè nên đã thoát chết thảm.


Trao Quyền Để Ông Minh Đầu Hàng

Ông Dương Văn Minh có người em ruột tên là Dương Thanh Nhật, sĩ quan cao cấp trong quân đội của cộng sản Hà Nội. Vì yếu tố này mà nhiều người tin rằng ông có thể thương thuyết với Hà Nội để tìm giải pháp hòa bình và tránh đổ máu, nên đã buộc ông Trần Văn Hương trao quyền Tổng thống cho tướng Dương Văn Minh.
Cuối cùng, ông Minh đầu hàng cộng sản vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Không có tắm máu ở miền Nam, nhưng số người chết vì cộng sản, sau khi cộng sản chiếm miền Nam thì vô số. Người ta bị cộng sản thủ tiêu, bị đầy đi rồi chết dần mòn ở vùng rừng thiêng nước độc gọi là kinh tế mới. Tất cả quân cán chính bị tù và bị đầy đi thật xa; rất ít người trở về. Những cuộc thủ tiêu kín đáo để đoạt tài sản. Nhiều người bỏ thây trên đường vượt biên, vượt biển. Nhiều người tiếp tục kháng cự đã hy sinh...

Một cuộc tắm máu trắng không ai có thể kiểm chứng được. Hình như ông Dương Văn Minh không hề lưu tâm.

Năm 2006 vừa qua, Hà Nội cho xuất bản cuốn tự điển tựa đề "Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam", ở trang 143, cộng sản Hà Nội ghi tên ông Dương Văn Minh vào đây. Cũng là câu trả lời vì sao Hà Nội không lăng nhục ông Dương Văn Minh như những vị lãnh đạo khác của miền Nam.

Sách Gọng Kìm Lịch Sử (bản tiếng Anh có tựa là In the Jaws of History) của Bùi Diễm viết rằng: "Sau ngày đảo chánh, tôi tới nhà anh Kim ăn cơm tối, yên trí rằng có nhiều chuyện để nói. Tiếng súng bên ngoài còn lác đác, nhưng hai anh em ông Diệm đã chết, không ai nghĩ là tình thế có thể đảo ngược trở lại.
"Câu chuyện của chúng tôi hướng ngay vào những vấn đề trước mắt, tất nhiên có sự thành lập chính phủ mới. Tôi hỏi tướng Kim là Hội Đồng Quân Nhân đã có chủ ý mời ai đứng ra làm Thủ Tướng? Tướng Kim trả lời tôi một cách ngắn gọn: "Ông Thơ!" (Vào lúc đảo chính, ông Nguyễn Ngọc Thơ vẫn còn là đương kim Phó Tổng Thống).
"Thật là một gáo nước giội lên đầu tôi, làm tôi bật ngửa người. Tôi hỏi rõ lại xem có nghe nhầm không? Rồi không giữ được bình tĩnh, tôi nói luôn: "Chúng ta đang có một cơ hội lịch sử và cần những bộ mặt mới, tại sao các anh lại có thể nghĩ đến ông Thơ được!".
"Tướng Kim trả lời ngay, đó là quyết định của tướng Minh
(tướng Dương Văn Minh, thường được các báo chí ngoại quốc gọi là Big Minh, là chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân) và thêm rằng: "Đối với tướng Minh thì đây là một vấn đề không cần bàn cãi" (câu nói bằng tiếng Pháp của tướng Kim, tôi nhớ rõ là: "Pour Big Minh, c'est un postulat!"). Tới đây thì tôi không còn nhịn được nữa, và bắt đầu to tiếng: "Các anh làm cách mạng để đưa bạn hữu lên cầm quyền thì cách mạng còn có ý nghĩa gì nữa!".

Ông Bùi Diễm còn viết nhiều nữa, tỏ ý coi thường những con người mang lon tướng mà làm những chuyện chẳng ra gì. Có lẽ vì vậy mà ông không gọi cái hội đồng ấy là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà chỉ là Hội Đồng Quân Nhân.

Một đoạn trong sách sử của Việt Nam vào đời nhà Trần, tưởng cũng nên nhắc lại để thấy gương vị lãnh đạo dũng liệt của người xưa, xứng đáng gọi là tướng, Vua Trần Nhân Tông nghe tin Hưng Đạo Vương bị thua trận, rút về Vạn Kiếp, liền ngự thuyền đến Hải Đông và vời Hưng Đạo Vương đến bàn việc. Vua bảo:
"Thế giặc to như thế mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm chịu hàng để cứu muôn dân". Hưng Đạo Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tôn miếu Xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng thì chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng". Vua nghe lời trung liệt, trong lòng mới yên. Vua quan đồng lòng đuổi giặc nên đã thắng lớn, đuổi giặc Mông Cổ ra khỏi bờ cõi.

Đời nay, chúng ta có tướng Dương Văn Minh được trao quyền Tổng thống và cuối cùng đầu hàng giặc Cộng, mặc cho Tông miếu Xã tắc tan nát, di hại đến bao nhiêu đời sau. Nhìn lại nước Việt Nam ngày nay, quả là Tông miếu Xã tắc tan hoang. Con nít bị gửi sang Cam Bốt để bán dâm, không biết đến xấu hổ là gì. Con gái chấp nhận lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn,... để kiếm tiền nuôi thân, để thoát ra khỏi nước. Nền giáo dục, đạo đức, luân lý không còn, thì còn gì là Tông miếu Xã tắc.

Từ cuộc đảo chánh 1-11, người ta nhân danh làm cách mạng nhưng không làm cách mạng. Đến ngày 1-11, người ta thường nói nhiều đến cái chết bi thảm của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng lại ít phân tích về một khúc quanh lịch sử, miền Nam nằm trong tay những con người bất xứng để dần dần rơi vào tay cộng sản.

Lê Văn Bảy
11-2008

Friday, October 30, 2009




Nền Đệ Nhất Cộng Hòa Sụp Đổ: Miền Nam Tự Do Sụp Đổ





Chí Sĩ Ngô Đình Diệm:

Tổng Thống Nước Việt Nam Cộng Hòa.

« Tứ Bất Tử » là lời của cổ nhân đã dạy, từ thuở xa xưa, tất cả nhân loại ở trên mặt địa cầu này ai
cũng đều đã biết
: con người sinh ra rồi ai cũng phải chết, mỗi cái chết đều khác nhau. Nhưng, cổ nhân đã khẳng định có bốn cái chết để rồi vẫn sống mãi mãi với thời gian, đó là « Tứ bất tử », và trong bốn cái chết ấy gồm những bậc có công nghiệp như sau:


1- Có sự nghiệp lớn;

2- Có đạo đức lớn.

3- Có công ơn lớn ở người đời.

4- Có văn chương truyền được lâu dài.




Vậy, hôm nay, nhân dịp tưởng niệm lần thứ 46, kể từ ngày 01-11-1963, ngày vị anh hùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam: Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã Vị Quốc Vong Thân cùng với nhị vị bào đệ là Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn. Và cứ như theo lời của cổ nhân đã dạy, thì chỉ cần một chữ « Có » thì đã trở thành Bất Tử rồi. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì đã chiếm được đến ba chữ « có ». Bởi, tất cả các vị anh hùng ở trên thế giới này, họ thường chỉ được từ một đến hai chữ có. Nhưng riêng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì theo tôi, chỉ trừ chữ có thứ bốn là « Có văn chương truyền được lâu dài » thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm chưa có tác phẩm văn chương nào để lại cho hậu thế, nhưng Người đã chiếm đến ba chữ « Có » trong « Tứ Bất Tử »:

1 – Sự nghiệp lớn: Đó là sự nghiệp đã khai sinh ra Thể Chế Cộng Hòa, tức đã khai sinh ra Nước Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời đã xây dựng được một Miền Nam Tự Do và phồn thịnh, mà không phải do được các cường quốc viện trợ tiền rừng bạc biển.

2- Có đạo đức lớn: Người đã nêu cao đạo đức về nhiều phương diện đối với người dân. Cả cuộc đời Người không màng đến cao lương mỹ vị, không chăn ấm nệm êm, Người đã quên mình để chỉ ưu tư cho Tổ Quốc và Dân Tộc.

Vậy chúng ta hãy nghe những lời của Thiếu Tá, sau là Đại Tá Nguyễn Duệ, tác giả cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày 1-11-1963, Ông là Tham Mưu Phó, Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, đã đề nghị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho xử dụng Thiết giáp và Bộ binh đánh thẳng vào Bộ Tham mưu, sào huyệt của phe « cách mạng », bắt sống toán đảo chính. Tổng Thống nghe nhưng không có ý kiến gì. Khi được tin Đính đã thực sự theo phe đảo chính, Tổng Thống Ngô Đình Diệm than với Đại úy Bằng, Sĩ quan Cận vệ, là « Cháy nhà mới ra mặt chuột ». Và « Khi lục soát tử thi, người ta tìm thấy trong tử thi của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nửa bao thuốc lá Bastos xanh và một chuỗi Tràng Hạt!!! »




« Lúc gần sáng Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã ra lệnh buông súng, vì không muốn binh sĩ đổ máu vì Ông, tôi thấy rã rời, thất vọng. Nhưng vẫn còn chút hy vọng mong manh, là Ông sẽ được đối xử tử tế bởi các tướng lãnh làm đảo chính, vì hầu hết những người này đều do Ông gắn sao cho họ. Chẳng bao lâu, được tin Ông chết. Nghĩ mà thương cho Ông, vì sợ anh em vì bảo vệ cho Ông mà đổ máu, sợ anh em giao tranh với nhau mất tiềm lực chống cộng, mà Ông bị làm nhục, phải chết trong tay những kẻ vũ phu, trong một xe thiết giáp ».

Trên đây, là những dòng của Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ đã viết trong cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nơi trang số 169, thì chắc hẳn mọi người đều đã thấy được: cho đến giờ phút cuối của cuộc đời, giữa lúc tử - sinh, mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn không muốn có một người chiến sĩ nào phải đổ máu để bảo vệ cho mình. Ôi! một tấm lòng cao cả: ngất ngưỡng như ngọn Hy Mã Lạp Sơn, và mênh mông như Ngũ Đại Dương góp lại.




Tôi cũng xin nói thêm là tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà tôi đã đưa lên trên của bài viết này là tấm hình của bìa cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, theo Đại tá, thì Ông viết cuốn sách này, mục đích là để tặng cho những người còn giữ được lòng trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chứ không có mục đích thương mại. Trước đây, lúc Ông còn khỏe Ông vẫn thường xuyên viết trên Văn Nghệ Tiền Phong, Ông đã ký tên: Nhật Lệ Nguyễn Hữu Duệ. Và Ông đã từ Hoa Kỳ gửi sang Pháp quốc, với những dòng chữ mà chính tay Ông đã viết tặng tôi vào ngày 24-11-2003. Phía sau bìa sách, Ông có chú thích tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là của Bác sĩ Giáp Phúc Đạt cho Ông được xử dụng. Hôm nay, tôi đưa tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên trên bài viết này cũng cùng như ý Nguyện của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ và của Bác sĩ Giáp Phúc Đạt, nghĩa là để cho các vị: những người còn giữ được nguyên vẹn một tấm lòng trung nghĩa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để các vị được thấy lại hình ảnh của Vị Anh Hùng của Dân Tộc. Vậy, tôi rất mong quý vị trên các diễn đàn chớ lấy tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho những mục đích khác. Đặc biệt, đối với những kẻ đã từng hạ bút viết những lời lẽ xúc phạm đến thanh danh của Tổng Thống, thì tuyệt đối không được lấy tấm hình của Tổng Thống, bởi những bàn tay đó, đã vô cùng bẩn thỉu khi dám viết lên những lời lẽ xuyên tạc, đầy ác ý, để bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và cả dòng họ Ngô Đình.


Và bây giờ tôi phải trở lại với chữ « Có » thứ 3 của « Tứ Bất Tử »:

Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có công ơn lớn với tất cả mọi người dân miền Nam: Kể từ sau ngày 20-7-1954: Đó là: Công Cuộc Xây Dựng Tự Do - Thanh Bình - Phồn Thịnh Tại Miền Nam.

Chúng ta là những người dân của miền Nam, có lẽ nào lại quên rằng: Vào những năm từ 1954, đến đầu thập niên 1960. Dưới ánh sáng mới của Chính Thể Cộng Hòa. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Là những người Việt Nam đã từng sống vào thời kỳ ấy. Tất cả đều đã thấy được một Miền Nam Thanh Bình-Tự Do-no ấm thực sự.
Ngày ấy, nếu những ai đã từng sống với những cảnh đêm về, dưới ánh trăng lành, trên khắp nẻo đường quê, bên những lũy tre làng rộn rã những bước chân của lớp người trai trẻ, với hình ảnh hiền hòa, chân phác. Họ đã đến với nhau trong những lần sinh hoạt của thanh niên, cùng nhau hòa lời ca với tiếng đàn Mandoline, với những bài hát ca ngợi quê hương dưới cảnh thanh bình. Bởi vậy, tôi vẫn nhớ dù không đầy đủ những bài ca, có bài tôi chỉ còn nhớ một đôi câu, hoặc một vài điệp khúc như sau:


“Đây phương Nam, đây ruộng Cà Mau no lành. Có tiếng hát êm đềm trong suốt đêm thanh. Quê hương anh lúa ngập khắp bờ ruộng xanh. Lúa về báo nhiều tin lành, từ khắp đồng quê cùng kinh thành …
Đây phương Nam, đây tình Cần Thơ êm đềm. Có lúa tốt quanh vùng nuôi sức dân thêm. Quê hương em bóng dừa ấp ủ dịu êm. Những chiều trăng rọi bên thềm, vọng tiếng khoan hò về êm đềm …
Ai vô Nam, ngơ ngẩn vì muôn câu hò. Những tiếng đó khơi lòng vui sống ấm no. Trăng phương Nam sáng tỏa khắp bờ Cửu Long. Nước chảy con thuyền xuôi giòng, vọng tiếng khoan hò làm ấm lòng… ».


Trên đây là những lời quê mà tôi muốn ghi lại, để các vị cao niên đã từng sống, từng chứng kiến những cảnh thanh bình nơi cố lý, của một thời đã mất, và sẽ không bao giờ còn tìm gặp lại, dù chỉ một lần nào nữa.!!!

Và đó, là « Có công ơn lớn ở người đời »; bởi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Người đã tận hiến cả cuộc đời từ thuở còn trai trẻ, cho đến giờ phút cuối cùng đã Vị Quốc Vong Thân.


Nhưng rồi những cảnh thanh bình ấy, đã bị bức tử khi cái gọi là « Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam » ra đời. Mà ác hại thay, những người công khai lãnh đạo cái mặt trận này lại là những « trí thức » đã được ăn cơm Quốc Gia nhưng lại thờ ma cộng sản, và những « nhà tu hành » của Phật giáo Ấn Quang. Những « nhà sư » đó sau ngày 30-4-1975, họ là « Hòa Thượng- Thượng tọa » đã được cộng sản Hà Nội trao gắn đầy những tấm Huân chương, Huy chương, là những bằng chứng về những hành vi và cũng là tội ác đã từng làm giặc, mà sư sãi Ấn Quang không có cách nào chạy chối cho được.


Chính những kẻ « tu hành » bất nhân, thất đức như Thích Đôn Hậu – Thích Trí Quang – Thích Đức Nhuận - Thích Huyền Quang – Thích Quảng Độ v…v… và những tên đâm thuê, giết mướn như: Dương Văn Minh – Nguyễn Khánh - Trần Thiện Khiêm - Đỗ Mậu - Nguyễn Chánh Thi – Trần văn Đôn - Dương Hiếu Nghĩa v…v… chúng đã nhúng tay vào máu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính những kẻ này, đã làm cho Miền Nam Tự Do phải sụp đổ, khiến cho hàng triệu Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa phải chịu cảnh đọa đày trong các « Trại tù cải tạo », với những cực hình dã man, tàn bạo nhất, có người đã chết ở bên bờ kẽm gai oan nghiệt của nhà tù. Và đã không biết bao nhiêu người đã chết nơi rừng thiêng, nước độc ở các « vùng kinh tế mới »; và đau thương nhất là những em bé gái đã chết dưới những bàn tay của những tên hải tặc, đã làm mồi cho cá, cho thú rừng, hay đã vùi thây trên ngàn dưới biển trên đường chạy trốn ngục tù cộng sản?!!!
Ngoài những thảm cảnh đó. Chính những kẻ này đã đẩy lớp trẻ vào bước đường cùng, thương luân, bại lý!!!

Riêng Đỗ Mậu, vốn là một tên gian manh, phản phúc, nên chẳng những đã nhúng tay vào máu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mà sau đó, hắn còn bắt giam rất nhiều vị, chỉ vì không ủng hộ đảo chính, trong đó có Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ. Song cũng chưa thỏa mãn, mà cho đến mãi sau này, khi đã chạy sang nước Mỹ, Đỗ Mậu cũng đã gian manh khi đã vẽ vời ra những câu chuyện láo khoét, rồi hắn đã nhờ đến mấy tên tay sai của Việt cộng, đã viết cho hắn cái cuốn: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi; mà nội dung, thì ngoài những lời kể của hắn, lại được mấy tên lưu manh này dàn dựng thêm vô số những chuyện trên trời, dưới đất, mục đích để bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cả dòng họ Ngô Đình, và tên khố xanh Đỗ mậu, hắn cũng đã về Việt Nam để công khai tái bản cuốn « Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi » và hắn đã chết sau những tháng ngày ngồi trên chiếc xe lăn tại « quê hương » của hắn. Nhưng có một điều là bọn này không biết rằng: Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, Chủ nhiệm Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong, một tờ báo sống thọ nhất, kể từ lúc mới ra đời từ năm 1956, ông đã tìm hiểu, và đã biết được những tên đã núp ở phía trong cái quần của tên lính khố xanh Đỗ Mậu, để hoàn thành cái cuốn sách rác rưởi đó. Do đó, mà ông Nguyễn Thanh Hoàng đã cho mấy tên này ra rìa khỏi tờ Văn Nghệ Tiền Phong.

Song nói đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mà không nói đến Ông Ngô Đình Luyện là một điều vô cùng thiếu sót; bởi ông Ngô Đình Luyện cũng là một người đã hết lòng phụng sự cho Quốc Gia và Dân Tộc. Song cả một đời của ông Ngô Đình Luyện cũng không hề được hưởng sự giàu sang phú quý, như những lời của những kẻ bất lương xuyên tạc. Vậy, một lần nữa, tôi xin trích một đoạn ngắn những lời kể của Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ trong thời gian gặp gỡ ông Ngô Đình Luyện tại Mỹ như sau:

« Trên máy bay, khi từ toilets ra, dây lưng bị đứt, khiến quần ông muốn tụt ra, vì ông mặc đồ cũ từ ngày xưa, nay ông ốm hơn nhiều. Tôi phải tháo dây lưng của tôi cho ông dùng. Tôi cảm thấy thương ông, vì ông nói rằng cả chục năm nay, ông chưa mua quần áo mới và thay dây lưng.

Ông nắm tay tôi và chảy nước mắt, làm tôi cảm động.

Khi về Pháp, ông viết cho tôi một lá thư khá dài để cám ơn, nhắc lại cái dây lưng, và nói sẽ giữ suốt đời để làm kỷ niệm ».

Ôi! Suốt cả cuộc đời của các Huynh–Đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã sống trong thanh khiết, chỉ biết đặt Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết.

Còn gì đáng kính phục, đáng thương hơn, đau lòng hơn, khi một vị Tổng Thống sau khi bị bọn đâm thuê, chém mướn giết chết, khi lục lọi cả tử thi của Người mà chỉ tìm được vỏn vẹn chỉ nữa gói thuốc Bastos xanh và một chuỗi Tràng Hạt còn vương đọng những giọt máu thiêng của vị Anh Hùng của Dân Tộc: Chí Sĩ Ngô Đình Diệm!!!

Ôi! Không có một ngôn từ nào của nhân loại để có thể diễn đạt cho vừa những trang sử đầy đau thương và đẫm máu này???!!!

Riêng tôi, khi viết lên những dòng này, tôi đã phải bao lần bị đứt quãng, vì không cầm được nước mắt, và mỗi lần như thế, những dòng nước mắt của tôi đã rơi xuống trên chiếc bàn phím này. Đây không phải là lần đầu tiên, mà mỗi lần nhìn tấm hình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là nước mắt của tôi lại cứ ứa ra, những giọt nước mắt của một con dân Việt đã khóc cho Người, khóc cho một Nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị sụp đổ, song không phải sụp đổ vào ngày 30-4-1975, mà nó thực sự bắt đầu sụp đổ vào ngày 1-11-1963. Nhưng có một điều mà trước đây, ít ai nghĩ đến, là ngày đó Tổng Tổng Ngô Đình Diệm đã bị giết chết. Nhưng, Vị Tổng Thống đã Hồi Sinh ngay sau đó, và đã trở thành Bậc Anh Hùng Bất Tử.

« Nhân-Quả »


Viết đến đây, tôi muốn nói đến những kẻ đã từng tham dự vào vũng máu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị bào đệ. Những kẻ đó, có người đã chết. Nhưng trước khi chết, họ đã sống trong những tháng ngày đau khổ từ thân xác đến tinh thần, bởi bị chính lương tâm của họ kết tội. Có kẻ hàng ngày đau đớn ngồi trên chiếc xe lăn. Cũng có người đã bị chính vợ và con của họ đày đọa. Có kẻ trước khi chết đã bị chính con trai ruột của mình đã đuổi ra khỏi nhà giữa đêm đông giá buốt của Trời Âu. Và đó, là cái « Quả » mà họ đã phải gặt từ cái « Nhân » mà họ đã từng gieo trước đó. Riêng những kẻ đã từng núp trong cái khố xanh của Đỗ Mậu hiện vẫn còn sống, nhưng tôi tin rồi sẽ có một ngày chúng cũng sẽ ngồi trên chiếc xe lăn trước khi gục chết như tên Đỗ Mậu.


Ngoài ra, một số tên vẫn còn sống trong những thứ hư danh, những kẻ đó, có lẽ nào trong suốt bao nhiêu năm qua, mà không một lần nữa đêm tỉnh giấc, vì hình ảnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cùng nhị vị bào đệ là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn, với thân xác nhuộm đầy máu. Hoặc hình ảnh của một vị Tổng Thống với ánh mắt nhân từ, đã từng thân ái cài lên ngực áo của họ những chiếc lon từ cấp Úy, Tá, Tướng, để từ đó họ bước lên đài danh vọng. Và để rồi sau đó, họ đã lấy oán trả ân, bằng dã tâm thua cả loài lang sói. Chúng đã giết chết chính người đã thi ân cho chúng, chúng đã mất cả lương tri, thua cả một con chó, vì loài chó dù cho có đói đến đâu, nó cũng đành chịu chết, chứ chúng không bao giờ ăn thịt của đồng loại (chó). Chúng cũng không bao giờ cắn chủ, kể cả người đã cho nó ăn, dù chỉ một lần
Đến đây, tôi muốn nói tới Tướng Nguyễn Khánh. Bởi ông ta cũng là một kẻ bất nhân, bất nghĩa, bất lương, Nguyễn Khánh đã vô cùng tàn ác, khi xuống tay giết chết một người vô tội là ông Ngô Đình Cẩn là bào đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nên biết, những người dân chân thực tại miền Trung, họ đều biết về ông Ngô Đình Cẩn là một người Đại Hiếu- Tận Trung và Nhân Từ, không như những kẻ đâm thuê, giết mướn với lòng dạ bạc ác, bất nhân đã cố tình tuyên truyền, xuyên tạc với những chuyện động Trời như: « Ông Cẩn giết các nhà sư rồi chôn dưới gốc cây cam, mỗi gốc cây cam trong vườn của ông Cẩn là một xác nhà sư ». Và cũng nên biết, trước khi ông Ngô Đình Cẩn bị xử bắn, thì một « Ủy Ban Điều Tra Tội Ác Gia Đình Nhà Ngô » đã được thành lập, và ủy ban này đã đến tận nơi, đã đào tận gốc rễ của từng gốc cây cam. Lúc ấy, mọi chuyện đều đã sáng tỏ, là không hề có một xác người hay vật gì dưới những gốc cây cam.

Sau đó, mặc dù « Ủy Ban Điều Tra Tội Ác Gia Đình Nhà Ngô » đã lập biên bản với nhiều chữ ký của các vị trong « Ủy Ban » này, và đem trình lên các cơ quan hữu trách. Nhưng tướng Nguyễn Khánh đã không thèm ngó tới, không cần đến sự thật, mà đã cương quyết phải giết chết ông Ngô Đình Cẩn cho bằng được. Nguyễn Khánh thật vô cùng tàn ác, khi xuống tay để giết chết ông Ngô Đình Cẩn trong lúc ông đang bệnh nặng, nằm liệt giường tại khám Chí Hòa, vì thương Mẹ già, vì đau xót về cái chết thảm của nhị vị bào huynh. Nguyễn Khánh nên nhớ, khi ông ta giết ông Ngô Đình Cẩn, là ông đã giết cùng lúc thêm hai mạng người nữa, vì ngay sau đó, Cụ Bà Thân Mẫu của ba vị đã vì quá đau đớn, nên cũng đã chết theo ba người con. Ôi! ai đã từng « Tre già khóc măng » thì mới thấu được nổi đau đớn của Mẫu Thân của Tổng Thống Ngô Đình Diệm!!!

Và cũng trong cuốn sách: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, ông đã viết về ông Ngô Đình Cẩn nơi trang số 118 - 119, như sau:

« Ông Khánh lãnh đạo Quốc Gia, mà hành động như một thằng hề, trái hẳn với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Khánh rất sợ báo chí, sinh viên, nhất là các thượng tọa, như sợ cha đẻ vậy. Tôi bất bình nhất là ngày ông « chỉnh lý » ông chê « ông Minh đã giết anh em ông Diệm một cách dã man » rồi ông kể lể làm như thương và phục Tổng Thống Ngô Đình Diệm lắm, để lấy lòng anh em chế độ cũ. Nhưng khi ra Huế gặp thượng tọa Trí Quang là sợ ngay, là ký giấy hành quyết ông Cẩn là người độc nhất còn ở Việt Nam. Vả lại ông Cẩn đang bệnh tật nặng ở khám Chí Hòa, và chả có tội gì rõ ràng để bị xử bắn.

Sau này anh Tuyên là em của Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, là cháu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm kể với tôi rằng: ông Khánh cho người liên lạc với gia đình đòi một số tiền để giữ mạng sống cho ông Cẩn, số tiền là tám mươi triệu. Nếu đủ sức thì cả dòng họ sẽ đóng góp để lo, nhưng nhiều quá thì chạy đâu ra. Anh Tuyên hiện đang ở Hoa Kỳ. tôi thấy « gian hùng như Tào Tháo » mà mọi người vẫn gán cho ông là quá đúng ».

Thực ra, ngoài chuyện Nguyễn Khánh đã đòi tiền chuộc mạng, ông Ngô Đình Cẩn cũng đã chết vì đặt lòng tin vào những tên thầy chùa của Phật giáo Ấn Quang như: Thích Trí Quang - Thích Đôn Hậu v …v… Nên biết, vào thời đó, ông Ngô Đình Cẩn đã nuôi các sư sãi Ấn Quang trong nhiều chùa tại miền Trung, đặc biệt là các chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Từ Hiếu v …v… tại Huế, chính ông Ngô Đình Cẩn đã từng lo hết sức chu đáo cho mấy chùa này từ gạo, tương v…v…và cung cấp cả tiền bạc, phương tiện di chuyển, Ông đã xem Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu là thượng khách. Nhưng rồi ông Ngô Đình Cẩn đã chết về tay của chính Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu. Và tướng Khánh đã giết ông Ngô Đình Cẩn, còn vì lời giao ước với Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu.

Nhưng Nguyễn Khánh còn một hành vi tàn ác nữa, là đã xử bắn ông Phan Quang Đông, là người chịu trách nhiệm lo cho những vị mà do ông Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn đã đưa họ trở về miền Bắc ngay khi họ vừa vào Nam, hoặc sau đó. Nên nhớ, khi giết chết ông Phan Quang Đông là Nguyễn Khánh đã chặt tay, chặt chân, cắt đứt con đường về của các chiến sĩ đã được đưa ra miền Bắc để sống trong lòng địch. Và bởi không có đường về, nên họ đã phải tự tìm cách để sống còn trong mỏi mòn chờ đợi, cho đến ngày 30-4-1975, thì họ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Vì thế, nên có người đã phải chết trong uất hận khôn nguôi!!!

Song rồi cuối cùng Nguyễn Khánh cũng đã biết, đã thấy rõ là Phật giáo Ấn Quang không bao giờ giữ lời giao ước với bất cứ một ai, kể cả tôn giáo, đảng phái hay người của một cường quốc.


Bởi, Ấn Quang chỉ lợi dụng tất cả những « chính khách » hoặc cá nhân cũng như đoàn thể, kể cả ngoại nhân. Đồng thời cũng lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt, để tóm thâu « Sơn Hà Xã Tắc » vào trong lòng bàn tay độc nhất, và chỉ riêng là của Ấn Quang mà thôi.

Với cuồng vọng ấy, Ấn Quang đã, đang và sẽ không từ bất cứ một thủ đoạn nào, kể cả giết hại người thân yêu, cốt nhục. Vì Phật giáo Ấn Quang đã học tập, đã thấm nhuần và đã quyết tâm lấy « Cứu cánh để biện minh cho phương tiện ».


Nhưng, như lời Đức Phật đã dạy về luật « Nhân-Quả ». Vì thế, tất cả những kẻ đã gieo những « Nhân » nào, thì tất nhiên phải có một ngày sẽ phải gặt lấy cái kết « Quả » ấy.

Riêng về việc “Vinh Danh”, Tổ chức Lễ giỗ, tạc tượng, lập đền thờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì bất cứ ai muốn núp dưới ánh hào quang của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì muốn nói, muốn viết và muốn làm gì cũng được, vì chẳng có ai cấm. Nhưng, tất cả phải nên nhớ cho rằng: Những lời nói, những bài viết mà những kẻ đó đã viết ra bằng giấy trắng mực đen, tất cả vẫn còn lưu giữ trên sách, báo, trên mạng lưới toàn cầu, chúng sẽ không bao giờ bôi xóa cho hết được. Đừng có mơ rằng sẽ lừa bịp được thiên hạ.

Và nhân đây, tôi muốn nói với những kẻ ấy rằng: Tại sao ông Ngô Đình Quỳnh, thứ nam của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, năm nay đã gần sáu mươi tuổi, mà vẫn sống độc thân, không lấy vợ, ông có học vị Tiến Sĩ Kinh Tế, đang làm đại diện cho nhiều công ty của nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, ông không không thiếu tiền bạc, song ông không bỏ tiền ra để xây mộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, mà tất cả tiền lương của ông, ông chỉ dành chút đỉnh để sống, còn tất cả Ông đã đem dâng hiến cho các cơ sở từ thiện???

Nên biết, ba ngôi mộ của ba vị tại Lái thiêu, Việt Nam, chỉ khắc mỗi ngôi mộ với chữ “Huynh” và “Đệ”, là không phải do các con, các cháu của ba vị, hay của các vị trong dòng họ Ngô Đình đã bỏ công, bỏ của ra để xây ba ngôi mộ đó.

Ôi! ba ngôi mộ không khắc ghi tên tuổi, chỉ vỏn vẹn có chữ “Huynh”và “Đệ”, song hiện nay, tại Việt Nam, cứ mỗi ngày sự linh thiêng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm càng vang vọng, và mỗi ngày càng tăng thêm con số của những người dân từ khắp nơi đã đổ về Lái Thiêu, để tìm đến ba ngôi mộ, để cầu xin những điều mà chính con người và khoa học không thể làm nổi, nhưng chỉ cần đến thắp một nén hương cắm lên ba ngôi mộ, với những lời cầu xin chân thành, thì Anh Hồn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm sẽ cho họ được toại nguyện.

Mọi người cũng cần phải biết rằng: Việc tạc tượng hay lập đền thờ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải là chuyện của một tổ chức hay của một nhóm người. Mà việc đó phải do một chính phủ, một chính phủ phải do mọi người dân bầu ra, rồi chính phủ ấy bắt buộc phải trả lại công đạo cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị Bào đệ là ông cố vấn Ngô Đình Nhu và Ông Ngô Đình Cẩn, và sẽ được quyết định bởi Quốc Hội của một Thể Chế.

Và sau khi đã được sự đồng thuận, Quốc Hội sẽ công bố một định luật, thì ngay trên đất nước Việt Nam sẽ có những Đại Lộ Ngô Đình Diệm – Đại Lộ Ngô Đình Nhu – Đại lộ Ngô Đình Cẩn, đồng thời sẽ có những Đền Thờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng nhị vị Bào đệ, và một trang sử mới cũng sẽ được khắc ghi thêm tên tuổi của ba vị anh hùng đã cương quyết để bảo vệ Tổng Thống, mà chính bọn Hội Đồng Gian Nhân Phản Loạn đã biết chắc chắn, là phải bước qua xác chết của cả ba người thì mới giết được vị Tổng Thống. Chính vì thế, mà bọn chúng đã giết cả ba vị, đó là: Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung cùng người em ruột là Thiếu Tá Lê Quang Triệu. Và rồi những Bảo Tàng Thư và những con đường sẽ được mang tên của nhiều vị Anh Hùng của Dân Tộc đã Vị Quốc Vong Thân.

Những kẻ bán buôn chính trị hãy nhớ cho thật kỹ những điều đó.


Tạm thay lời kết:

Như Nhân loại đã từng chứng kiến, kể từ thời Sáng Thế, từ Đông sang Tây. Lịch sử đã chứng minh, hể cái gì nó đã trở thành chân lý, thì con người có dùng mọi thủ đoạn gian manh đến đâu, cũng không bao giờ thay đổi chân lý đó cho được.

Bởi vậy, mà cho dù bao nhiêu năm qua, đã có rất nhiều kẻ manh tâm đã từng dùng những ngụy bút, ngụy sách, ngụy báo, để cố tình bịa đặt, xuyên tạc, để bôi nhọ, mục đích là để hạ thấp uy danh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để mong làm tróc thủy* phần nào của một tấm gương, nhưng dù cho đến ngày tận thế, thì bọn chúng cũng đừng hòng được toại ý, vì tấm gương ấy quá toàn bích.

Chính vì thế, mà tôi đoan chắc rằng: Không phải riêng đối với những tên gian manh kia, mà cả trên quả địa cầu này, cũng không một ai có thể làm nổi chuyện đó, bởi lịch sử vốn công bằng, bởi Tổng Thống Ngô Đình Diệm Người đã có Công Nghiệp Vĩ Đại là đã khai sinh ra nước Việt Nam Cộng Hòa. Đã một thời xây dựng được một Miền Nam Tự Do Thanh Bình thực sự. Và với Tài-Đức, Liêm-Khiết, Nhân-Từ: Người đã tận hiến cả đời mình cho Quốc Gia và Dân Tộc, với chân lý đó, thì:

Đời Đời hình ảnh của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm: Bậc Anh Hùng đã Vị quốc Vong Thân vấn mãi mãi uy-nghi, ngời sáng và Bất-Tử trong tâm trí của tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền.
====================================================
===============================================================

Thursday, October 29, 2009

Tôi viếng mộ Cố Tổng Thống Ngô đình Diệm
VietCatholic News (29 Oct 2009 20:07)
Đọc trên X Café VN bài “Một nén hương cho Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm”. Tôi biết được mộ Ông TT hiện đang nằm trong Nghĩa Trang Lái Thiêu, thuộc Tỉnh Bình Dương.

Ngay ngày Giỗ 45 năm của Ông tôi đã lên kế hoạch phải đến thắp nhang cho Ông trong ngày Giỗ, nhưng rồi tôi không thực hiện được, mãi đến tối hôm qua nghe ông xã nói:
- Mai rảnh không ? Đi Lái Thiêu …

Tôi gật đầu ngay, ông xã biết chắc là không nói ra, nhưng tôi nôn nao có ngày này lắm, ngày anh ấy rãnh rỗi để chở tôi đi viếng mộ Ông TT.

Mười ngày chờ đợi để thực hiện tâm nguyện, sáng nay 12-11-2008, vợ chồng tôi đi honda đến viếng Mộ TT.

Cũng chỉ là địa chỉ Nghĩa Trang Lái Thiêu, Hóa An, Bình Dương, không rỏ ràng lắm, khi người đi đường lại nói Lái Thiêu có nhiều nghĩa trang. Chúng tôi cứ đi đại đến nghĩa trang lớn nhất của Lái Thiêu.

Từ Sài Gòn đi Quốc lộ 13 đến ngã tư Cầu Ông Bố chúng tôi rẽ phải, vào khoảng gần 3km cũng bên tay phải, có một cổng nghĩa trang rất lớn, chúng tôi rẽ vào, có một quán cóc trong nghĩa trang, nhưng chúng tôi không dừng lại, vì thấy bên trong có số người thợ đang xây mộ, bèn ghé hỏi thăm:
- Anh ơi! Anh làm ơn cho biết mộ của Ông Diệm nằm ở đâu anh ?
- Anh chị theo con đường này sẽ thấy cái quán, hỏi quán ấy họ chỉ cho, có người dẫn đến tận nơi luôn.

Mừng thầm trong bụng “hỏi thăm dể quá”, chúng tôi đến quán người ta vừa chỉ. Ông xã ra dấu cho tôi im lặng, anh đến hàng nhang lựa gói nhang lớn nhất, mua thêm cái hộp quẹt, trong khi chờ cô bán hàng thối tiền anh hỏi:
- Cô cho tôi hỏi thăm, mộ Ông Diệm nằm chổ nào cô có biết, chỉ giùm chúng tôi.

Cô gái trả lời ngay.
- Biết, con dẫn cô chú đi, cô chú có bà con gì không ?
- Không, chúng tôi muốn thăm và thắp nhang cho Ông ấy thôi.
- Cách đây vài ba ngày, có người báo cho chúng con là sẽ có người nước ngoài về thăm mộ Ông ấy, chúng con chờ hoài mà chưa thấy ai.

Thế rồi cô ấy nhanh nhẩu lấy honda đi trước, đưa chúng tôi ra lại đường chính, đi thêm hơn 100m cô dừng lại nơi những ngôi mộ nằm sát bên đường, dựng xe trên thềm đường, cô dẫn vào qua 2 dảy mộ (khoảng 6,7m), cô chỉ “đây là mộ ông Cẩn, mộ Ông Diệm ở bên kia”. Cùng một dãy, cách nhau khoảng hơn 10m, chúng tôi dừng lại Mộ Ông TT bên phải, mộ bà Cố nằm chính giữa, bên trái là mộ ông Nhu.

Còn đang bồi hồi xúc động thì thấy 5,6 người bao quanh chúng tôi. Nhìn họ, tôi nhớ lại những lần đi thăm mộ của ông bà Nội chồng chôn ở nghĩa trang Gò Dưa…

Chúng tôi đốt nhang, vái lạy bà Cố, Ông TT, ông Nhu, tôi dành một ít thắp cho ông Cẩn và bà Xơ tên Isave Trương thị Ba là nữ tu của Dòng Vinh Sơn mà ở đó người ta nói: “Những năm trước chỉ có bà Xơ này đến thắp nhang cho những ngôi Mộ này thôi, giờ bà Xơ ấy đã mất rồi, được chôn ở gần đây”.

Thấy họ vẫn ngồi tại đó như chờ chúng tôi điều gì, tôi nói:
- Đây là mộ của Ông TT ngày xưa của mình, tôi đọc báo thấy họ nói ở đây, nên tìm đến thăm Mộ Ông

Họ nói:
- Chúng tôi ở đây luôn chăm sóc cho phần Mộ của gia đình Ông, cô có tiền đưa chúng tôi để chúng tôi lo cho mộ phần họ.
- Chúng tôi chỉ là người biết tin rồi đi thăm thôi, chúng tôi không là người nhà. Tôi cũng chẳng có tiền, gửi các anh tiền uống cà phê cho vui nhe.

Họ cầm 100 ngàn như không vừa ý, bảo tôi đưa thêm 100 nữa. Họ kể là họ đã chà rửa sạch sẽ những ngôi mộ này như thế nào, có người đặt họ ghi rỏ tên Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trên bia mộ, nhưng họ bị công an Bình Dương gọi lên, bắt xóa hết, chỉ ghi chữ Huynh, chữ Đệ thôi …mộ Ông TT lại bị sứt bể họ phải tô sửa lại …

Tôi lắc đầu, mĩm cười: “Tôi không có tiền, thế nào cũng có người nước ngoài họ về, họ sẽ gởi lại tiền cho các anh”.

Hai chúng tôi đọc kinh, cầu nguyện. Xin Ông TT thương phù hộ, giúp Đất Nước Việt Nam sớm thoát cảnh lầm than, khổ cực …

Tôi thì thầm với Ông TT nhiều điều, thấy họ từ từ bỏ đi hết 4,5 người gì đó. Số còn lại họ than thở:
- Tụi tui mới dọn dẹp chứ tụi nó có làm gì? cô đưa tiền cho tụi nó cũng như không. Chính tui lau chùi, dọn sạch cỏ hai hôm nay, cô mà lên trước ba ngày cũng không thấy đường đi đâu, cỏ bao phủ hết. Giờ cô cho tụi tui tiền đi, chính tui đắp lại chổ bể ấy, rồi sơn lại chữ mới rõ ràng đó chứ phải tụi nó đâu! Công an kêu tui lên chứ phải nó lên đâu, tụi nó nói dốc không hà.

Nhìn người đang ông đang ngồi càm ràm bên cạnh, tôi hiểu ra câu chuyện. Việt Nam mình bây giờ là thế, làm ở đâu cũng có ban bệ, vào trong nghĩa trang cũng thế, có trên, có dưới, có cũ, có mới.

Như trong nhà chồng tôi, anh em đều là công nhân, thầu xây dựng, nhưng không làm sao xây được mộ phần Ông Bà Nội của mình, phải giao toàn bộ cho những người quản lý ở nghĩa trang làm. Nếu mình không làm theo quy định (trong im lặng) đó, thì ngày hôm nay mình xây, sáng mai sẽ thấy thành bình địa tất cả, ngoan cố thêm một hai ngày nữa, cũng trở về con số không (0) thế thôi. Trước khi chúng tôi chưa giao mộ phần cho ông chủ lớn ở đó trông coi, thì mỗi lần đến mộ đều có người hầu chuyện, kể công lao chăm sóc hằng ngày …cho đến khi chúng tôi chi tiền trà nước mới để yên. Từ ngày trả công mỗi năm 300.000$ cho 2 ngôi mộ Ông Bà, chúng tôi không còn bị kèo nài mỗi khi lên thăm mộ nữa.

Phía bên mộ Ông Cẩn, chồng tôi cũng đang lắng nghe những người dọn dẹp, và cô bé dẫn đường phàn nàn,(có anh thanh niên bị câm) họ không dám nói gì khi có mặt nhóm người trước, có lẽ họ được những người kia thuê làm, nhìn chung thì họ cũng chịu khó chăm sóc mộ của Tổng Thống mình, những ngôi mộ mà ít khi có thân nhân lui tới, tiếc rằng mình không khá giả chứ tý quà cho họ cũng là phải đạo.

Gởi cho họ và cô bé dẫn dường thêm 100 ngàn nữa chúng tôi cám ơn và mọi người vui vẻ chia tay ra về.

Tôi quay lại, cúi chào Ông TT, “Từ nay con sẽ thường quay lại thăm Ông”.

Kể lại cho mọi người biết. Nếu muốn viếng mộ TT, thì đến ngã tư cầu Ông Bố quẹo phải vào khoảng 3km thấy cổng nghĩa trang đầu tiên (đừng vào cổng), đi quá khoảng gần 300m nữa sẽ thấy quán cóc bên đường, cạnh nghĩa trang. Dừng xe, có đường mòn, đi qua vài nấm mộ là thấy mộ TT ngay, nếu đi honda dắt vào lối này gần mộ TT, dể trông chừng xe hơn.

Nhìn Mộ một Vị Tổng Thống tài ba, nổi tiếng, khắp thế giới mọi người đều ngưỡng mộ Tài, Đức của ông, mà nằm đơn sơ như thế, tên tuổi cũng không được phép ghi chép rỏ ràng, tôi không sao cầm được nước mắt. Lòng tự hỏi biết đến ngày nào, người dân Việt nghĩ lại công lao của Ông, mà đặt mộ phần Ông vào một nơi xứng đáng hơn, gần gủi hơn, để mọi người yêu mến Ông được thường xuyên thăm viếng Mộ phần Ông ???

Sài Gòn 12-11-2008
Kim Hoa
Một bài báo về những truyện động trời xẩy ra tại khu dân cư người Việt Nam ở phố nghèo Warsaw Ba Lan

VietCatholic News (28 Oct 2009 14:46)

Chủ Nhật vừa qua 25.10.2009 chương trình Đài truyền hình nước Đức có truyền phát một phóng sự về cộng động người Việt tại Ba Lan. Đây là một trong hai Đài truyền hình (quốc gia) có thể nói là nghiêm túc. Phóng sự nói về sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Ba Lan, hầu hết là di dân từ Miền Bắc. Cách sống và cách xử sự với nhau thật kinh khủng. Những bí mật mà các nhà báo Ba lan thuật lại thật khó mà tin rằng chúng đã xẩy ra như vậy... những chuyện động trời! Bài báo cũng tố cáo nhân viên Tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam tại Ba Lan có nhúng tay vào những tệ đoan và hành vi tội phạm được nêu ra.. .. Vì đồng tiền và lợi nhuận mà mất hết trái tim. Đây là bài tóm lượt về phóng sự. LCH đã chuyển dịch qua tiếng Việt để chúng ta cùng đọc và suy nghĩ:

Sắc thái Việt trong lòng Warsaw - Ba Lan

Chúng tôi đang đứng tại Praga, một khu phố nghèo của Warsaw và nhìn lên những căn nhà chọc trời qua màng sương tháng Mười. Nơi đây, với vô số cần cẩu xây dựng, trong vòng vài tuần nữa sẽ mọc lên một sân đá banh cho giải bóng đá Âu châu sắp đến. Ngay cạnh bên, theo ngôn ngữ dân gian là khu Tiểu Việt Nam . Một khu chợ lớn bán đủ mọi thứ với giá rẻ. Thật thế, tất cả mọi thứ.

Dân Việt Nam là cộng đồng ngoại quốc đông đảo duy nhất. Họ kéo đến từng bầy. Ba Lan là đất hứa, bởi số đông là đồng bào Việt Nam đã từng sát cánh cùng với Phong trào Công đoàn Đoàn kết chống cộng. Đến hôm nay họ vẫn còn ấp ủ thực hiện được giấc mơ ấy trên xứ sở Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam của họ. Không ai biết được con số chính xác, nhưng có ít nhất 30.000 dân tị nạn người Việt trên Ba Lan, phần lớn bất hợp pháp. Chúng tôi biết đuợc cặn kẽ hơn từ một thành viên tranh đấu cho nhân quyền người Ba Lan thuộc hiệp hội "Tiếng nói tự do", hiện đang công tác giúp đỡ số cư dân này.

Robert Krzyszto thuộc hiệp hội "Tiếng nói tự do" kể rằng:

"Đấy là một cái bẫy: Cuộc hành trình đến Ba Lan được băng nhóm Mafia Việt Nam tổ chức. Dân tị nạn được đưa đến Moscow , chặng này không khó... Ở đây họ bị gom thu giấy tờ với chiêu bài, phải đi đóng thị thực nhập nội Ba Lan vào thông hành. Và tiếp theo họ được cho biết là có rắc rối, phải trả thêm 10.000 đến 15.000 $US Dollars. Một số tiền họ không thể có được, Thông hành bị giữ - họ đành phải chịu nợ để được đi tiếp đến Ba Lan. Một số nợ quá lớn và để trả nổi họ phải làm suốt đời. Dẫu họ có trúng số độc đắc đi chăng nữa, đám Mafia đòi nợ vẫn sẽ hàng tháng đến nhà gõ cửa.

Thật rất khó khăn mới thâu được những hình ảnh khu chợ Việt Nam vào ống kính. Ai ai cũng e ngại chúng tôi, phần đông thấy may quay phim ai nấy đều bỏ chạy. Nhiều người sống ở đây đã nhiều năm vẫn không nói được một chữ Ba Lan. Chúng tôi làm quen với Ngan. Người phụ nữ 45 tuổi này hành nghề với một bếp ăn lưu động. Một ngày mới của cô ta bắt đầu từ 1 giờ đêm.

"Cách đây 9 năm tôi phải chạy trốn, vì sợ trả thù. Tôi không muốn kể nhiều hơn. Chồng và con còn ở lại Việt Nam . Tôi nhớ chồng con lắm nhưng phải làm việc bù đầu 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần, tôi không còn thì giờ nghĩ đến nữa. Tôi kiếm không được nhiều, nhưng nếu tiết kiệm tôi có thể dư tiền để gọi điện mỗi tuần một lần về nhà. Giờ thì tôi phải đi bán hàng ..."

Chúng tôi tháp tùng theo Ngan, nhưng chỉ vài phút sau phải bỏ ngang không quay tiếp. Bởi Ngan không bán được gì cả khi có mặt chúng tôi bên cạnh. Cô ta giận dỗi mắng: "Thôi cút đi, chỉ làm cản trở chuyện bán buôn". Sau đó chúng tôi mới nắm hiểu vì sao dân tị nạn ở đây lo sợ và Tòa Đại sứ Việt Nam tại Warsaw khoác một vai trò tai tiếng bất hảo như thế nào. Chiều đến chúng tôi hẹn gặp tại ven ranh thành phố với một cảnh sát tình báo trách nhiệm điều tra trong khu vực cộng đồng người Việt..

"Họ sợ bọn Mafia. Đám doanh thương giầu có đem rất nhiều tiền từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua hãng xưởng và đầu tư tại Ba Lan. Bọn họ có đường dây rất chặt chẽ với chính quyền Hà Nội và với Tòa Đại sứ Việt Nam tại Warsaw . Một băng nhóm tội phạm có tổ chức, một hệ thống Mafia"

Và với Mafia thì không đùa được. Đám tị nạn bất hợp pháp phải nộp tiền cho chủ, và tụi ấy có phương pháp riêng của chúng.

"Đám Việt Nam không bao giờ có văn bản hợp đồng. Lời nói là đủ. Khi một kẻ nào đó không trả tiền, sẽ bị bắt cóc và tra trấn cho đến khi phải xì tiền ra". Một nhà báo Ba Lan đã mất hàng năm trường điều tra quyết phá vỡ bức tường im lặng này. Báo chí Ba Lan vừa rồi đã in bài tường thuật về những sự việc xảy ra trong chợ Việt Nam .

Ton Leszek Szymowski, một nhà báo viết:

"Mỗi một con buôn trong chợ đều phải nộp thuế, đấy là nguyên tắc. Không cần biết anh buôn gì, giầy dép hoặc áo quần hoặc có một cửa hàng ăn uống, đều phải nộp thuế. Từ 100 đến 150 $ Dollars một tháng. Nếu không bọn hắn sẽ đốt cửa hàng anh. Chịu chi anh sẽ được bảo đảm an ninh, đối với mọi băng đảng".

Trong bếp một tiệm ăn, một dân tị nạn phi pháp rút hết can đảm kể cho chúng tôi nghe một cuộc vượt trốn liều lĩnh. Cuộc hành trình của Nguyen từ Việt Nam đến Warsaw kéo dài hàng tháng trường.

"Thoạt tiên tôi muốn đi qua đường Moscow . Nhưng họ đề nghị tôi nên vượt rừng qua Trung hoa. Tôi tin nghe theo, sau đó phải ngồi mãi trên tàu lửa và rồi nằm trong một thùng carton trên một chiếc xe tải. Xe chạy đến Kiew/ Ukraine . Họ đưa chúng tôi đến biên giới Ba Lan - và khi không người canh giữ, xe vượt biên giới và chở chúng tôi đến chợ Việt Nam, tại đấy họ tống tôi ra khỏi xe và thả tôi chơ vơ giữa đường".

Trả lời câu chúng tôi hỏi, người Việt sinh sống ở đâu. Anh ta trả lời đơn giản: "Chỉ cần một người mướn được đâu đó trong những chung cư cao ốc một căn hộ, sẽ kéo thêm mười người nữa vào. Mười một người sinh sống trên 12 thước vuông".

"Tôi không hiện hữu, tôi ở ngoài vòng pháp luật. Công an chìm Việt Nam vẫn con theo dõi tôi đến tận Ba Lan. Họ vẫn hăm dọa khủng bố tôi. Vài ba ngày một lần họ ghé qua đây, hăm tôi không được hoạt động chống đối chính quyền. Và để dằn mặt họ quần tôi mỗi tháng một lần".

Một số ít dân tị nạn đến theo đường bay từ Moscow , với giấy tờ giả. Một ngày có hai chuyến Aeroflot đáp xuống Warsaw . Những giấy thông hành quá giá trị đến mức dân tị nạn Việt Nam luôn luôn bất tử. Tại những nghĩa trang Ba Lan không hề có một nấm mồ của người Việt. Và điều này kiến Cảnh sát Ba Lan bức tai vò đầu bao năm nay.

Dariusz Loranty, Cảnh sát Warsaw cho biết:

Dân Việt Nam sống mãi (nói không ai tin), nhưng thực tế chưa hề có đám ma chay hay tang lễ nào cà!. Trước đây vài năm, chúng tôi, Cảnh sát Warsaw , thật tình có phỏng đoán, đám người này họ ấy ăn thịt đồng loại chăng? (theo như tường thuật thì chưa có ai chết được chôn bao giờ). Ai rồi cũng phải chết và phải được an táng. Một hôm chúng tôi kiếm được một xác chết bị quẳng đâu đấy vào trong rừng ở ven ranh Warsaw , đám Mafia thủ tiêu xác chết và sử dụng tiếp giấy tờ. Rồi lại thêm một kẻ tị nạn nữa sẽ đến từ Việt Nam , mang tên họ của người đã chết mà không ai kiểm soát được. Và với chúng tôi thì người Việt nào cũng giống nhau, không phân biệt được.

Năm vừa qua chỉ có 800 người nộp đơn xin tị nạn chính trị tại Ba Lan, tất cả đều bị từ chối. Người Việt sống và bị đối xử phi nhân cách và một cách dã man. Nhưng vào thời điểm cuối cuộc tường trình chúng tôi nghe được một tin đồn kinh khủng.

Robert Krzyszto, hiệp hội "Tiếng nói tự do" kể rằng:

Có một sự việc liên quan đến dân Việt ở đây, không có chứng cớ, nhưng có thật. Tôi muốn nói về việc buôn bán bộ phận thân thể con người. Bọn Mafia đem người qua Ba Lan và sử dụng họ như một kho lạnh biết đi. Những người trẻ và khỏe mạnh. Họ được phép đi lại một mình nhưng bị kiểm soát rất chặt chẽ. Những người này rồi sẽ bị giết và lấy đi những bộ phận thân thể... Mọi dấu tích sẽ được cẩn thận xóa sạch. Những con người đó sẽ biến mất, chỉ còn lại tin đồn. Chúng tôi không biết đã có bao nhiêu, nhưng nguồn tin này tuyệt đối khá tin cậy.

Đối với số 30.000 người Việt cư ngụ bất hợp pháp tại Ba Lan vùng đất hứa của họ phần lớn thật ra là một địa ngục trần gian. Bọn Mafia Việt Nam hành xử nhóm người này tùy thích. Ngay giữa lòng châu Âu.

(Nguồn: Weltspiegel am Sonntag ngày 25.10.2009, Tường thuật: Ulrich Adrian, LCH chuyển Việt ngữ)

LCH chuyễn ngữ

Tro ve dau trang

===================================================

================================================================






Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================