Nguyễn Tiến Hưng
TÂM TƯ TỔNG THỐNG THIỆU
Tải đăng nhân ngày Giỗ Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu
Chương 18 thoát chết lúc ra đi
Nguồn:
http://www.take2tango.com/~/n3ws/tong-thong-nguyen-van-thieu-va-nhung-cuoc-muu-sat-8338.aspx
*********************************************************************************
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu / Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG
Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi vào tới Sài
Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng thống và
Thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường
lệ khi được lệnh về SàiGòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị Tư lệnh Quân đoàn và Tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần nầy thì chỉ có một mình tôi Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưngkhi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ôngta là phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cayđắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi và Ðà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thuỷ Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất dịch di là: Phải rút khỏi Quân đoàn I càng sớm càng hay. Trở ra Quân đoàn I, tôi cho triệu tập tất cả các Tư Lệnh Sư đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các Sĩ quan trong
buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏ sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi ra lịnh thẳng khi chỉ với một mình
tôi là Tư lệnh Quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó chẳng mang
lại một kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu
tôi rút khỏi Quân đoàn I vào ngày 13 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút
hết về Phú Yên. lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên. Cái lẩm cẩm của trung ương là không cho các thuộc
cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các Tư lệnh các quân binh chủng, Tổng
Bộ trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, v.v… đã không biết gì về lệnh rút
quân của Quân đoàn I và II cả. Lệnh nầy chỉ có Tổng thống và Thủ tướng,
Ðại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân đoàn I) và Tư lệnh Quân đoàn II
(Tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối họp chặt chẽ
giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh
đột ngột không có đủ thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho
binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức
thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên
ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum bị
chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Ðà Nẵng ngày một đông
gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Ðà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng. Tôi ra lệnh cho Tướng Trần Văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng đường biển thì sẽ khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ nầy sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và chạy cùng theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hằng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi
ở Vùng I. Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi
Ðai tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng thống cho tôi được dùng mọi cách
để giữ Huế và Vùng I. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng I được? Làm sao tôi bỏ
được vùng đất sỏi đá nầy mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để
gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân. Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp Tướng Lâm Quang Thi (Tư
lệnh phó Quân đoàn) chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Ðà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Ðại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh Tổng thống yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Thật làm tôi chết lặng người. Vì mới
buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho Tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột
nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với Tướng Thi và anh em
binh sĩ. Nhưngvẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi
điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả
lời ngay: “Ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng
tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời:
“Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế giùm tôi. Ðó là lệnh trên, không bỏ
là không được”. Kết quả là Tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân
đến cửa Thuận An để đượctàu Hải quân rút về Ðà Nẵng.
Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng
đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển
từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công,
mà lại thêm cái lệnh phải rút càng sớm càng tốt, lan truyền rỉ rả cho
nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin Thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả vị Tư lệnh Sư đoàn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Bộ tham mưu, và các Trưởng
phòng sở của hành chánh để Thủ tướng nói chuyện.
Trước khi Thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng
tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự
thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi nầy để Thủ tướng biết
rõ tình hình và giải quyết cấpthời, chứ đừng có giữ thái độ “trình thưa
dạ bẩm” trong lúc nầy nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau
khi Thủ tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng có ai
nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói cho Thủ
tướng biết những sự thật về tình hình hiện nay. Duy chỉ có một mình
Ðại tá Kỳ , tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: “Thưa Thủ
tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý rời bỏ nhiệm
sở không đến làm việc, thưa Thủ tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng
phạt những người đó? Câu hỏi thật hay, nhưng Thủ tướng không trả lời và
lảng sang chuyện khác. Vì Thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã
muốn giải tán Quân đoàn I và Quân khu I càng sớm càng tốt. Ðúng
ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thuỷ
Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Ðà
Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ404 đưa về Sài
Gòn. Trên tàu cũng có một Lữ đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy
ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Ðà
Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm
Ðà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh
ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Ðà Nẵng)
được? Sau đó tôi được lệnh cho Hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết
Thuỷ Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một mình tôi về Sài Gòn. Tôi
không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi. Tôi
nhờ Hạm trưởng gọi về Bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thuỷ Quân Lục
Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. Còn nếu không thì
tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thuỷ Quân Lục Chiến và cùng
nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về SàiGòn.
Về đến Sài Gòn tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư lệnh Hành quân lưu động ở Bộ
Tổng tham mưu. Khi vào đây, tôi gặp Phó Ðề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh
Hải quân Vùng I Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư
đoàn 1 Không quân) đang ngồi viết bản tự khai, và Trung tướng Thi thì
bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ
lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị
phạt thì quả thật bất công. Tướng Thi thực sự là người chống lại việc bỏ
Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là Tổng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì
Tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: “Xã ấp tốt quá mà bỏ làm sao?”
Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng nầy bị
phạt quá oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông Tướng phè
phỡn tại Sài Gòn. Hôm sau, trong buổi họp tại Bộ Tổng tham mưu, tôi
có nói rằng: “Việc phạt Tướng Thi và hai Tướng Thoại và Khánh là không
đúng. Họ chỉ là thuộc cấp của tôi. Họ chỉ làm theo chỉ thị của
tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả. Nếu có phạt thì xin hãy phạt tôi đây
này.” Phòng họp lặng ngắt. Ðại tướng Viên nhìn qua Trung tướng Trần Văn
Ðôn. Tướng Ðôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức Tổng trưởng Quốc
phòng. Có thể vì vậy mà Tướng Ðôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã
trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên Tướng Ðôn làm đề nghị phạt
Tướng Thi vì đã bỏ Huế mà rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự
thật với Tướng Ðôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, Tướng Lê Nguyên Khang, với
giọng giận giữ đã buột miệng nói: “Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả!”.
Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của Tướng Thoại và Tướng
Khánh. Là vị Tư lệnh trong tay có đến hang ngàn lính, hàng trăm chiến
hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, Tướng Thoại đã bị
bỏ quên không ai chở đi khỏi Bộ Tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ
qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của hải quân
mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỹ luật, thấy Ðề đốc Thoại ở đó,
họ ghé vào chở Tướng Thoại đi chứ nếu không lại cũng chẳng biết sau này
sẽ ra sao. Còn Tướng Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.
NGÔ QUANG TRƯỞNG
--- On Fri, 10/9/09, Bat Tac
From: Bat Tac
---------- Forwarded message ----------From: Tan Loc Le Date: 2009/10/8Subject: Fw: Tong-Thong Thieu da thoat chet nhu the nao.!?To:
VẬN ĐỘNG CHỐNG ĐÓNG CỬA DI TÍCH TRẠI TỊ NẠN GALANG - XIN HÃY CÙNG NHAU KÝ VÀO THỈNH NGUYỆN THƯ
http://vietnetlinks.com/blogs/blog1.php/2009/10/06/va-7852-n-a-272-a-7896-ng-cha-7888-ng-a-
==============================================================
No comments:
Post a Comment