VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Sunday, January 31, 2010

Tự hào dân tộc?

Trần Văn Giang
tka23 post


1. Tự hào dân tộc?

Lời mở đầu:

Đây là nhận định và ý kiến cá nhân của người viết mà thôi. Đúng hay sai còn tùy hòan cảnh, kinh nghiệm và sự thẩm định của mỗi đọc gỉa.

TVG.




Cụ Trần Trọng Kim, một nhà giáo lỗi lạc, một học giả danh tiếng và cũng là vị Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam, đã viết trong bộ sử “Việt Nam Sử Lược” (1925) về tính tình, tư cách của người Việt Nam (nguyên văn – trang 7 tiểu mục “Người Việt Nam”) như sau:

“Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, làm năm Đạo Thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà khi đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng Nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.”

Những lời nhận định về người Việt này đã cũ trên 80 năm mà chưa thấy ai lên tiếng phê phán Cụ là “không chính xác,” “sai lầm,” “thiếu công minh,” “thiên vị” hay “sỉ nhục dân tộc!” Nhiều người còn cho là Cụ có nhiệt tâm muốn thành thật vạch ra những cái tốt và cái xấu của người mình để hậu sinh học hỏi, sửa đổi; hầu xây dựng một tương lai trong sáng và tiến bộ cho đất nuớc.

Đất nước vừa trải qua những biến cố nghiêm trọng, lòng người hoang mang, ngờ vực, suy tư… Người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngọai đã có rất nhiều băn khoăn nan giải về vấn đề “mình phải tự nghĩ về mình thế nào?” hoặc “mình nên trả lời thế nào về dân tộc mình trong trường hợp có người ngọai quốc hỏi?” Trong bài nhận định này, tôi xin phép theo bước chân của cụ Trần Trọng Kim để đóng góp một vài ý kiến cá nhân có thể còn rất phiến diện. Rất mong được quí vị đọc gỉa chỉ giáo thêm.

Trong thời buổi này, người Việt, chẳng cần phải tự hào mà cũng chẳng cần phải tự ti. Khi được hỏi mình cứ trả lời cho đúng, đầy đủ, vừa phải, không dư thừa … là được rồi. Chối bỏ nguồn gốc của mình, hay vênh vang ngạo mạn đều hồ đồ cả - Cứ nói sự thật. Việt Nam cũng như mọi dân tộc khác, cũng có cái hay cái đẹp, cũng có cái xấu xa. Tự hào, hay tự ti, là ở ngay chính con người mình. Nếu mình thật sự giỏi thì chẳng cần biết mình là dân tộc nào, thiên hạ đều phục.

Người Việt chẳng có gì mà phải tự ti. Thế giới còn có nhiều nước tệ hại, kinh sợ hơn Việt Nam nhiều: cướp bóc giữa ban ngày, đĩ điếm đứng đầy đường, dân đen bị bóc lột hành hạ tàn nhẫn hơn, chính phủ độc tài cai trị sắt máu hơn, xã hội bị phân hoá khủng khiếp hơn, tham nhũng ở nhiều nước còn tàn chi hơn… (tôi không tiện liệt kê tên các quốc gia này vì vấn đề tế nhị!) Tóm lại, chẳng có lý do gì phải tự ti mặc cảm.

Người Việt Nam cũng chẳng có gì quá đáng để tự hào. Tự hào thế nào được khi quốc gia bị bêu riếu mọi nơi là lạc hậu. Tự hào thế nào được khi quốc tế liệt kê Việt Nam trong danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo tận mạng, tham nhũng như ranh, dân trí đội sổ, dân chủ có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời… Chắc chắn sẽ có người sẽ giận dữ lên tiếng nhắc nhở tôi về lịch sử vẻ vang của Việt Nam, cái tài quân sự của người Việt, đánh thắng đế quốc Mông cổ; và mới đây đánh thắng luôn một lúc 3 đế quốc. Trong vấn để chiến thắng trong lịch sử này, tôi xin dẫn một câu chuyện điển hình về đại sứ VC tại Thái Lan mới đây để quí vi suy gẫm. Đại sứ VC đã trình bày một cách tự hào về Việt nam với Quốc Vượng Thái Lan là:



”Nước Việt Nam chúng tôi rất tự hào vì đã đánh thắng 3 đế quốc.”

Quốc Vương Thái Lan điềm đạm trả lời đại sứ VC là:

“Nước Thái lan chúng tôi cũng rất tự hào vì không phải đánh nhau với một đế quốc nào cả!” (nên biết Thái Lan cũng không phải đánh nhau với quân Mông cổ!)

Lịch sử Việt nam hiện nay đã được viết dài dòng về công cuộc đấu tranh chống Pháp dành độc lập cho 25 (?) triệu dân Việt. Kết quả đưa đến việc thực dân Pháp đầu hàng sau trận Điện Biên Phủ 1954. Đồng thời, lịch sử thế giới cũng ghi lại là Thánh Gandhi của Ấn độ, dành lại độc lập cho 600 triệu dân Ấn độ mà không phải đổ một giọt máu nào. Ngay như thiên tài quân sự Tổn Tử (trong “Binh pháp Tôn Tử,” trang 4, Thiên thứ 3 “Mưu Công”) đã định nghĩa thế nào là “Quân sự giỏi” như sau (nguyên văn):

“Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn... Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.

Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì… Cho nên người giỏi dụng binh, thắng được địch quân mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất định phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn dành được thắng lợi hoàn toàn.”

Như vậy, “thắng mà không phải đổ một giọt máu nào!” mới gọi là giỏi. Chứ còn phải nướng vài triệu nhân mạng để giải phóng vài chục triệu nhân mạng thì không biết phải nói hay ở chỗ nào?… Cũng nên biết thêm, thực dân Pháp mặc dù không bị thua trận ở Algeria, nhưng thực dân Pháp đã phải tự động trả độc lập cho Algeria (hoàn cảnh quốc gia này bị Pháp đô hộ giống y hệt như hòan cảnh của Việt Nam) vì chính sách thực dân đã bị xem là lỗi thời, bị quốc tế phỉ báng…

Hiển nhiên, nhiều người ngoại quốc đã có sẵn những thành kiến về người Á châu nói chung (và người Việt Nam nói riêng) là hay ăn cắp vặt, lười biếng, ở bẩn thiếu vệ sinh… thì mình cũng giải thích với họ là dân tộc nào cũng có kẻ thế này người thế khác; Hoặc gặp kẻ tán tụng dân tộc mình (phần lớn vì vấn đề thông lệ giao tế, không biết họ có thành thật hay không?) như là: “À! Anh thuộc về dân tộc vẻ vang nhất của thời đại…” Thì cũng từ tốn cố giải thích với họ là bây giờ là thế kỷ 21 rồi, những chuyện đánh nhau không cần thiết đó đã xưa rồi, bỏ qua đi tám, lập lại cũng chẳng có ích lợi gì. Những “vẻ vang” đó không thể tự nhiên mang lại no ấm, hạnh phúc hơn cho dân tộc…

Hãy nghe một nữ sinh viên Việt Nam du học (bây giờ còn được gọi là du sinh) ở Singapore (Tân Gia Ba) đã tâm sự như sau:

“Em chả dám bàn về chính chị chính em gì hết. Bởi vì bố mẹ bảo em là con gái không nên xen vào chuyện làng chuyện nước!

Năm 2001, cả giòng họ nhà em chắt mót lắm mới đủ tiền cho em đi Singapore du học tự túc. Thời gian mới qua em rất bất ngờ vì người dân bên đó hòa đồng và mến khách còn hơn cả cái kiểu tiếp khách của các bác trong các chương trình du lịch bên mình nhiều lắm. Em có một cô bạn gái người Singapore bên đấy. Hôm nọ, cô ấy rủ em đến nhà mấy người bạn Singapore chơi. Cô ấy lại dặn em là ‘khi người ta hỏi thì đừng bảo là người Việt Nam nhá!’ Em ức lắm và vì tự ái dân tộc nữa nên đến lúc mấy người kia hỏi em cứ nghênh mặt lên và trả lời ngay: ‘I am Vietnamese.’ Úi giời ơi! Sau câu trả lời ấy thái độ của cả nhóm thay đổi ngay. Cả buổi chẳng có ma nào hỏi han gì đến em câu nào nữa. Khi về cô bạn kia mới giải thích cho biết phụ nữ Singapore rất có ác cảm với phụ nữ Việt Nam bởi vì 80% phụ nữ Việt Nam qua Singapore đều làm… hết. Họ không muốn thân với em vì sợ em sẽ cướp chồng họ.

Đấy! Các bác cho em lời khuyên là có nên nghênh mặt bảo mình là người Việt Nam nữa không???”



Chúng ta nên buồn năm phút!! Hay nên tự hào năm phút?!

Nghiêm chỉnh mà nói cho nhau nghe, hay để dạy dỗ con cái thôi… là Việt Nam có nhiều cái rất đẹp và đáng tự hào. Bởi vì một cô gái xấu xí đến đâu, nếu nhìn kỹ vẫn tìm thấy một vài nét đặc biệt. Chẳng hạn cái thông minh cũng có thể làm mờ các khuyết điểm khác đi. Đất nước không thể vì một nền kinh tế chậm tiến, lạc hậu, nghèo đói, bị đè đầu cưỡi cổ triền miên mà người dân phải cho rằng mình đành chịu đựng một sự nhục nhã. Lịch sử Việt Nam dài hơn 4000 năm thì 60 hay 100 năm đâu có nghĩa lý gì. Nếu phải so sánh với các nước khác trên thế giới thì vấn đề lạc hậu, xuống dốc như thế này phải làm các ông lãnh đạo cảm thấy xấu họ mới đúng. Người dân đen không có gì phải xấu hổ cả. Kể cả cô em gái du học ở Singapore!

Ở hòan cảnh nào cũng vậy. Không ai muốn vạch áo cho người xem lưng. Nhưng phải nói cho nhau nghe là ở Việt Nam hiện nay, lãnh đạo không hề để ý gì đến văn hóa Việt Nam; cho nên nền văn hóa cứ thế mà tụt dốc phi mã. Các lãnh tụ “siêu việt,” “kiệt xuất” hoang tưởng chỉ có một cách, một phương thức một bài duy nhất dùng để phô trương, tự hào về Việt Nam là “chiến thắng vinh quang;” ngòai ra không có một thực chất hay một khả năng nào có thể dùng để xây dựng, phát triển dân giầu nước mạnh được. Nhật Bản sau 30 năm bại trận, từ đống tro tàn, không tài nguyên… trở thành một siêu cường của thế giới. Việt Nam sau 30 năm chiến thắng vinh quang, với tài nguyên dồi dào… vẫn không làm nổi một cái đinh ốc cho ra hồn. Hoang tưởng là ở chỗ đó.

Ở ngọai quốc, khi nói đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến các vấn đề “nghèo,” “cộng sản,” “vòng lẩn quẩn cộng sản - nghèo…” tòan những cái “negative values;” chứ chẳng thấy “vinh quang” ở đâu cả? … Không hiểu dân tộc Việt Nam mắc nợ gì với CS mà CS cứ đeo dính dân tộc mình hoài vậy? (nên biết trên thế giới có trên 193 quốc gia – kể cả Vatican City - nhưng chỉ còn vỏn vẹn có 4 dân tộc “anh hùng” vẫn còn mắc nợ CS thôi!?)

Mỗi người có quan điểm chiến lược khác nhau; Có mức độ kỳ vọng khác nhau. Nhưng tôi nhìn nhận là người Việt có một số ưu điểm như sau:

1- Chịu được gian khổ (bị đô hộ trên 1000 năm vẫn sống; ăn “bobo,” khoai sắn độn dài dài vẫn sống; bị tù đày dài dài vẫn sống; nhịn đói 10 - 20 ngày trên biển vẫn sống, …)

2- Tương đối dễ hòa và hội nhập với nền văn hóa dị biệt của nước người

3- Tương đối chăm chỉ so với một số dân tộc khác

4- Tương đối thông minh (không ngu quá!)

Chỉ có cái điểm “chịu đựng” là coi bộ nổi bật. Ba điểm còn lại cũng còn lờ mờ, khó nói, không rõ cho lắm! Nhưng mà dân tộc nào chả thế! Không chịu đựng được thì đã họ tự sát hết từ lâu rồi còn gì. Mà đâu có thấy dân tộc nào tự tử ào ào một lúc chỉ vì khổ quá đâu?

Nói về “văn hoá lưu vong” dường như chỉ có Do thái và Việt Nam có. Nhưng so sánh Do thái và Việt nam có vẻ không công bằng. Dân Do thái bỏ đất đai ra đi vì bị các áp lực tôn giáo (Hồi giáo) và chủng tộc (Ả rập) ở Địa trung hải quá mạnh. Nếu ở lại họ sẽ bị tiêu diệt, bị xóa sổ. Dân Việt Nam bỏ đất nước ra đi bởi vì chính trị của người chính người Việt Nam chứ không phải vì áp lực của lân bang (hãy xem lại lịch sử thấy là dù Tầu có đánh mạnh đến đâu đi nữa, thì người Việt vẫn bám lấy đất và chiến đấu đến cùng!) Cái giống nhau là dân Do thái và dân Việt sống rải rác ở nhiều quốc gia Âu châu vẫn nhất là ở Hoa kỳ. Bây giờ hãy nhìn dân Do thái và dân Việt lưu vòng trên đất Mỹ. Chúng ta tìm thấy rất nhiều chuyện để học từ dân Do thái.



Người Do thái ở Mỹ không phải là những người “…bài bác nhạo chế nhau… thường thì nhút nhát… hay khiếp sợ… tâm địa nông nổi hay làm liều… không kiên nhẫn… hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài… hiếu danh vọng… thích chơi bời, mê cờ bạc… Kiêu ngạo và hay nói khoác… (nguyên văn lời của cụ Trần Trọng Kim đã viết ở phần trên!)” như dân Việt lưu vong. Ngược lại, dân Do thái (lưu vong) gián tiếp chỉ huy mọi chính sách của Mỹ: người Do thái gần như hoàn toàn kiểm soát nhiều lãnh vực quan trọng nhất trong sinh hoạt kinh tế (nhà băng, thị trường chứng khóan..) và khoa học (giáo sư đại học, khoa học khảo cứu gia, bác học…) và quan trọng nhất là hoàn toàn kiểm soát “media” (truyền thông, báo chí, kỹ nghệ phim ảnh, truyền hình...) ở Hoa Kỳ, Chỉ riêng với vấn để truyền thông (“media”) này, người Do thái đã dùng nó để hướng dư luận và quan điểm của dân Mỹ và đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách lãnh đạo đối nội cũng như đối ngoại của Hoa kỳ theo các chiều hướng có lợi cho quốc gia Do thái. Vì vậy, Do thái chỉ có khoảng 3 triệu dân vẫn đánh thắng một cách rất dễ dàng các liên minh quân sự của Ả Rập có đến trên 100 triệu! Người Do thái lưu vong không cần phải lên tiếng tự hào về dòng giống Do thái của họ. Các dân tộc khác sống trên đất Mỹ phải tự nhiên nể và sợ họ là đằng khác!

Dân Việt lưu vong không có cái gì phải xấu hổ về sự lưu vong của mình. Có xấu hổ hay không là những các nỗ lực khoe khang hoang tưởng, phỉ báng lẫn nhau, ném bùn vào mặt nhau, đâm sau lưng nhau ở hải ngoại. Dân Việt Nam lưu vong mình nên cố gắng nhìn bài học lưu vong của dân Do thái để xây dựng một niềm tự hào, một sức mạnh lưu vong riêng cho chính mình.

Lúc nào cũng ra rả chiến thắng này, chiến thắng nọ; nhưng nhìn lại xem ai? phe nào? là những người thực sự chịu đau khổ. Thực tế cho thấy “kẻ thua” thì ngoài một số ít chết (tỉ lệ số chết quá nhỏ so với dân và quân Việt bị chết!) chẳng thương tổn gì gọi là quá đáng cả. Họ vẫn là cường quốc, vẫn mạnh giỏi. Còn nước Việt Nam dân số đứng thứ 13 trên thế giới, với diện tích thuộc hàng trung vẫn bị coi là “nhược tiểu” (hãy xem nước Đức với diện tích và dân số như Việt Nam mà không bao giờ bị xem là nhược tiểu!) mà lại có về hài lòng! Tự sướng tự rên! Tự hào! Không biết lấy ở đâu ra? Tại sao chúng ta không làm cho mình thật mạnh để không nước nào dám xâm lấn, dám xâm lăng, dám cai trị chúng ta? Chúng ta tự hào thông minh, nhưng đó chỉ là cái thông minh vặt. Chúng ta dùng những “thành tích” nổi bật của một số nhỏ người Việt ở nước ngoài để cho rằng Việt Nam giỏi, nhưng đó chỉ là cái “tâm lý nhược tiểu.” Chúng ta phải dùng những cái “không phải của mình” để “tự khen;” đem những lời khen “ngọai giao” của người ngoại quốc để “tự thỏa mãn” cái tâm lý nhược tiểu của mình. Những người được đào tạo tài giỏi ở nước ngoài là nhờ “tài của nước ngoài” chứ không phải cái “tài của nước mình,” chưa đáng được dùng để gọi là “tự hào dân tộc.” Phải chờ đến lúc có du sinh ngọai quốc nài nỉ, nộp đơn xin được đến “du học” ở Việt Nam để học cái tài của nước Việt mình thì mới tính đến chuyện “tự hào” cũng chưa muộn!

Nếu chúng ta không suy gẫm kỹ lưỡng và đánh giá cho đúng con người mình, không dám nhìn thẳng vào sự yếu kém chung của mình, mà chỉ nhìn vào một vài “thành tích nổi bật lẻ tẻ” rồi tự hào, từ mãn thì đến muôn năm nữa vẫn không thoát ra khỏi cái thân phận nhược tiểu. Như vậy có một vấn để quan trọng thấy rõ không chối cãi được là vấn đề “lãnh đạo” (kể cả lọai lãnh đạo “sắt máu” như Hitler của Đức quốc xã!). Lãnh đạo sáng suốt sẽ đưa đất nước vượt lên các yếu kém lạc hậu, các chèn ép của quốc tế. Thật là buồn, nếu chưa muốn nói là một sự sỉ nhục phải là công dân dưới chế độ CS, đã và đang phải chấp nhận những kẻ không ra gì lãnh đạo mình. Đó là cái lãnh đạo thiếu đạo đức, lãnh đạo đang hủy họai đạo đức, đang hủy họai truyền thống tốt lành của xã hội Việt Nam; lãnh đạo dốt nát, độc ác, lãnh đạo lừa dối hành hạ dân lành… Ở Việt Nam bây giờ sự dối trả là căn bản cho mọi sinh hoạt của xã hội. Dối trá từ việc học hành, thi cử, việc làm, sản xuất cho đến thái độ cư xử với những người chung quanh… với một đất nước như vậy thì chỉ còn có các bác thật “anh hùng” và thật “kiệt xuất” mới dám có “can đảm” cảm thấy tự hào vì nó.

Cái óai oăm ở đây là hình như là người dân Việt Nam ở trong nước chưa cảm thấy có nhu cầu cần thiết để thay đổi chế độ và đòi hỏi thêm quyền chính trị. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, người Việt Nam mình giỏi “chịu đựng” mà! Ừ thì chịu đựng nghèo, chịu đựng đói khổ đã đành; nay thậm chí còn giỏi chịu đựng cả sự sỉ nhục! Chưa có nhu cầu thay đổi, thì đào đâu ra động lực thay đổi. Không có động lực thì cũng kể như cứ việc thong thả nằm yên theo kiểu “con rùa lật ngửa” cho nó được việc! Cho qua ngày qua tháng! Muốn đi đến chỗ “có động lực” thì phải có một bộ máy giáo dục, thông tin hữu hiệu để giải thích cho mọi người hiểu tại sao cần phải có sự thay đổi (Nên biết “Lãnh đạo cũng giống như tã lót. Nó cần phải được thay thường xuyên – vì chung một lý do!) và thay đổi sẽ đem lại cho họ và con cháu họ những ích lợi gì. Nói tóm lại, đây là một chuyện to tát phải làm. Rất tiếc công việc này còn to tát hơn vì CS đã biến một khối 83 triệu người Việt thành mù, điếc và câm từ khuya rồi. Người có can đảm đi khai sáng họ sẽ bị lên án là “phản động!” Người muốn đi chữa bệnh nan y (Mù câm và điếc) sẽ phải trả giá rất đất như bị tù đày, bị bao vây an sinh… Thành ra, chỉ còn một giải pháp tiêu cực là đợi cho tham nhũng đến cùng cực, sự suy sụp đạo đức xã hội đến tột đỉnh thì CS sẽ tự nó hủy diệt nó! Cái giá của sự chờ đợi này có thể con đắt hơn mấy lần đi tù, bị bao vây kinh tế mà rất ít người biết…

Đôi khi mình cũng cần soi gương, không phải để tự ti hay tự hào, mà để tự đặt câu hỏi cho mình. Tự hỏi mình là tại sao người Việt thông minh mà dân tộc mình vẫn phải chịu nghèo đói; tại sao người Việt chăm chỉ mà vẫn còn người Việt đi làm thuê làm mướn với lương rẻ mạt ở những quốc gia cũng chẳng hơn Việt Nam bao nhiêu như Mã lai, Ba lan, Hung gia lợi…; Có lẽ vì vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật, vẫn ngủ quên trên chiến thắng; vẫn coi thường những dân tộc khác mà không biết là họ khôn ngoan hơn mình.

Đôi khi cũng nên nhìn vào gương để thấy mình còn may mắn vì nước Việt Nam mình ít ra chưa biến thành một Tây tạng hay một Đài loan thứ hai. Cứ đem cái quá khứ vẻ vang của dân tộc ra mà tự hào thì cái hiện tại chỉ càng làm cho mình đau lòng thêm. Hãy nhìn các anh hùng dân tộc đã đứng lên chiến đấu dành độc lập cho đất nước. Nếu chỉ mấy ông ấy đứng lên một mình không thôi thì có lẽ đã bị Tầu hay Tây (hay Mỹ) nó mượn chỗ đội nón từ khuya rồi. Làm quái gì mà có được “chiến tích thần kỳ.” Các ông ấy phải cần có sự hy sinh vô bờ vô bến của dân ngu khu đen nữa chứ!!! Lãnh đạo đến; rồi lãnh đạo lại đi (hoặc bị tiêu diệt!) Nhưng dân thì muôn đời vẫn còn. Cổ nhân đã nói : “Quân nhất thời; Dân vạn đại!” là vậy. Dân tộc và nước Việt Nam đã bị vùi dập nhiều rồi; không đáng phải bị lãnh đạo (bất xứng) vùi dập thêm.

Lời Kết:

Trước khi muốn chạy, thì phải tập đi cái đã. Dù có muốn hay không, dù đã sửa sắc đẹp tòan diện rồi, mình cũng vẫn là người Việt Nam, điều đó không thể chối cãi được. Câu hỏi đơn giản là mình có tự hào về bản thân mình không? Nếu mình không có tự hào cá nhân thì cũng chưa nên bàn đến tự hào dân tộc.

Tự hào thì có nhiều thứ lắm. Lịch sử liệt kê ra hai loại tự hào là

- Thành quả quân sự (chiến tranh - Chiến tranh lại được chia ra làm hai loại: chiến tranh tự vệ và chiến tranh xâm lược mà ông cha mình gọi là “mở màng bỏ cõi!”).

Oái oăm là cả người tự vệ lẫn người xâm lược cùng tự hào một lượt. Người xâm lược tự hào về sức mạnh. Xâm lược thành công nhanh chóng trong một thời gian ngắn được xem như một niềm tự hào, một chiến tích vẻ vang… Người đấu tranh tự vệ giữ nước tự hào về sự kiên cường, bất khuất, anh dũng.

- Thành qủa xây dựng: Các nước giàu mạnh tân tiến ngoài cái tự hào chiến tranh họ còn tự hào về các công trình xây dựng lớn lao, nền kinh tế khoa học kỹ thuật vượt bực góp phần vào sự phát triển chung của thế giới.

Nhưng thật buồn là Việt Nam ta, cho đến nay chỉ có một cái tự hào về chiến tranh thôi! Tự hào chiến tranh cuối cùng là chiến thắng trong cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước!” Cái chiến tranh này xẩy ra đúng vào lúc thế giới đang ở giai đoạn chiến tranh lạnh (giữa “Tây Phương và Nga sô” hay là “Thế giới Tự do và Cộng Sản quốc tế”) thì chỉ riêng có một mình Việt Nam là nhào đầu vào chiến tranh nóng thôi! Việt Nam thắng trận có nên tự hào không? Có lẽ có! Nhưng đó là tự hào của người Cộng sản chứ không phải là tự hào của “Tổ quốc Việt Nam.”

“Giặc Mỹ” đến giúp Nam Hàn tự do đánh nhau với CS Bắc Hàn trước khi có chiến tranh nóng ở Việt Nam. Bây giờ là năm 2007, chiến tranh nóng Việt Nam đã nguội ngơ rồi! Dân tộc Việt Nam đã trở thành “dân tộc anh hùng rồi!” Bắc Hàn và Nam Hàn đã đồng ý chia lãnh thổ từ lâu rồi; “Đế quốc Mỹ” vẩn còn có quân đội đóng ở Nam Hàn. Đã có ai thấy là “đế quốc Mỹ” cướp một tấc đất nào của Nam Hàn không? “Đế quốc Mỹ” còn ở đó giúp Nam Hàn tự do phát triển thành một sức mạnh kinh tế giầu có nhất ở Á châu mà nhiều con gái nước Việt anh hùng muốn sang làm cô dâu! (Không thấy có cô gái Việt Nam nào muốn sang làm cô dâu ở Bắc Hàn anh hùng cả! Lạ nhỉ!!!)

Trần Văn Giang

2009-01-21 17:06:43



Tro ve dau trang
=========================================
====================================================

THƯ HÀNG THÁNG của nguyệt san CHIẾN SĨ CỘNG HOÀ số #7 tháng Giêng , 2010



Hoàng Dược Thảo



Tại sao Ngày Hoàng Sa Toàn Cầu lại quan trọng với dân tộc Việt!



Ngày 19 tháng 1 năm 1974 các lực lượng Hải Quân VNCH đã chiến đấu anh dũng chống lại sự xâm lăng của Trung cộng tại vùng đảo Hoàng Sa. Năm nay các cựu chiến sĩ Hải Quân VNCH đã phát động một ngày Hoàng Sa trên toàn thế giới để ghi nhớ sự kiện lịch sử này đồng thời để suy tôn 53 chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến này. Từ hai năm nay, chính quyền Việt Gian Cộng Sản đã lặng thinh đứng nhìn Trung Cộng cướp đất, cướp biển khiến người Việt Nam không phân biệt Bắc-Nam, trong và ngoài nước đều vô cùng phẫn nộ. Trong thời gian qua, những bài viết của nhiều tác giả cố gắng trưng bày những văn kiện lịch sử triều Nguyễn, thời kỳ thực dân Pháp còn đô hộ Việt Nam để chứng minh rằng Hoàng Sa-Trường Sa là của chúng ta. Nhưng thực ra, cho đến ngày hôm nay, Trung cộng không hề tranh luận về việc này. Chính quyền cộng sản Trung Hoa chỉ cần trưng ra văn kiện bán đất, bán biển của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng từ thập niên 50 của thế kỷ trước song song với việc thiết lập các cơ sở du lịch, áp đặt một nền hành chính như sát nhập hai quần đảo này vào tỉnh Hải nam của Tàu, phát hành tiền tệ riêng lưu hành tại đây trong sự im lặng nhu nhược đến độ khó có thể chấp nhận của chính quyền Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này khiến giới trí thức trong nước không thể im lặng hơn được nữa vì chủ trương đàn áp, bưng bít, che đậy hành động bán đất, bán biển của bọn Việt gian cộng sản cầm quyền. Gần đây, lần đầu tiên, báo chí trong nước đã có những bài viết ca tụng sự chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 khi đương đầu với lực lượng Hải quân hùng hậu hơn gấp bội của Tàu cộng và coi như đó là một hành động anh hùng bảo vệ đất nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt.

Miền Nam Việt nam Việt Nam mất vào tay cộng sản sắp bước qua năm thứ 35 nhưng qua chính sách gây hận thù, chia rẻ để cai trị của cộng sản, những hố sâu giữa người dân sống tại hai miền Nam-Bắc Việt Nam càng ngày càng đào sâu cho dù cuộc chiến tranh quốc-cộng đã im tiếng súng. Người dân miền Bắc, đặc biệt giới trí thức, dù đã từng là đảng viên, cũng không còn chấp nhận sự cầm quyền bất công, ngu xuẩn, ươn hèn của bọn lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam ngày nay. Họ không còn muốn nhận mình là một thành viên trong cái đảng cướp của, giết người, đã và đang đưa toàn thể dân tộc và đất nước đến hoạ diệt vong. Lá cờ đỏ sao vàng cùng biểu tượng Hồ Chí Minh đối với họ chỉ còn là những bài vị mờ nhạt, hết linh thiêng. Nhưng có một điều đáng buồn là tập thể Người Việt Quốc Gia Không Cộng Sản ở nước ngoài đã không đoàøn kết, không kết hợp được thành một lực lượng hùng mạnh để toàn dân tin tưởng trong công cuộc đấu tranh chống cộng. Vì vậy, tuy không chấp nhận bọn lãnh tụ cộng sản thối nát hiện nay, người dân trong nước vẫn không thể và không muốn liên kết với chúng ta để cùng đứng dưới một lá cờ quốc gia nền vàng ba sọc đỏ của các Chiến Sĩ Cộng Hoà tại hải ngoại.

Dó đó, có thể nói, sự kiện lịch sử Hoàng Sa-Trường Sa là điểm đoàn kết đầu tiên của người Việt trong và ngoài nước, không kể là Bắc, Trung, Nam, đảng viên cộng sản hay người Việt không cộng sản. Chúng ta hy vọng Ngày Hoàng Sa Toàn Cầu 19 tháng 1-2010 năm nay sẽ là ngày xuất phát cho công cuộc khởi nghĩa lật đổ bạo quyền cộng sản, dành lại quyền làm người cho dân tộc Việt Nam, dành lại lãnh thổ đã bị bọn Việt Gian cộng sản bán cho Tàu cộng để đổi lấy sự yểm trợ không giới hạn trong thời kỳ chiến tranh xâm lăng Miền Nam mà lúc đó Hoa Kỳ và thế giới tự do đã quay lưng với chính nghĩa quốc gia của chúng ta; mặc dù trong hai thập niên, miền Nam Việt Nam là đồng minh và là thành trì ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở Á Châu.

Khi đọc những bài viết tiếp tục ca ngợi Hồ Chí Minh của những cây viết trong nước thì nhiều người nghĩ rằng tuy chán ghét đảng cộng sản nhưng họ vẫn suy tôn Hồ Chí Minh. Nghĩ như thế là lầm. Tuy không chấp nhận chế độ cai trị ngu xuẩn, tham quyền cố vị, độc tài của cộng sản nhưng đa số những người cầm bút trong nước đã lợi dụng hình tượng Hồ Chí Minh để vừa làm dù che thân, vừa để miã mai chế độ. Như lời ca dao thời đại: "mỗi năm hai thước vải sô. lấy gì che kín cụ Hồ em ơi!" chẳng hạn.

Mới đây một bản tin phổ biến trên Internet cho biết trong mấy năm qua, ngôi nhà của Nguyễn Sinh Sắc, cha của Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An đã ba lần bị dân chúng đốt cháy. Việt-gian-cộng-sản từ địa phương đến trung ương ra lệnh dấu kín tin này để dấu kín hành động biểu lộ sự bất mãn của dân chúng đối với Hồ chí Minh, không cho tin tức lan tràn xa hơn nơi chôn nhau cắt rốn của họ Hồ và rồi bọn chúng âm thầm chỉnh trang lại như cũ.

Không chỉ báo, đài của tập đoàn việt-gian cộng sản không đưa tin này mà ngay cả những nhà "đấu tranh cho dân chủ" đều im lặng, không ai "phát hiện" ra tin nhạy cảm này, dù nó là một đòn chí mạng vạch trần sự chán ghét cuả dân chúng dành cho bọn việt gian cộng sản từ Hồ chí Minh cho đến bọn lãnh tụ việt-gian-cộng-sản ngày nay. Tất cả các Bloggers từ Bauxite Việt Nam đều không đề cập gì đến tin này. Trước đây đã có tin từ trong nước chuyển ra hải ngoại rằng, mả của việt-gian Lê Đức Thọ chôn ở Mai Dịch, đêm đêm bị dân chúng phóng uế.

Chỉ tiếc rằng ở hải ngoại, hãy còn những ông trí ngủ tiếp tục hát bài "như cóù bác Hồ..."!!!



*



Đặc biệt năm nay là năm kỷ niệm 25 năm ông Trần Văn Bá và nhiều chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền và tự do bị Việt gian cộng sản xử tử hình về tội âm mưu lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam. Mặc dù năm 2007, ông đã được Thượng viện Hoa Kỳ trao tặng huân chương Tự Do Truman-Reagan nhưng sự vinh danh ông trong tập thể Người Việt không cộng sản lại chưa đủ tầm mức đành cho một vị anh hùng trẻ tuổi dấn thân chống bạo quyền cộng sản từ những năm đầu của trang sử tị nạn và lưu vong của người Việt.

Còn nhớ, chúng tôi nhận được tin Trần văn Bá bị xử tử khoảng 9 giờ tối một đêm thứ Ba. Tôi đang yên lặng làm việc trong cái xó nhỏ rất thân thuộc của tôi. Mẹ tôi có lần cằn nhằn là tôi cố gắng hoàn tất nhiều việc cùng một lúc y như là tôi có thể hoàn tất công việc của cả đời sống trong vòng một ngày. Lúc đó, báo Saigon Nhỏ chưa có văn phòng chính thức. Tòa soạn chỉ là một góc bếp của căn apartment chật hẹp. Tối đó một người bạn đến thăm vì nghe tin cha tôi đau nặng. Trong câu chuyện bạn tôi nhắc về ngày giỗ của Trần Văn Bá. Cô đơn lắm, chỉ vài người bạn đốt một nén hương cho anh. Tôâi pha một ly cà phê rồi chúng tôi ra ngồi ngoài bậc thềm nhà bếp.

Đêm tối và sân âm u. Đêm quê người chỉ cho chúng ta cái cảm giác tẻ nhạt và rời rã. Khi buồn và cô đơn, tôi thường im lặng và nghĩ ngợi hoặc hát thầm những bài ca bất kỳ nào đến trong trí nhớ. Hình như tôi sợ phải nghe tiếng khóc thầm của mình trong yên lặng. Nhưng tối hôm đó, tôi đã câm như thóc. Vì ý tưởng vừa thoáng qua trí tôi.... Tôi nhớ vết chàm màu đỏ trên cái trán cao và cương nghị của Trần Văn Bá trong ảnh của nhiếp ảnh gia Trần Đình Thục. Không biết sau phát đạn của kẻ thù, vết chàm ấy còn đỏ thẫm hay đã phai màu... Rồi tôi nhớ đến người mẹ già điếng lặng ở miền Nam thủ đô Paris khi nghe tin dữ về đứa con trai sống vì lý tưởng. Không biết ngọn gió đêm hay dòng nước mắt trên đôi mắt quầng thâm đó đã làm tôi chợt nổi da gà. Tôi tự nhủ: Thôi ráng ngủ sớm đêm nay...

Đêm đó, tôi có một giấc mơ kỳ lạ. Tôi thấy Trần Văn Bá đang co ro vì lạnh. Nền đất ẩm làm áo quần anh như thấm nước. Anh đã biết về việc anh sẽ bị hành quyết trong nay mai. Trí óc mỏi mệt căng thẳng quá độ nhiều ngày khiến anh không còn sức lực mà nghĩ ngợi. Bá chỉ thèm ngủ. Một giấc ngủ đầy mà từ lâu Bá không còn có nữa. Khi đã biết không còn điều gì có thể khác hơn cho mình ngoài cái chết đang đếm từng giờ, Bá bỗng sợ ngủ. Vì những phút chập chờn hay đem đến cho trí óc anh những hình ảnh mà khi tỉnh thức, Bá tưởng đã quên. Như hình ảnh mẹ già. Còn nhớ đêm kia khi choàng tỉnh vì đèn pin của gã công an chiếu vào mặt, hai bàn tay anh còn bưng lấy mặt mình. Nhưng trong giấc mơ, đó là hai bàn tay của mẹ. Và khi đó, anhù đã thôi không còn là Trần Văn Bá lì lợm, ngang tàng dưới sự tra tấn của kẻ thù. Làn da như đã thay, như đã trở về với Bá, đứa con của mẹ. Điều đó làm Bá sợ còn hơn roi vọt của bọn vô nhân. Bởi vì mọi trấn ngự đàn áp xúc động đã không còn khi Bá nghe mình nói nhỏ trong bóng đêm: “Mẹ ơi, con nhớ mẹ.”

Người mẹ, cách đó mấy chục năm về trước đã thấy lồng ngực của mình như bị vỡ tan cùng lúc với tiếng đạn của cộng sản nổ tung thi thể của chồng. Nhưng việc chấp nhận cái chết của chồng dễ dàng hơn chấp nhận cái chết của con thơ. Bởi vì dù con có lớn khôn, con vẫn là con của mẹ. Từng ngày một, từ khi con còn là một đứa trẻ cho đến khi con bắt đầu có một tí râu mép trên môi... Rồi con vỡ tiếng, rồi con tìmù lấy cho con một nhận định, một cuộc đời. Tất cả những thay đổi đó, người mẹ nhận lấy như những thay đổi của chính mình. Và vì thế, dù con có ngang tàng, chọc trời, khuấy nước, con vẫn là con của mẹ. Khúc ruột đẻ ra và thân thể người mẹ vì thế đã chỉ còn là một.

Còn nhớ, tôi đã tỉnh dậy trong kinh hoàng không phải vì tiếng súng kẻ thù mà trong hai hàng lệ nghẹn ngào của bà mẹ già Việt Nam. Tôi tưởng tượng Bà Mẹ Gio Linh của Trần Văn Bá đang trên đường khăn gói đi nhặt lấy đầu con. Mẹ đã ôm trong tay một phần thi thể của con. Mẹ đã ôm trong tay bộ óc tinh anh và vết chàm đỏ trên trán của conï. Mẹ sẽ mai táng nó bên dòng sông cũ ngày nào con vẫn hay đùa nghịch, hướng về phía núi xa, bốn mùa sương phủ. Chiều chiều mẹ sẽ đốt cho con một nhánh trầm hương, nguyện cầu cho con của mẹ rồi sẽ được mãi mãi an lành trên cõi thanh cao.

Hình ảnh đau xót, tang thương của bà mẹ Gio Linh đó đã từng làm chúng ta nổi da gà, nhưng cũng sung sướng đến nghẹn ngào, hãnh diện đến tê điếng khi biết rằng chỉ có đất nước chúng ta thôi, mới có những mẹ già thương quá như thế kia. Mặc dù vận nước điêu linh đã chẳng ngừng ở đó. Vì những bà mẹ Gio Linh đã chẳng còn được ở lại quê xưa. Bà đã phải lưu lạc, đã chẳng còn có thể đạp chân trên con đường làng quen thuộc, tất tả chạy vội đi nhận xác con. Con đã chết ở quê hương nhưng mẹ lại cách con một trùng dương biển rộng, vết chàm đỏ sau tiếng súng của kẻ ác có đổi màu hay không, mẹ cũng chẳng hay! Con chết không nấm mộ, nén trầm hương mẹ đốt cho ai?

Tôi hằng có thói quen đè nén nỗi xúc động của mình. Bởi vì từ nhỏ tôi vốn có bản chất ủy mị. Tôi luôn cố lội ngược dòng. Lâu dần, quen đi, mọi biểu lộ tình cảm với bên ngoài đối với tôi có vẻ gì xa xỉ. Thế nhưng đêm hôm đó, tôi chợt thấy mình muốn khóc khi nghe bạn kể chuyện Hồ Thái Bạch. Khi nghe chuyện người mẹ già đi dự phiên tòa xử tử đứa con trai lâu ngày không được gặp vì Hồ Thái Bạch theo cha về Pháp từ nhỏ. Đã mấy chục năm, nay mẹ con gặp lại nhau thì màn sinh tử đã gần kề. Có ai hiểu con bằng mẹ. Bởi vì mẹ Bạch đã nói khi nghe kẻ thù kết án con mình: Tôi vẫn nghĩ con tôi là một đứa trẻ sống vô tư, ham chơi. Nay thì trái lại. Tôi hãnh diện vì con tôi và tôi thương con tôi quá. Bởi vì nó đã thay cha mẹ nó đền đáp ơn sông núi...

Rồi tự dưng tôi nhớ đến ngọn Hoàng Liên Sơn. Thuở nhỏ, học địa lý nước nhà, tôi còn nhớ ngọn núi cao nhất đất Việt là ngọn Hoàng Liên Sơn, 3142 mét. Rồi cũng rất tự nhiên tôi nghĩ Trần Văn Bá đã leo lên đến đó. Đã qua cái sườn núi dốc đá cheo leo kia. Hồ Thái Bạch cũng đã ở trên đó. Cùng Lê Quốc Quân nữa chứ. Phải có ở trên cao mới thấy quê ta biển rộng sông dài. Phải ở trên cao mới đứng cúùi nhìn, để từ đó mới thấy dân ta buồn bã sống...

Tôi nói với bạn tôi về ý nghĩ của tôi sau khi nghe chuyện Trần Văn Bá. Mai mốt khi về lại quê hương, tôi sẽ tìm một ngọn núi cao, một phiến đá bằng, tay trái ngó ra Biển Đông, tay phải ngó xuống bình nguyên nước Việt, dựng một tấm bia cho những anh hùng đất Việt. Những Nguyễn Khoa Nam. Những Lê Văn Hưng, Những Trần Văn Bá. Những Hồ Thái Bạch. Những Nguyễn Ngọc Huy... Những nhân cách và phong thái anh hùng mà người cộng sản Việt Nam đang tìm cách xóa bỏ trong lịch sử nước nhà chỉ vì không cùng chung chính kiến với họ. Tôi vẫn tin hồn thiêng sông núi đang tụ trên một ngọn núi nào cao nhất của Hoàng Liên Sơn để đợi chúng ta về. Sự nằm xuống của những người hùngï, cũng như những dòng lệ khóc con thơ của các mẹ già Việt Nam không thể chỉ là những hơi rượu say hay những chiếc lá bay cuối mùa. Mà đó chính là máu xương trong lòng bàn tay dân Việt đang siết chặt cho một ngày mai chí lớn sẽ về...



*





Kể từ số này, nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hoà đã có sự cộng tác của cựu Hải Quân Trung tá Trần Trọng Hải thuộc QLVNCH trong chức vụ chủ bút dưới bút hiệu Tuấn Anh Trần Trọng Hải. Ông sinh năm 1941 tại Lao Kay, Việt Nam và phục vụ trong quân chủng Hải Quân từ năm 1961 đến năm 1975. Chức vụ sau cùng của ông là Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Sau ngày miền Nam mất vào tay cộng sản, ông đã trải qua 14 năm lao tù. Năm 1989 sau khi được phóng thích, ông làm đủ nghề: thợ điện, thợ máy và dạy Anh văn ở Saigòn. Với bút hiệu Tuấn Anh Trần Trọng Hải, ông là tác giả nhiều sách giáo khoa dạy Anh ngữ ở Việt Nam cũng như đã xuất bản nhiều sách, truyện Anh ngữ dịch sang Việt ngữ. Ông đã tái định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO từ năm 1993. Với sự hợp tác của một cựu quân nhân và đồng thời là một nhà văn như Tuấn Anh Trần Trọng Hải, nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa sẽ bước vào một khúc quanh quan trọng và chắc chắn sẽ không phụ lòng mong đợi của Người Việt quốc gia trong vai trò một cơ quan ngôn luận nói lên tiếng nói chống cộng của các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà và Hậu duệ.





Hoàng Dược Thảo





Tro ve dau trang
====================================
================================================
Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, chính trường thế giới đã nổi lên một số gương mặt phụ nữ quyền lực nhất, nắm trong tay chức trách lãnh đạo cấp cao của một quốc gia. Họ có học lưc cao, có năng lực xuất sắc hơn người, nhưng trong một thế giới vẫn còn nghiêng hẳn về nam giới, con đường phấn đấu đi lên của họ chẳng đơn giản chút nào.

Thủ tướng Đức Angela Merkel (2005 đến nay)
Angela Merkel sinh năm 1954 tại Hamburg, là con của mục sư Horst Kasner đến từ tỉnh Brandenburg, Cộng hòa Dân chủ Đức. Thông minh, học giỏi, Angela đã lấy bằng Tiến sĩ Vật lý tại Đại học Leipzig khi mới 24 tuổi (năm 1978). Angela Merkel tham gia chính trường rất muộn do bà mải mê việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học.


Tại cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên sau khi nước Đức thống nhất (1990), Merkel dễ dàng giành được ghế trong Quốc hội, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Phụ nữ và Thanh niên rồi Bộ trưởng Môi trường và An toàn hạt nhân trong nội các của Thủ tướng Helmut Kohl. Tháng 9/2005, bà Merkel trở thành nữ Thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Đức. Tháng 9/2009, bà Merkel tái đắc cử nhiệm kỳ thứ 2.
Thành công của bà chủ yếu nhờ vào các chính sách cải cách kinh tế, xã hội hiệu quả, nhất là trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, cũng như các chính sách đối ngoại hài hòa, cân bằng quan hệ với Nga và các đồng minh ở phía tây, đồng thời đóng vai trò tích cực trong các vấn đề lớn toàn cầu.
Nước Đức của bà Merkel "lớn" hơn, "mạnh" hơn thời những người tiền nhiệm. Vì thế, bà tiếp tục đứng đầu danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới" của tạp chí Forbes năm thứ 4 liên tiếp (2006, 2007, 2008 và 2009).
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice (2005-2008)
Để bước lên đỉnh vinh quang, nắm trong tay quyền hành nhất nhì nước Mỹ, bà Rice đã phải phấn đấu cật lực từ thuở còn bé cho đến khi đã thăng tiến lên chức giáo sư và được trọng dụng trong bộ máy chính quyền. Thú vị ở chỗ, con đường bà chọn ban đầu hoàn toàn không dính dáng gì đến tương lai chính trị sau này.


Lấy bằng Tiến sĩ Khoa học chính trị tại Đại học Denver khi mới 26 tuổi, Rice tiếp tục phấn đấu để trở thành Giáo sư trợ giảng rồi Phó Giáo sư Đại học Stanford. Một chi tiết đáng chú ý là: khi làm việc cho Bộ Ngoại giao Mỹ (từ năm 1977), dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, Rice theo đảng Dân chủ, nhưng 5 năm sau đã chuyển sang đảng Cộng hòa vì bất đồng với Tổng thống Carter.
Tài năng xuất sắc của Condoleezza Rice bắt đầu được chú ý đến vào năm 1985, tại một hội nghị về kiểm soát vũ khí ở Đại học Stanford, nơi bà đang giảng dạy. Brent Scowcroft, Cố vấn An ninh quốc gia thời Tổng thống Gerald Ford là người đã phát hiện ra Condoleezza Rice. Khi ông George H. W. Bush (Bush cha) bước vào Nhà Trắng , Scowcroft trở lại làm Cố vấn An ninh quốc gia vào năm 1989 , và ...



và yêu cầu bà Rice tham gia Hội đồng An ninh quốc gia chuyên trách về Liên Xô.
Trong nhiệm kỳ thứ I của Tổng thống George W.Bush (Bush-con), bà Rice tiếp tục được giao cho làm Cố vấn An ninh quốc gia , và về sau thay thế ông Colins Powell làm Bộ trưởng Ngoại giao trong nhiệm kỳ II (2005-2009) của TT Bush. C.Rice 2 năm liền (2004-2005) đứng đầu danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới" của tạp chí Forbes.
Tổng thống Argentina Cristina Kirchner (2007 đến nay)

Năm nay 56 tuổi, Cristina Fernandez de Kirchner là nữ Tổng thống thứ 2 nhưng là nữ Tổng thống dân cử đầu tiên trong lịch sử Argentina. Thông minh, mạnh mẽ, Cristina thuyết phục được mọi người nhờ các hoạt động quyết liệt vì quyền lợi phụ nữ và quyền công dân.
Thêm vào đó là uy tín của chồng bà, ông Nestor Kirchner. Vợ chồng nhà Kirchner được báo chí Argentina và quốc tế xưng tụng là "cặp uyên ương quyền lực", là một "Peron" và "Evita" mới của Argentina. Tuy nhiên, vì thiếu kinh nghiệm trong điều hành đất nước mà Cristina Kirchner đã vấp phải một số trục trặc trong 3 năm điều hành đất nước, khiến cho tỉ lệ ủng hộ mình giảm đáng kể.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton (đương nhiệm)
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton không xa lạ với chính trường thế giới vì bà từng là đệ nhất phu nhân Mỹ, còn chồng bà , ông Bill Clinton , là một cựu Tổng thống Hoa Kỳ. Và hơn thế, trước khi làm Ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary đã có 8 năm làm Thượng nghị sĩ.

Với phong cách không mạnh bạo, không "hét ra lửa" như bà Condoleezza Rice, nhưng bà Hillary Clinton có cách thể hiện sức mạnh ngoại giao mới... phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại mới của Tổng thống Obama là mềm mỏng , đối thoại để lôi kéo đối phương về phía mình. Giới phân tích gọi đây là đường lối "ngoại giao mềm" , là một thứ "quyền lực mềm" dễ khiến người ta bị ru ngủ và sa vào bẫy.
Trong danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới" năm 2009 của tạp chí Forbes, bà Hillary Clinton hạng 36.
Cựu Tổng thống Indonnesia Megawati Sukarnoputri (2001-2004)

Đóa hoa trong giông bão" là ngôn từ mà báo chí một thời dùng để mô tả Megawati Sukarnoputri, con gái của cố Tổng thống Indonesia Sukarno - người đã lãnh đạo nhân dân Indonesia giành độc lập năm 1945.


Lãnh đạo đảng Dân chủ Indonesia đấu tranh (PDI-P) trong giai đoạn sôi động cuối thế kỷ XX, bà Megawati là một trong những đại biểu xuất sắc của phái cải cách Indonesia (cùng với các ông Abdurrahman Wahid và Amien Rais) đấu tranh nhằm kết liễu chế độ độc tài của ông Suharto (người đã lật đổ ông Sukarno năm 1967).
Bà Megawati được tạp chí Forbes xếp hạng 8 trong danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới" năm 2004 (và đã rời khỏi danh sách này năm 2008).
Tổng thống Chile Michelle Bachelet (tháng 11/2006 đến nay)



Xếp hạng 22 trong danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới" năm 2009 của Forbes là Tổng thống Chile Michelle Bachelet, 58 tuổi. Bachelet là con của Thiếu tướng Không quân Chile Alberto Bachelet Martínez, gốc gác di cư từ Pháp. Tướng Bachelet là một trong những quan chức trong chính quyền Tổng thống Salvador Allende.
Sau đảo chính 11/9/1973, tướng Bachelet bị bắt và tra tấn đến chết, còn mẹ con bà Bachelet phải sống lưu vong ở Australia rồi sau đó đến Cộng hòa Dân chủ (CHDC) Đức. Tại đây, Bachelet theo học Đại học Karl Marx (nay là Đại học Leipzig), sau đó học Y khoa tại Đại học Humboldt Berlin. Trở về Chile năm 1979, Bachelet tiếp tục học y khoa và lấy bằng bác sĩ vào năm 1983.


Xu hướng chính trị thiên tả của bà Bachelet xuất phát từ thời gian sinh sống ở CHDC Đức. Trước khi lên làm Tổng thống Chile, bà Bachelet đã được Tổng thống Ricardo Lagos bổ nhiệm Bộ trưởng Y tế (năm 2000) rồi Bộ trưởng Quốc phòng Chile.
Chính trong giai đoạn làm Bộ trưởng Quốc phòng này bà Bachelet đã xây dựng một hình ảnh đầy thân thiện, thu phục tình cảm nhiều người bằng chính sách hòa giải dân tộc, khoan dung cho những lỗi lầm quá khứ mặc dù gia đình mình cũng là nạn nhân. Đây chính là nguyên nhân giúp bà giành thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 12/2005.
Chủ tịch đảng Quốc Đại (Ấn Độ) Sonia Gandhi


Không nắm giữ chức vụ chính quyền nào, từ chối cả chức Thủ tướng Ấn Độ, Sonia Gandhi vẫn được xem là người phụ nữ quyền lực nhất Ấn Độ. Quyền hành của bà Sonia không chỉ thể hiện qua cơ cấu tổ chức chính quyền mà đó là quyền lực của một người lèo lái con thuyền chính trị Quốc Đại.
Mặc dù là người gốc nước ngoài (bà là người Italia theo chồng nhập tịch Ấn Độ), Sonia vẫn một lòng chung thủy "thương chồng phải gánh giang sơn nhà chồng". Sau khi cả mẹ chồng (cố Thủ tướng Indira Gandhi) và
chồng (cố Thủ tướng Rajiv Gandhi) đều qua đời do bị ám sát, Sonia đã một mình chèo chống cả cơ nghiệp nhà chồng trong khi các con (Rahul và Priyanka) còn chưa đủ sức thay cha và bà nội. Trớ trêu thay, "gốc nước ngoài" lại chính là nhược điểm lớn nhất đã năm lần bảy lượt cản trở con đường chính trị của bà Sonia.
Bà Sonia Gandhi từng được xếp hạng 3 trong danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới” của tạp chí Forbes năm 2004, hạng 6 năm 2007 và 2008, và hạng 13 năm 2009.
Tổng thống Philippines Gloria Macapagal Arroyo (2001-2010)

Tổng thống Philippines Gloria Macapagal Arroyo là nữ tổng thống thứ 2 của nước này (người trước là bà Corazon Aquino). Điều thú vị là cả Aquino và Arroyo đều lên làm Tổng thống sau khi người tiền nhiệm bị hạ bệ bởi một cuộc nổi dậy của quần chúng. Bà Arroyo từng là bạn học của cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton tại Đại học Georgetown , nơi bà lấy bằng Cử nhân kinh tế trước khi lấy chồng và trở về Philippines sinh sống và làm việc.
Năm nay 62 tuổi, bà Arroyo sẽ kết thúc nhiệm kỳ thứ 2 của mình vào ngày 30/6/2010. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí hồi tháng 11/2009, bà Arroyo đã tuyên bố sẽ không ra tranh cử tổng thống nữa mà chỉ muốn làm một nghị sĩ Quốc hội.
Thủ tướng Ukraina Yulia Tymoshenko Prime minister

Mặc dù chỉ đứng hạng 47 trong danh sách "100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới" năm 2009 của tạp chí Forbes, song Thủ tướng Ukraina
Yulia Tymoshenko lại là cái tên khá quen thuộc với bất cứ ai quan tâm chính trường thế giới , nhất là chính trường Ukraina - điểm nóng trong cuộc chiến cân bằng Đông-Tây trên bản đồ địa lý chính trị thế giới những năm qua.
Được mệnh danh là "Nữ hoàng Cách mạng Cam", bà Tymoshenko không chỉ đẹp và đầy nữ tính, với búi tóc dân dã lừng danh, mà còn là một chính khách nhiều màu sắc, đa dạng và hết sức phức tạp.


Từng 2 lần làm Thủ tướng, thân phương Tây, thế nhưng, "thức lâu mới biết đêm dài", Tymoshenko đã dần nhận ra rằng, không ai hơn được "láng giềng gần" - đó là nước Nga ngay sát sườn phía đông, mà một phần đáng kể dân Ukraina vẫn dùng tiếng Nga. Liên minh Cam vì thế mà tan vỡ mãi mãi để Tymoshenko quay sang liên minh với Viktor Yanukovich, được đánh giá là thân Nga hơn.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Ukraina sắp tới (17/1/2010), bà Tymoshenko ghi danh ứng cử để hoàn tất giấc mộng quyền lực đeo đuổi bấy lâu nay









Tro ve dau trang
=========================================
=================================================

Saturday, January 30, 2010

Hai kịch bản đang chờ đón Trung Quốc và Việt Nam : Thay đổi hoặc sụp đổ



Thanh Phương,RFI

Bài đăng ngày 30/01/2010 Cập nhật lần cuối ngày 30/01/2010 19:22 TU


Nhà ly khai Trung Quốc Ngụy Kinh Sinh
(DR)

Trên đây là nhận xét của nhà ly khai Trung Quốc Ngụy Kinh Sinh trong một bài tham luận đọc tại một cuộc hội thảo ở Los Angeles về nhân quyền và dân chủ ở Trung Quốc và Việt Nam vào tuần trước. Toàn văn bài tham luận này được đăng trên trang web của hãng tin AsiaNews.it ngày 29/1.


In bài
Gửi bài
Bình luận bài


Trong một bài tham luận đọc tại một cuộc hội thảo ở Los Angeles về nhân quyền và dân chủ ở Trung Quốc và Việt Nam vào tuần trước, nhà ly khai nổi tiếng Ngụy Kinh Sinh đã so sánh tình hình giữa hai quốc gia. Toàn văn bài tham luận này hôm qua (29/1) đã được đăng trên trang web của hãng tin AsiaNews.it.
Được coi là '' cha đẻ của phong trào dân chủ'' ở Trung Quốc, ông Ngụy Kinh Sinh, hiện sống lưu vong ở Hoa Kỳ, vẫn cực lực phản bác những người cho rằng có thể phát triển kinh tế mà không cần đến dân chủ, nhân quyền.
Trong bài tham luận, ông Ngụy Kinh Sinh nhận định : '' Mặc dầu cả hai nước đều đã chuyển hóa thành những quốc gia tư bản độc quyền, nhưng có những điểm khác với những nước Đông Âu và Nga. Khác biệt lớn nhất đó Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn sống dưới chế độ độc đảng. Do không có sự tranh đua trong một thể chế đa đảng, cả hai nước đều không có một môi trường thông thoáng hơn cho ngôn luận và báo chí như ở Đông Âu và Nga''.
Theo ông Ngụy Kinh Sinh, '' Ở Việt Nam và Trung Quốc, phe đối lập rất khó tồn tại trong nước, còn phe đối lập ở hải ngoại thì càng khó mà tham gia vào chuyện chính trị quốc nội.''
Nhà ly khai Ngụy Sinh Sinh lưu ý rằng, các cơ quan an ninh của Đảng nay hoạt động rất hiệu quả, tức là gài người khắp nơi để làm chệch hướng đấu tranh, gây chia rẽ và thậm chí gài bẫy các lực lượng.
Cho nên, rất khó mà có một lực lượng đoàn kết, tổ chức chặt chẽ để thúc đẩy chuyển hóa hay cách mạng.
Hiện nay, theo nhà ly khai Trung Quốc, việc huy động nhân dân chỉ có thể thực hiện được nhờ những công cụ truyền thông đại chúng. Chính vì vậy mà chế độ cộng sản Trung Quốc vẫn nỗ lực ngăn chận thông tin cả trên báo chí lẫn trên mạng Internet.
Mặt khác, theo ông Ngụy Kinh Sinh, do thiếu tôn trọng nhân quyền, việc bóc lột, đàn áp từ các giới quan chức cấu kết với giới doanh nghiệp càng trắng trợn hơn và như vậy càng khiến sự phản kháng mạnh mẽ hơn.
Nhưng cũng do các quan chức cấu kết ngày càng chặt chẽ với giới doanh nghiệp, chính phủ nay không thể đóng vai trò trọng tài phân xử các tranh chấp kinh doanh. Cuộc đấu đá trong nội bộ giới lãnh đạo càng dữ dội hơn bao giờ hết.
Ông Ngụy Kinh Sinh nhắc lại : ''Trong những thập niên qua, môi trường quốc tế đã không thuận lợi cho các lực lượng đối lập ở Trung Quốc và Việt Nam''.
Trong khoảng thời gian đó, phương Tây đã hà hơi tiếp sức cho các nước cộng sản, thi hành những chính sách khoan dung và hoà hoãn đối với các đảng cộng sản, mà các đảng này đã biến thái thành một kiểu tư bản đỏ. Quan hệ giữa khối dân chủ phương Tây với các chế độ độc tài châu Âu, từ đối đầu đã chuyển thành hợp tác. Các lực lượng đối lập Trung Quốc và Việt Nam ở hải ngoại bỗng trở thành những cản ngại dưới con mắt các chính khách những nước dân chủ này.
Nay, theo nhà ly khai Ngụy Kinh Sinh, tình hình đang thay đổi.
Mặc dù chính sách hòa hoãn vẫn chiếm ưu thế, các nền kinh tế phương Tây đang rơi vào suy thoái do đã truyền máu cho các nước cộng sản trong hơn một thập kỷ. Ông Ngụy Kinh Sinh cho rằng các nước phương Tây nay phải từ bỏ chính sách hoà hoãn với chế độ cộng sản, phải trở lại chính sách đối đầu và cạnh tranh, mà trước hết là từ chính sách bảo vệ thị trường.
Nhà ly khai Trung Quốc nhận định, ''sự thay đổi này là yếu tố buộc hệ thống tư bản độc quyền của đảng Cộng sản phải cải tổ hoặc sẽ sụp đổ''. Lực lượng đối lập hải ngoại phải tiếp tục sử dụng truyền thông để thúc đẩy dân chủ và tự do trong nước. Đường lối đấu tranh này, đi kèm với chính sách bảo vệ thị trường của các nước dân chủ sẽ là đối trọng với chủ nghĩa dân tộc mà chắc chắn sẽ bị đảng cộng sản khai thác.



Tro ve dau trang
=====================================
===============================================
Ngón đòn xâm lược thâm hiểm và bẩn thỉu của Tàu Cộng

Dong van Le
Houston , TX



Giới thiệu vài dòng tiểu sử của GS. Vũ Cao Đàm" ....

Gần hết cuộc đời, tôi đã nuôi trong lòng tình hữu nghị cao cả với đất nước quê hương của Đức Tổ họ Vũ của tôi. Tôi có lai lịch là người gốc Trung Hoa. Đức Tổ khai sinh ra dòng họ Vũ của tôi là một người thuộc dòng họ Vũ xã Long Khê, huyện Phúc Điền, tỉnh Phúc Kiến, bên Trung Hoa.

Đức Tổ của tôi là Vũ Hồn, được Vua Đường Vũ Tông cử làm An Nam Đô hộ sứ cai trị xứ An Nam trong khoảng thời gian 841-843 theo Tây lịch. Nhưng rồi vì thất sủng với Nhà Đường, Vũ Hồn đã về sống ẩn dật với người vợ An Nam ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay thuộc tỉnh tỉnh Hải Dương sinh cơ lập nghiệp, dựng nên dòng họ Vũ ở Việt Nam ngày nay.



Tôi nuôi những tình cảm ấm áp với người Trung Hoa từ cuối những năm 1930, khi tôi mới 3-4 tuổi, ở một vùng quê rất xa thành phố. Đó là châu Dực Yên thuộc tỉnh Hải Ninh ngày xưa, mà hôm nay vẫn còn giữ nếp sống bằng lặng, yên bình, ngay sát thành phố Móng Cái, ở đó, vẫn còn dấu ấn của hàng xóm là những người Hoa chất phác, đôn hậu, tắt lửa tối đèn cùng gia đình chúng tôi chia sẻ từng bát cháo hoa ăn với chao và trứng muối ... "



Vũ cao Đàm

Lướt nhanh trên mạng những ngày này, chúng ta luôn tìm được nhiều thông tin đắt giá:
Thương lái Trung Quốc (dân thường nói ngắn gọn, là bọn Tàu) về các chợ nông thôn Việt Nam thu mua móng trâu với giá rất cao, thậm chí những cái móng từ 4 chân của một con trâu được bọn Tàu mua với giá hơn hẳn một con trâu. Thế là nông dân Việt Nam và bọn "trâu tặc" ra sức chặt móng trâu đem bán,… vẫn còn lãi một con trâu thịt mang bán ở chợ. Chỉ một thời gian rất ngắn, bọn chúng đã triệt phá tan hoang sức kéo của nông dân nghèo Việt Nam . Tiếp đó, dân loan tin cho nhau, hàng lũ lái trâu từ bên Tàu tràn qua biên giới để "tiếp thị" bán trâu. Trong cái lũ thương lái mới này còn có cả kẻ tiếp thị bán trâu sắt (máy kéo). Dân tình vỡ lẽ: Thì ra chúng thu mua móng trâu là vì như thế!


Ở một nơi khác, thương lái Tàu đi các chợ thu mua rễ hồi, thế là những bọn "hồi tặc" mở chiến dịch triệt phá rừng hồi, một dược liệu quý hiếm của Việt Nam; chúng mua râu ngô non, xúi giục nông dân triệt phá nương ngô mang bán, đánh vào trúng cái dạ dày của những người mà bọn Tàu gọi là "đồng chí tốt" Việt Nam; chúng thu mua mèo nhằm triệt phá một nguồn trừ chuột cắn lúa; rồi chúng mua ốc bươu vàng, xúi giục nông dân nuôi ốc bươu vàng tràn ngập đồng ruộng phá hoại mùa màng, tấn công vào chiến lược an ninh lương thực của quốc gia "láng giềng tốt" Việt Nam.


Hàng tốp thương lái Tàu xuất hiện từ Hà Giang cho đến Lâm Đồng để thu mua chè vàng, là thứ chè chặt thô phơi tái, không cần chế biến. Thương lái Tàu mua chè vàng với giá rất cao, kích thích nông dân chặt trụi đồi chè mang bán. Thế là thương lái Tàu đã triệt hạ vùng nguyên liệu cho các nhà máy chè Việt Nam . Không còn con đường nào khác, các doanh nghiệp chè Việt Nam phải sang mua chè nguyên liệu từ Trung Quốc. Đến khi nông dân Việt Nam cần trồng lại đồi chè, thì các "đồng chí tốt" từ bên kia biên giới, vì tình quốc tế vô sản lại lọ mọ xuất hiện, "giúp" mua giống chè từ Trung Quốc chở qua cho nông dân Việt Nam.


Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao "trên trời", đẩy từng đoàn "đồng tặc" lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia của nước "láng giềng tốt" để nước này đốt đèn dầu đi theo họ "hướng tới tương lai". Có nơi, bọn "đồng tặc" lẻn vào kho ăn cắp từng cuộn dây đồng mới "coong" mang bán, thì "các đồng chí tốt" lên mặt đạo đức: "Ấy chết, cái ngộ không mua cái cuộn dây tôồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các tôồng chí tâu lố!" (Chúng tôi không mua cái cuộn dây đồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các đồng chí đâu nhé).
Cho đến khi bọn thương lái Tàu đi thu mua cáp quang phế liệu, thì các nhà đương cục của chúng ta mới được phen ngớ ra, không hiểu bọn chúng mua cái "của nợ" này để làm gì. Vì mua dây đồng thì còn có thể hiểu là chúng lấy nguyên liệu, nhưng cáp quang thì thật không thể hiểu được chúng mua để làm gì? Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì mới "ngã ngửa" ra, là chúng đang phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam… Chắc là các "đồng chí Việt Nam" nghĩ mãi không biết xử thế nào với những người "đồng chí tốt" bên nước vô sản Trung Hoa, đành phải đưa ra tòa vài thằng dân nghèo "trót dại" lặn xuống biển chặt trộm cáp quang.


"Láng giềng tốt" giúp… xây dựng các công trình thủy lợi


Sau 1954, Việt Nam được Trung Quốc giúp xây dựng nhiều công trình thủy lợi. Tôi đã tiến hành một cuộc phỏng vấn với Giáo sư TTA, Viện trưởng một viện nghiên cứu thủy lợi ở Hà Nội về sự giúp đỡ thủy lợi của người "đồng chí tốt", vị Giáo sư kéo tôi vào phòng làm việc và cho xem một video clip quay suốt dọc dòng sông biên giới Việt – Trung.


Trời ơi, chúng ta không thể tưởng tượng được, người "đồng chí tốt" đã làm những trò gì đâu! Các "đồng chí" xây 120 cái kè chắn chéo dòng nước trên các dòng sông biên giới, tạo những luồng nước xoáy để làm sạt lở bờ phía Việt Nam, ăn cắp đất mang về phía đất nước "láng giềng tốt" bên kia biên giới. Đất bồi sang phía bắc đến đâu, các đồng chí xây nhà cao tầng và kéo giai cấp vô sản quốc tế Trung Hoa đến đó.


Xem xong clip của Giáo sư TTA, tôi bàng hoàng… Tất cả các triều đại Đường, Nguyên, Tống, Minh, Thanh, chưa có bất kỳ một triều đại nào trước Triều đại cộng sản Trung Hoa sử dụng những biện pháp tồi tệ như vậy với Việt Nam.


Việt Nam đã đối đầu với những đế quốc lớn, đã đối mặt với đủ loại thủ đoạn tàn bạo của nhiều loại đế quốc, nhưng có lẽ đây là ngón đòn xâm lược thâm hiểm và bẩn thỉu nhất của một loại đế quốc mới nổi: Đế quốc Trung Cộng.


Tôi hỏi Giáo sư TTA: "Ông có thể cho biết, có công trình thủy lợi nào mà Cộng sản Trung Hoa giúp Việt Nam không chứa đựng những "yếu tố đểu" tương tự như vậy không?". Ông chau mày trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu…


"Tôi khó trả lời anh quá", Giáo sư nói với tôi như vậy.


Đến hành vi gây ô nhiễm môi trường "gien" Việt Nam



Trên đường phố và sân bay Việt Nam hôm nay tràn ngập người Trung Quốc. Tôi vừa ngồi ở sân bay Đà Nẵng. Tôi đến hơi trễ, hỏi anh bạn ngồi bên phải tôi: "Máy bay Hà Nội gọi vào chưa?", thì nghe câu hỏi lại bằng tiếng Tàu "Shen ma?" (Cái gì?). Tôi quay bên trái hỏi, thì lại nghe "Shen ma?". Tôi quay phía sau hỏi, lại thấy "Ni shuo shen ma?" (Ông nói cái gì?)… Tôi ngỡ ngàng, tưởng mình lạc vào sân bay Bắc Kinh..


Làng sinh viên HACINKO (Phố Ngụy Như Kontum) không còn chỗ cho thuê vì hơn 500 người Trung Quốc đã "trấn" ở đó. Họ chen lấn trong thang máy và trong nhà ăn, thậm chí chiếm đứt thang máy để chơi đùa leo lên leo xuống, không cho bất kỳ ai sử dụng thang máy. Người Tàu đến đó mở hàng ăn, hàng bán quần áo, mua bán tấp nập như một chợ Tàu. Tối tối sinh viên Tàu trượt patin và la ó huyên náo một góc phố… Họ làm cho tôi liên tưởng tới hai mươi vạn quân Tàu Tưởng tràn vào Việt Nam năm 1945,… ghẻ lở, bẩn thỉu, ngông nghênh và láo xược.


Sao mà người Trung Quốc thắng thầu lắm thế? Chuyện bauxite Tây Nguyên đã có quá nhiều người nói rồi. Tôi đơn cử vài chuyện vặt vãnh khác: Chỉ ở một tỉnh ở rất gần Hà Nội thôi, Trung Quốc chưa làm xong Nhà máy điện HB, hàng ngàn công nhân Tàu chưa kịp rút, thì Tàu đã thắng thầu làm Nhà máy điện MK, và hàng ngàn công nhân Tàu lại xuất hiện. Những người Tàu từ các cơ sở sản xuất này lan tỏa khắp nơi để gieo rắc "hạt giống đỏ" cho cách mạng vô sản Trung Hoa, đỡ cho các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam và các công ty môi giới hôn nhân khỏi phải xuất con gái qua Tàu… Tôi có dịp trao đổi với các chị phụ trách hội phụ nữ ở mấy tỉnh Tây Nguyên, thì được biết, các chị đang rất lo ngại, chưa biết xử lý thế nào với nạn con gái Tây Nguyên có bầu với công nhân Tàu (!).


Chúng ta nhìn thấy một cảnh tượng đang đến gần: Đội quân thứ 5 của Trung Cộng đang ngày càng được mở rộng. Cần cảnh báo: Khi Trung Cộng mới sáp nhập Tân Cương vào Trung Quốc, dân Hán ở đây chỉ chiếm chừng 4-5%. Sau nửa thế kỷ, dân Hán đã lên tới 45%. Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó, chúng ta có thể rất cần đặt câu hỏi: "Bao giờ dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thiểu số trên chính đất nước mình?".


Và rồi xoa dịu bằng mấy công trình văn hóa?


Gần đây chắc là Trung Nam Hải đã nhận ra sự phẫn nộ của dân chúng Việt Nam trước những hành vi xâm lược của họ, họ đã "kỷ niệm" cho dân Việt Nam mấy pha ngoạn mục: Trước hết là 30 triệu USD xây dựng ký túc xá cho Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh để đào tạo cán bộ cho Đảng. Tiếp đó là Cung Văn hóa hữu nghị Việt – Trung, chắc rồi đến Viện Khổng Tử,… và rồi không biết còn những thứ gì nữa.

*

Viết đến đây, tôi chợt nhớ cái thời lớp thanh niên chúng tôi say mê theo các nghệ sỹ ca ngợi,… những cánh hoa mộc miên bay tới đâu, tình hữu nghị của dân tộc Trung Hoa lan tỏa đến đó… Sao mà lãng mạn.


Ngẫu nhiên, tôi ngồi để hồi tưởng tâm tình lãng mạn theo những "Cánh hoa mộc miên" với Giáo sư Phạm Huy Tiến, một nhà địa chất, cũng có thời đi tu nghiệp "tiến tu Giáo sư" ở Học viện Địa chất Bắc Kinh (đối diện Học viện Khoáng nghiệp của tôi). Giáo sư Tiến cười rũ ngắt lời tôi: "Các bố nhầm hết rồi. Các nghệ sỹ cũng nhầm rồi. Cánh rừng mộc miên khi xưa nằm trên đất Việt Nam . Bọn địa chất chúng tôi lăn lộn ở đó quá nhiều. Cả đỉnh thác Bản Giốc nữa, cánh địa chất chúng tôi từng lên đó nấu cơm ăn… Nhưng rồi Trung Quốc lấn chiếm, nuốt toàn bộ cánh rừng mộc miên vào lòng Tổ quốc Trung Hoa"… Và thế là những cánh hoa mộc miên lại hồn nhiên bay "từ đất Trung Hoa", lan tỏa tình hữu nghị "vạn cổ trường sinh" giữa hai dân tộc.


Ấy thế mà, trong khi tôi được nghe các bạn nghệ sỹ của chúng ta ca ngợi "Hoa mộc miên mọc đến đâu, lan tỏa tình thữu nghị của dân tộc Trung Hoa đến đó", thì, trong một trang mạng nào đó, tôi lại nghe những người cộng sản Bắc Kinh lập luận: "Hoa mộc miên bay đến đâu gieo hạt đến đó; Cây mộc miên mọc ở đâu, đất trung Hoa ở đó. Việt Nam chỉ có cây tre, làm gì có cây hoa mộc miên!".


*
Trung Hoa là một đất nước có một đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối. Như vậy có thể suy luận, mà không sợ sai lầm: Tất cả những sự kiện nêu trong bài viết này đều do các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đưa đường chỉ lối.


Chính những người cộng sản Trung Hoa đã làm tan vỡ hoàn toàn tình cảm nồng ấm của những người thuộc thế hệ chúng tôi với một đất nước đã sinh ra Đức Tổ Vũ Hồn của dòng tộc của tôi, một đất nước, mà có thời tôi đã coi là Tổ quốc thứ hai của mình.



Vũ Cao Đàm




Tro ve dau trang
=====================================
===============================================


VGCS BỎ TÙ NGƯỜI YÊU NƯỚC

Nhà nước đẹp lòng quan Thái Thú
Nhẫn tâm kêu án Phạm Thanh Nghiên
Chỉ vì phát biểu lời công đạo
Mà phải ở tù những bốn niên!
Ác đảng điên cuồng còn thách thức
Nhân dân căm phẫn quyết vùng lên!
Bất công dồn nén bao năm tháng
Sao đội trời chung với bạo quyền.

30.1.2010

HỒ CÔNG TÂM



==========================================
Kí'nh thưa qúy vị,


Bài thơ thuận nghịch độc "Tết Lưu Vong" của tiền bối Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân
thật xuất sắc. Tuy không dám múa rìu qua mắt thợ, Hương Saigòn xin mạo muội phụng họa để góp vui. Xin tiền bối Nhật Hồng miển chấp.

Kính chúc an khang trong năm mói.

Kính,

Hương Saigon


Tết Xa Quê Mẹ

(Đọc xuôi)




Sương gió mịt mờ lạnh cỏ cây

Mẹ quê thương nhớ, Tết đêm say

Thương ai khổ lụy đời xơ xác

Hận chúng gian tham kiếp nghiệt cay

Vương vấn chốn xưa, ngày tưởng nhớ

Biệt ly đường nhỏ, bước trang đài

Hương đồng nhớ mãi, sầu xa xứ

Sương gió mit mờ lạnh cỏ cây



(Đoc ngược)



Cây cỏ lạnh mờ mịt gió sương

Xứ xa sầu mãi, nhớ đồng hương

Đài trang bước nhỏ, đường ly biệt

Nhớ tưởng ngày xưa, chốn vấn vương

Cay nghiệt, kiếp tham gian chúng hận!

Xác xơ , đời lụy khổ ai thương ?!

Say đêm Tết, nhớ thương quê mẹ

Cây cỏ lạnh mờ mịt gió sương



Hương Saigon kính họa

(30/01/2010)



-----------------------------------------------------------
Hờn Sông Núi


Viễn xứ trời Đông cảnh úa sầu
Trông về cố quận thấy thương đau
Chùa xiêu,cổng sập, hờn sông núi
Chúa ngã, đền nghiêng, hận bể dâu


Tám nẻo tha phương lê bước mỏi

Đôi đường cố lý chồn chân mau

Nhìn đời tráo trở , sầu non nước

Giận đảng hồ ly,, lũ xích hầu!



Hương Saigon

(30/01/2010)



-------------------------------------------------------------------------------------

MỬNG TẾT ĐÓN CHÀO DIỄN ĐÀN THƠ VĂN

MỪNG chúc Canh Dần xuân rộ hoa.
TẾT ai thi-sĩ tỏ tài ra.
ĐÓN người nhất dạ yêu nòi giống.
CHÀO kẻ chung tâm cứu nước nhà.
DIỄN ý bài-trừ Cộng-Sản trị.
ĐÀN câu tố-cáo Vô-Thần ca.
THƠ là trọng-pháo banh Hà-Nội,
VĂN hịch mừng vui cảnh thái hòa.

TDT, JAN-30-10
Ngô-Phủ


------------------------------------------------------------
Nhớ Quê




Tuyết trắng mang mang phủ mái nhà

Ngồi buồn dã dượi, nhớ quê xa

Đồi thông tĩnh mịch, rừng xơ xác

Rặng liễu chao dao, cảnh nhạt nhòa

Khói toả cô thôn , hồn tử sĩ

Chuông ngân viễn xứ, tiếng chiều sa

Hồn quê, tình nước , lòng hoang ải

Ai ở bên trời có hiểu ta ?





Hương Saigon

(30/01/2010)


-------------------------------------------------------------------

=================================================
=============================================================
Trận chiến trên Vịnh Leyte (Philipine) giữa Hải quân Mỹ và Nhật Bản từ ngày 23 đến 26-10-1944 trong Thế chiến thứ hai được coi là trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử cận - hiện đại do số lượng tàu chiến tham gia.



Quân đội Mỹ đã huy động một lực lượng khổng lồ các phương tiện chiến tranh trên biển, bao gồm 8 hkmh cỡ lớn, 24 hkmh nhỏ, 1.712 máy bay chiến đấu, 12 chiến hạm cỡ lớn, 165 tuần dương hạm và khu trục hạm cùng nhiều tàu ngầm hỗ trợ.

Trong khi đó, Hải quân Nhật Bản khiêm tốn hơn với 1 hkmh cỡ lớn, 3 chiếc loại nhỏ, 117 máy bay chiến đấu, 9 chiến hạm cỡ lớn cùng 54 tuần dương hạm và khu trục hạm.

Mục đích của quân đội Mỹ là cắt đứt nguồn cung cấp dầu mỏ cũng như đường hàng hải của Nhật Bản qua vùng biển Đông Nam Á; đồng thời xây dựng các sân bay chiến lược làm cơ sở cho máy bay ném bom cỡ lớn B-29




oanh kích vào lãnh thổ Nhật Bản.

Trong khi Nhật Bản tham chiến nhằm tránh để chiến tranh tiến sát hơn nữa tới lãnh thổ và bảo vệ khu vực có ý nghĩa chiến lược. Quân đội Nhật Bản hiểu rằng, mất Phi-líp-pin là gần như đã nắm chắc thất bại trong cả cuộc chiến.

Trận chiến xảy ra vào cuối năm 1944 khi quân Đồng minh mở đầu tái chiếm Phi-líp-pin bằng việc đổ bộ lên đảo Layte. Hỗ trợ cho các hoạt động trên bộ là Hạm đội 7, Hạm đội 3 và lực lượng tác chiến hkmh TF38 của Hải quân Mỹ. Nhận


thấy ý đồ đó, chỉ huy Hạm đội liên hợp Nhật Bản, Đô đốc

Soemu Toyoda chuẩn bị kế hoạch đối phó.

Hải quân Nhật Bản được chia làm 4 lực lượng độc lập.

Lực lượng phía Bắc với thành phần chính gồm 1 hkmh cỡ lớn và 3 hkmh hạng nhẹ sẽ quấy nhiễu hoạt động của Hạm đội 3.

Lực lượng trung tâm gồm 5 chiến hạm cỡ lớn và 10 tuần dương hạm hạng nặng sẽ tấn công đảo Layte.

Hỗ trợ cho lực lượng trung tâm sẽ là 2 lực lượng nhỏ, gộp chung thành lực lượng phía Nam .

Trận chạm trán đầu tiên giữa Hải quân Mỹ và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 23-10-1944. Trong 2 ngày, Hải quân Mỹ với sức mạnh của các tàu ngầm đã tiêu diệt siêu hạm




Musahi và 2 tuần dương hạm của đối phương, làm nhiều chiếc khác bị thương, buộc phải tháo chạy. Tuy nhiên, quân đội Mỹ cũng đã thiệt hại hkmh Princeton .

Đêm 24-10, một phần lực lượng phía Nam của Hải quân Nhật theo eo biển Surigao vào tham chiến nhưng bất ngờ bị quân Mỹ chặn đánh buộc phải rút chạy. Không những thế, trên đường rút chạy, các tàu chiến của Nhật Bản lại bị phục kích. Thêm 2 chiến hạm cỡ lớn cùng tuần dương hạm Mogami bị đánh chìm. Lực lượng phía Nam của Hải quân Nhật Bản bị loại khỏi vòng chiến.

Cùng thời gian đó, các tàu trinh sát của Hạm đội 3 Hải quân Mỹ đã phát giác vị trí của lực lượng phía Bắc của Hải quân Nhật Bản. Tư lệnh Hạm đội 3,



Đô đốc William Hensley quyết định truy đuổi các tàu chiến Nhật Bản. Tuy nhiên, vị Đô đốc này không biết rằng khi Hạm đội 3 rời đi, một cánh của Vịnh Leyte đã sơ hở. Trận chiến giữa Hạm đội 3 và lực lượng phía Bắc diễn ra vào ngày 25-10. Với lợi thế máy bay chiến đấu hiện đại cùng các phi công lão luyện, quân đội Mỹ đã hoàn toàn chiếm thế chủ động. Đến cuối ngày, lực lượng phía Bắc của Hải quân Nhật đã thất bại với tất cả 4 hkmh bị đánh đắm.

Lợi dụng sơ hở do Hạm đội 3 để lại, lực lượng trung tâm Hải quân Nhật Bản đã tấn công vào quân Đồng minh trên đảo Leyte. Với ưu thế hỏa lực mạnh, các tàu chiến Nhật Bản ép Hạm đội 7 vào thế buộc phải rút lui. Nhưng cũng lúc đó, Hạm đội 3 đã bỏ dở việc truy đuổi tàn quân, về tiếp viện các lực lượng bảo vệ Leyte. Sử dụng sức mạnh máy bay chiến đấu vượt trội, Hải quân Mỹ đã dần chiếm lại ưu thế. Đến cuối ngày 26-10, thế trận ngã ngũ với sự rút lui của lực lượng trung tâm.

Tổng kết trận chiến trên Vịnh Leyte, Hải quân Nhật Bản đã thiệt hại hoàn toàn 4 hkmh, 3 chiến hạm cỡ lớn, 8 tuần dương hạm và 12 khu trục hạm cùng hơn mười ngàn binh lính. Trong khi đó, quân đội Mỹ chỉ thiệt hại 3 hkmh hạng nhẹ và 3 khu trục hạm cùng khoảng 1.500 lính.

Sau trận chiến trên Vịnh Leyte, Hải quân Nhật Bản đã gần như mất hết sức mạnh, không đủ sức thực hiện bất cứ một trận đánh lớn nào nữa cho đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc



Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu lịch sử, trận chiến trên Vịnh Leyte xứng đáng được gọi là trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử cận - hiện đại về tầm vóc cũng như ý nghĩa quan trọng của nó.

XEM VIDEO

HaichienvinhLeyte





Tổng hợp

Tro ve dau trang

=====================================

=================================================

Hãy đưa cộng sản ra tòa Hình Sự Quốc Tế


Liên Thành

Thư Ngỏ Gởi Thân Nhân Của Những Nạn Nhân Bị Thảm Sát Trong Biến Cố Mậu Thân 1968 tại Huế



Hãy trả lại công bằng và công lý cho 1.200 thường dân bị mất tích và 5.327 thường dân vô tội bị cộng sản đập đầu chôn sống, bắn giết, trong Tết Mậu Thân tại Cố Đô Huế năm 1968.



Đồng bào Huế hãy hợp tác với chúng tôi trong nỗ lực truy tố những kẻ sát nhân ra Tòa Án Hình Sự Quốc Tế về tội diệt chủng.



Liên Thành

Nguyên Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế

Địa chỉ liên lạc:

nguyenphuclienth...@gmail.com

biendongmỉentr...@yahoo.com

____________ _________ _________ _________ _________



Gần 42 năm trôi qua kể từ Tết Mậu Thân 1968, một quãng thời gian không phải ngắn cho một đời người, nhưng đối với người dân Huế và thân nhân của 5,327 nạn nhân trong cuộc tàn sát mà Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam ra lệnh cho Khu Ủy Trị Thiên qua Chính ủy mặt trận Huế là Lê Chưởng áp dụng biện pháp “Bạo lực cách mạng” hay “Bạo lực đỏ” tàn sát đẩm máu đồng bào Huế chỉ vì họ không tham gia cuộc “Tổng nổi dậy” do Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương thực hiện tại Cố đô Huế trong những ngày đầu xuân Mậu Thân 1968, thì bốn mưoi hai năm trôi qua quả quá ngắn để hàn gắn những đổ nát đau thương, những chua xót ngậm ngùi trong lòng mọi người dân Huế.

Biến cố lịch sử kinh hoàng nầy vẫn còn mới, còn đau và còn rỉ máu, bởi vì: nợ vẫn chưa được trả, công bằng và công lý vẫn chưa có.

Tôi, Liên Thành người đã có mặt trước, trong, và sau khi xẩy ra cuộc chiến Mậu Thân tại Huế, viết lại mấy dòng nầy, như là một bổn phận cho những người dân vô tội và chiến hữu của tôi đã ngã xuống trong biến cố đau thương nầy.



Mậu Thân 1968

Tháng 5 năm 1967, Hồ chí Minh chủ tọa phiên họp của Bộ chính trị trung ương đảng CS Việt Nam để duyệt xét tình hình và kế hoạch cho Chiến dịch đông xuân 1967-1968. Kế đến, từ ngày 20 đến ngày 24/10/1967, tại phiên họp của bộ chính trị, thay mặt Quân ủy trung ương, Tướng Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo chiến dịch Đông- Xuân- Hè 1967-1968. Bộ Chính trị CS quyết định mở cuộc công kích, tổng nổi dậy vào đúng Tết Mậu Thân 1968.

Như vậy cuộc TCK tổng nổi dậy đã được bọn chúng quyết định vào tháng 10/ 1967. Để đánh lừa, tạo yếu tố bất ngờ, HCM tráo trở đề nghị hưu chiến 7 ngày trong dịp Tết Mậu Thân, nhưng chính phủ VNCH chỉ chấp thuận 3 ngày mà thôi.

Những họat động của Việt Cộng trước khi bọn chúng phát động cuộc tổng công kích đã được BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế ghi nhận như sau:



Tin tình báo kỹ thuật

Khỏang từ ngày 10/12/1967, gần 20 ngày trước cuộc tấn công, cơ quan tình báo dân sự đồng minh đã có một lọat không ảnh chụp được tại những vùng núi phía tây thành phố Huế như vùng thượng nguồn sông Bồ, sông Hữu Trạch, Khe Trái, động Chuối[núi Kim Phụng], không ảnh cho thấy một số lượng đông đảo các đơn vị của Việt Cộng đang tập trung tại các vùng trên.

Tin tình báo kỹ thuật cũng ghi nhận một số điện đài của các đơn vị lớn VC đang họat động trong những vùng nầy.

Tôi đã được cơ quan tình báo dân sự đồng minh thông báo đầy đủ.

Đồng thời họ cũng yêu cầu tôi xử dụng lực luợng tình báo cơ hữu Cảnh Sát Đặc Biệt để phối kiểm và xác nhận thêm các tin tức trên.



Lực luợng CSĐB của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế, ngoài ngoài 13 ban đặc biệt của 13 quận thuộc tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, chúng tôi còn có những tóan tình báo xâm nhập vào hàng ngũ địch trực thuộc Ban Họat Vụ sau nầy gọi là G công tác. Tất cả những đơn vị tình báo nầy đều bá cáo về BCH tỉnh những tin tức tương tự giống nhau:

- Dân chúng những vùng D, F [lượng giá tình hình an ninh] điều được cơ sở VC địa phương thông báo “ Mọi gia đình trong vùng đều phải mua trữ lương thực, dự trữ thuốcc men, chuẩn bị cho một cuộc đánh lớn sắp xẩy ra.

- Một số cán bộ CS từ cấp huyện trở lên cũng đã đượcc lệnh rời khỏi địa bàn họat động lên mật khu hội họp.

- Thành phố Huế có 8 Chi bộ đảng CS và khỏang 80 cơ sở đảng bí mật đã có những họat động khác thường, bọn chúng tiếp xúc với nhau thường xuyên hơn.

- Các trạm giao liên nội thành có rất nhiều kẻ lạ xuất hiện.

- Nhiều cơ sở nằm vùng trong nội thành được điều động lên mật khu hội họp do Khu ủy Trị Thiên tổ chức. Bọn chúng rời thành phố vào đầu tháng 12/1967 và trở lại thành phố vào gần cuối tháng 12/1967.

Đương nhiên trong số những cơ sở lên lên họp trên mật khu có cơ sở nội tuyến của chúng tôi, vì vậy khi họ trở về chúng tôi nhận được bá cáo của họ như sau:

“Khóa học tập nầy có khỏang 300 cán bộ và khoảng 130 cơ sở nòng cốt nội thành. Nội dung học tập là phương thức phát động quần chúng nổi dậy tai nông thôn và đô thị. Nhiệm vụ của họ là sau khi trở về địa bàn họat động thành lập các đội công tác làm nòng cốt phát động quần chúng tổng nỗi dậy khởi nghĩa”.

Cũng cần nói rõ thêm trong số những cơ sở nội thành được điều lên mật khu có cả Giáo sư Đại Học Huế Lê văn Hảo và một số sinh viên đại học Huế, bọn chúng là cơ sở nội thành VC.

- Các thành phần tranh đấu năm 1966 thân cận của ông Thích Trí Quang đã thóat ly lên mật khu vào cuối tháng 6, tháng 7/1966, nay trong những ngày cận Tết đã đột nhập thành phố Huế và đang trú ẩn tại các căn cứ lõm của bọn chúng trong thành phố.



Căn cứ vào những sự việc nêu trên, cộng vào một số dữ kiện khác chúng tôi cơ quan tình báo CSQG Thừa Thiên-Huế và cơ quan tình báo dân sự Hoa kỳ sau khi đã phân tích, lượng giá tin tức chúng tôi cùng đi đến kết luận chung là:

Việt Cộng sẽ tấn công Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968.

Thế nhưng, cho đến ngày hôm nay, đã trên 42 năm trôi qua, câu hỏi mà nhiều người vẫn hỏi tôi:

“ Tại sao tin tức tình báo của CSQG và tình báo dân sự Hoa kỳ đầy đủ và chính xác như vậy mà thảm họa vẫn xẩy ra cho Huế:

VC tấn công và chiếm Huế 26 ngày, giết chết 5.327 thường dân vô tội, bắt đi mất tích 1.200 người. Tại sao?”

Có những điều sau đây có thể lý giải một phần nào:

- Bản chất người quốc gia quá thiệt thà, lương thiện, bị Hồ chí Minh và đảng Cộng Sản phỉnh gạt, lợi dụng hưu chiến 3 ngày. Chính quyền miền Nam cũng như đồng bào không thể ngờ Hồ chí Minh và đảng Cộng Sản tán tận lương tâm đến độ lợi dụng những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc bất thần xua đại quân chém giết đồng bào, sát hại sinh linh vô tội.

Muôn vạn đời sau, mỗi độ tết về, lịch sử lại nhắc rằng, bọn Cộng Sản Việt Nam đã vô lương tráo trở, cuồng sát đồng bào Huế trong Mậu Thân 1968.

- Các cấp chỉ huy đã thiếu trách nhiệm, không có kế hoạch phòng thủ Huế.

- Các cấp chỉ huy Tỉnh, CSQG, Tiểu Khu đã cho lệnh xả trại 50% quân số, nên khi bị địch tấn công, không đủ lực lượng để phản công.

- Quan trọng nhất là tin tức tình báo từ CSBĐ thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên Huế,một phúc trình rất đầy đủ đích thân tôi đưa trình cho Ông Truởng Ty Đòan Công Lập nhưng ta bị ông ta ém nhẹm. Lý do ông ta là cơ sở nội tuyến cho cơ quan tình báo Việt Cộng, cán bộ Việt Cộng chỉ huy ông ta là tên Trung Tá VC điệp viên Hòang Kim Loan. Khi tôi trình bản tin với một số biện pháp đề nghị thì ông Đòan Công Lập lý luận rằng:

“Loan tin nầy chỉ sẽ làm kinh động dân chúng, chắc gì có thật”.

Trong thời gian nầy chúng tôi và tóan cố vấn tình báo dân sự Hoa Kỳ đã phát hiện Đòan công Lập là nội tuyến, chúng tôi đang phối hợp mật theo dõi đương sự.

Theo nguyên tắc chỉ huy, tôi không thể vuợt quyền, nhưng vì tình hình đã quá khẩn cấp và nghiêm trọng, tôi trực tiếp gặp Trung Tá Phan văn Khoa Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên để cố thuyết phục ông ta phải có kế hoạch phòng thủ thành phố, còn nuớc thì vẫn còn phải tát. Nhưng rủi thay ông chỉ ừ hử cho qua chuyện mà không thèm để ý đến bản phúc trình của viên trung úy Phó Ty CSĐB mới 25 tuổi đầu non choẹt như tôi.

Kết quả Mậu Thân 1968 tại Huế thảm khốc hơn các nơi nào hết trên tòan cõi miền Nam Việt Nam với cái giá phải trả cho sự thiệt thà, ngây thơ, tắc trách, vô trách nhiệm, phản bội, của một số giới chức chính quyền Huế là:

5.327 thường dân vô tội bị Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tàn sát, bắt đi mất tích 1.200 người.

Thi hành chỉ thị tàn sát đồng bào Huế của Hồ Chí Minh và bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam ngoài Lê Chưởng còn có những nhân vật sau đây:



1- Đại tá Nguyễn Mậu Huyên tức Bảy Lanh, tức Nguyễn Đình Bảy truởng ban An Ninh Tỉnh ủy Thừa Thiên, Thị ủy Huế.

2- Đại Tá Lê Tư Minh tư lệnh mặt trận Huế

3-Tống Hoàng Nguyên Trưởng Ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên-Huế.

4- Hoàng Phương Thảo Thuờng vụ Thành ủy Huế..

5- Trung Tá điệp viên Hoàng Kim Loan, Thành ủy viên Thành ủy Huế phụ trách “Tổng nổi dậy”.



Họ xử dụng một số cơ sở nội thành Việt Cộng như :

1- Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tuờng,

2- Sinh viên Y khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan,

3- Nguyễn Đắc Xuân Sinh viên sư phạm ban Việt Hán,

4- Sinh viên luật khoa Nguyễn Thiết

5- Nữ Sinh viên dược khoa Nguyễn Thị Đoan Trinh,

6- Sinh viên Lê Hữu Dũng,

7- Nguyễn hữu Vấn, Giáo sư trường Quốc Gia âm Nhạc và kịch nghệ

8- Giáo sư Tôn Thất Duơng Tiềm, trường trung học Bồ Đề

9- Giáo sư Nhân chủng học thuộc viện Đại Học Huế Lê Văn Hảo 10- Cựu giám thị trường Quốc Học Huế Nguyễn Đóa cũng là cha vợ của Tôn Thất Duơng Tiềm.

11- Bà Đào thị Yến thuờng đuợc gọi là Bà Tuần Chi nguyên hiệu truởng truờng nữ trung học Đồng Khánh Huế.

12- Cha con ông Thiên Tuờng chủ tiệm thuốc Bắc tại vùng An Cựu. Ông Thiên Tuờng là cha nuôi Đại Tá Công An Việt Cộng Nguyễn đình Bảy tức Bảy Lanh từ lúc Bảy Lanh còn nhỏ.

13- Tên Nguyễn Bé thợ nề, chủ tịch khu phố tại Quận II, thị xã Huế.

14- Tên thầy bói Diệu Linh ở khu phố Gia Hội, Quận II thị xã Huế.

Và một số đông các cơ sở nội thành của Việt Cộng nằm vùng từ lâu trong học sinh, sinh viên, công chức, cảnh sát, tiểu thuơng, thuơng gia.

Đặc biệt những kẻ đội lốt tu hành như Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật Giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh, trụ trì chùa Linh Mụ, Thích Thiện Siêu Chùa Từ Đàm v.v…



Để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy tại Huế, vào ngày 21 tháng 1 năm 1968 trước trận đánh Mậu Thân, Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gởi mật điện cho Trung ương Cục Miền Nam, Khu Ủy khu 5, và Khu ủy Trị Thiên-Huế yêu cầu Phạm Hùng, Võ Chí Công, Tướng Trần văn Quang thành lập mặt trận chính trị thứ hai lấy tên là Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Tổ chức chính trị nầy được dựng lên nhằm phân hóa chính quyền miền Nam, tập hợp những cá nhân chống chính quyền miền Nam, chống Mỹ cũng như bất cứ tầng lớp dân chúng nào họ có thể lối kéo.

Tại Trị Thiên-Huế, Liên minh này đuợc Thiếu Tuớng Trần văn Quang Tư Lệnh chiến truờng Trị Thiên-Huế và Lê Chưởng Chính ủy chiến trường cho lệnh thành lập truớc ngày giờ tấn công Huế, với thành phần gồm có:



1- Chủ Tịch

Ông Lê Văn Hảo, giáo sư Nhân Chủng Học Viện Đai Học Huế

2- Phó chủ Tịch

Ông Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh.

3- Tổng thư Ký

Ông Hòang Phủ Ngọc Tường nguyên giáo sư Trường Quốc Học. Đương sự cùng với em ruột là Hòang Phủ Ngọc Phan thoát ly lên mật khu vào tháng 6/1966 sau vụ tranh đấu của Thích Trí Quang tại miền Trung.

4- Phụ trách Học Sinh, Sinh Viên Giải Phóng

Ông Nguyễn Đắc Xuân nguyên Sinh viên Đại Học Sư Phạm ban Việt Hán. Đương sự thóat ly lên mật khu vào tháng 7 năm 1966 sau vụ tranh đấu vào tháng 6/1966 của Thích Trí Quang.



Ngoài ra trong suốt hai mươi sáu ngày Việt Cộng chiếm Huế, Ông Lê Văn Hảo còn được giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế. Bà Đào Thị Xuân Yến tức Tuần Chi giữ chức Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế. Sinh viên Nguyễn Đắc Xuân giữ chức vụ Trưởng Đòan An Ninh và bảo vệ khu phố hay gọi là Đội tự vệ thành. Các nhân vật Hòang Phủ Ngọc Phan, Tôn Thất Dương Tiền, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Dũng, Nguyễn Thiết, Nguyễn Đóa v.v… đều ở trong đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân.

Ngoài ra Nguyễn Đắc Xuân còn đứng ra tổ chúc đòan Nghĩa Binh Cảnh Sát và giao cho Ông Nguyễn Văn Cán Quận Trưởng CSQG nguyên là Trưởng Ty CSQG Thị Xã Huế làm Truởng Đòan, và đòan Nghĩa Binh Quân nhân.



Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được Hoàng Lanh và Trung Tá Hòang Kim Loan Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế bổ nhiệm Chủ Tịch Tòa án Nhân Dân tại truờng tiểu học Gia Hội thuộc Quận II thành phố Huế. Nguyễn Đắc Xuân và Hòang Phủ Ngọc Phan được giữ chức Chủ Tịch Tòa Án Nhân dân tại Quận I trong Thành Nội Huế.



Rạng sáng mồng hai Tết Mậu Thân, đúng 2 giờ 33 phút, khởi đầu của 624 giờ đau thương, kinh hoàng. Từ rừng núi phía tây tràn vào, họ là “Quân Đội nhân Dân”, là “Quân Giải Phóng”, là những tên nằm vùng, những kẻ trí thức, giáo sư, sinh viên đã một thời tham gia trong phong trào tranh đấu Phật Giáo năm 1966. Họ đã thóat ly lên mật khu từ độ đó, nay theo lệnh của ông Hồ Chí Minh, của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam trở lại Huế với guơm đao búa liềm, với mã tấu, với Ak47, với B40, bắn sập thành phố, thẳng tay chém giết hằng loạt dân lành vô tội nhằm trả mối hận xưa, để “giải phóng “ đồng bào Huế. Và Huế trong 624 giờ đồng hồ, đã trải qua từng giây một,từng phút một, từng ngày một với những tang tóc điêu linh, những máu
và nuớc mắt của hằng chục ngàn ngừoi dân bỡ ngỡ, ngơ ngác trước sự hiện diện của cái ác không ai ngờ tới.



Trong trận Mậu Thân, cộng quân đã tung vào chiến trường Huế gần 10 ngàn quân trong đó có 4700 quân chính quy Bắc Việt. Số còn lại là quân MTGPMN, du kích của các Huyện, và đám cơ sở nằm vùng, những lực lượng của ông Thích Đôn Hậu và Thích Trí Quang trong vụ tranh đấu năm 1966.



Mười ngàn quân nầy không phục vụ dưới ngọn cờ đỏ sao vàng, cũng chẳng phục vụ dưới bóng cờ của MTGPMN mà phục vụ dưới ngọn cờ của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Hòa Bình do Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam mới thành lập mà Chủ tịch là giáo sư Lê văn Hảo, Phó chủ tịch là Thích Đôn Hậu, tổng thư ký là Hoàng Phủ Ngọc Tường và phụ trách học sinh, sinh viên trí thức là Nguyễn Đắc Xuân.



Bọn nằm vùng địa phương đã phối hợp với cộng quân để gieo rắc đau thương cho đồng bào Huế trong 624 giờ kinh hoàng đó. Huế đã dìu nhau chạy trốn trong bước chân khập khiễng và nỗi kinh hòang. Có thể nói ở Huế lúc đó mỗi thước đất là một thây người, là một vũng máu tươi chưa kịp đổi màu. Huế ngập trong thây người và biển máu, từ bờ cây bụi cỏ, đường lớn đường nhỏ, từ trong nhà ra đến sân, sân trước, sân sau!



Sáng ngày mồng hai, trời chưa sáng hẳn, một số lớn gia đình trong ba quận đã bị Việt Cộng và đám chỉ điểm xông vào từng nhà lục sóat tìm kiếm những “ công an, cảnh sát, ngụy quân, ngụy quyền” đang ẩn trốn đâu đó, và hằng loạt súng đã nổ bắn vào họ, nhưng người đang cố gắng trốn tránh, đào thóat khỏi nhà, tìm đường về đơn vị.



Khoảng 6 giờ sáng, suơng chưa tan, trời trở lạnh và thấp, Huế bật khóc trong nghẹn ngào, đau đớn, khi trên kỳ đài Phú văn Lâu lá quốc kỳ không còn đó nữa. Thay vào đó là một lá cờ gồm 3 mảnh: Hai mảnh hai bên màu xanh nhạt, mảnh giữa màu đỏ có ngôi sao vàng. Dân chúng Huế cứ ngỡ là cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Thật tình không phải, cờ MTGPMN chỉ có 2 mảnh, một mảnh màu xanh nhạt, một mảnh màu đỏ giữa có ngôi sao vàng. Lá cờ treo trên Kỳ Đài Ngọ Môn là cờ của Liên Minh các Lực Lượng Dân tộc, Dân Chủ và Hòa Bình.



Ngày mồng hai Tết, dân Huế bắt đầu chạy giặc từ 7 giờ sáng. Họ bỏ lại tất cả để chạy trốn. Nhà cửa tài sản bỏ lại đã đành, ngay quần áo cũng không kịp mang theo, thức ăn, nuớc uống cũng quên, chỉ mong rời khỏi nhà càng sớm càng tốt. Già trẻ, lớn bé, cha mẹ, con cái dắt dìu nhau tìm đường chạy trốn. Bọn Việt Cộng nổ súng vào đoàn người đang hỗn loạn, hốt hoảng chạy tìm nơi bình yên trú ẩn. Thây người ngã ngục, máu đào dân lành tuôn rơi, tô đỏ cờ sao vàng của đảng Cộng Sản Việt Nam.



-Tại vùng Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm dân chúng kéo nhau chạy trốn lên vùng nhà máy nước Vạn Niên gần đồi thông Quảng Tế sát cạnh chùa Từ Hiếu.Có nhiều đòan người chỉ đi được nửa đường thì bị bọn Việt Cộng pháo kích chận lại, nên đành phải quay trở về.



- Tại làng Phú Cam, lực lượng địch đã vây kín, dân chúng kéo nhau vào trú ẩn tại nhà thờ chánh tòa Phủ Cam.



- Riêng tại Quận III Thị xã Huế, từng đòan người từ vùng cầu Kho Rèn, dọc đường Phan Đình Phùng, vùng An Cựu và xóm đạo dòng Chúa Cứu Thế, kéo nhau chạy trốn vào nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế, trường trung học Thiên Hựu..



- Dân cư vùng cầu số 7, vùng Hàng Me, khu vực Đập Đá, khu trường trung học Nguyễn Tri Phuơng kéo chạy vào trú tại trường trung học Kiễu Mẫu nằm sát cạnh Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế và BCH/Tiểu Khu.

- Tại Quận II thị xã Huế, một số ít dân chúng chạy trốn vào chùa Diệu Đế, chùa Ông, chùa Áo Vàng, trường trung học Gia Hội, đại đa số dân chúng còn lại trốn tại nhà.



- Tại Quận I thị xã Huế, dân chúng đều tìm đường chạy trốn về trú ẩn vùng Câu Kho, Mang Cá nơi có Bộ Tư Lệnh Sư Đòan I Bộ Binh của Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng che chở cho họ.



Trời đất như báo hiệu cho biết những ngày tang tóc của Huế đã bắt đầu đến. Không như năm trước, năm nay trời trở lạnh nhiều và cơn mưa phùn đã bắt từ ngày mồng hai Tết, kéo dài trong suốt 26 ngày, thời gian chiến cuộc tại Huế. Bầu trời u ám , mây xám đặc phủ cả thành phố. Huế trong cơn mưa lạnh giá buốt của đất trời, và trong nỗi sợ kinh hãi của người dân đang chạy giặc.



Súng nổ từ khuya đến suốt ngày mồng hai Tết, và vẫn tiếp tục nổ…Lâu lâu trên bầu trời xám xuất hiện một chiếc máy bay quan sát L-19, hoặc môt chiếc trực thăng bay thật cao lạc lõng giữa bầu trời cố đô Huế, lập tức hằng lọat súng của Việt Cộng từ mọi nơi trong thành phố bắn lên máy bay. Hằng trăm, hằng ngàn lọat đạn nổ rền làm tăng thêm nỗi thất vọng của mọi người.

Trong khi lực luợng quân sự của Việt Cộng đang tấn công vào những vị trí quan trọng trong thành phố, thì bộ phận chính trị, an ninh của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Quân Khu Trị Thiên-Huế phối hợp với ban An ninh Tỉnh Ủy, Thị Ủy Thừa Thiên-Huế cùng đám Việt Cộng nằm vùng bắt đầu tắm máu, tàn sát dân Huế.

Toàn bộ lực luợng an ninh do hai cán bộ cấp Khu chỉ huy là Tống Hoàng Nguyên, và phụ tá là Đại tá Công An Nguyên Đình Bảy tức Bảy Lanh .



Về chính trị, thành ủy viên Hòang Kim Loan và Hoàng Lanh phụ trách thành lập chính quyền Cach Mạng tại Huế và phát động quần chúng thực hiện cuộc “tổng nổi dậy”.

Cả hai nhóm an ninh và chính trị nầy hoạt động song hành và kết hợp với lực lượng cơ sở nội thành gồm thành phần trí thức , sinh viên, những thành phần đã từng tham gia trong phong trào dấy lọan của ông Trí Quang, Đôn Hậu vào năm 1966. Những thành phần nầy tạo thành một lực luợng hùng hậu và sắt máu nhất, bọn chúng đã tàn sát dân Huế không một chút nuơng tay.



Ngay từ rạng sáng ngày mồng hai Tết, lực lượng an ninh Khu Ủy Trị Thiên và tỉnh thị ủy Thừa Thiên-Huế đã bắt một số ngừoi mà bọn chúng đã có sẵn danh sách và đem giam tại Tòa Đại Biểu chính phủ VNCH tại đường Lê Lợi thuộc Quận III thị Xã Huế.

Sáng ngày mồng ba Tết tức ngày 3 tháng 2 năm 1968 dương lịch, Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh, Hoàng Kim Loan, nhận lệnh trực tiếp từ Lê Chưởng, chính ủy mặt trận Huế bắt đầu thi hành Nghị quyết của Bộ chính trị là “tổng nổi dậy, thiết lập chính quyền cách mạng”. Thành lập mặt trận thứ 2 lấy tên là Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình [Mặt trận thứ nhất là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam] và lùng diệt, truy quét thành phần ác ôn, tàn binh “ngụy”, Công an Cảnh sát “ngụy”, các thành phần tay sai làm cho tình báo CIA.

Đây là những chi tiết được biết sau nầy theo lời khai của Thành ủy viên Hòang Kim Loan bị Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế bắt vào mùa hè đỏ lửa tháng 5/1972.



Phân công của các cán bộViệt Cộng

1- Thành lập chính quyền cách mạng cấp quận, tỉnh và chuẩn bị “tổng nổi dậy” người lãnh đạo và phụ trách hai công tác nầy là Thành ủy viên Hòang Kim Loan và Hòang Lanh.

Sáng ngày mồng hai Tết, sau buổi mít tinh tại Quận I và Quận II ,với đám cơ sở nằm vùng, Hòang kim Loan và Hòang Lanh để cử hai cơ sở nằm vùng của bọn chúng nắm giữ chức vụ Ủy ban Nhân dân Cách mạng Quận I và II:



1- Nguyễn Hữu Vấn, giáo sư trường Quốc Gia Âm nhạc và Kịch nghệ làm chủ tịch Ủy Ban Nhân dân Cách mạng Quận I



2- Nguyễn Thiết chủ tịch UBCM quận II.

Nguyễn Thiết vuợt tuyến vào Nam nắm 1957. Sau đó học luật. Thành viên trong ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Đại học Huế. Là Cán bộ Cộng Sản nằm vùng trong Tổng Hội Sinh viên Đại Học Huế từ lâu.



3- Tại Quận III.

Đại Tá Công An Nguyễn đình Bảy tự Bảy Lanh kiêm nhiệm chức vụ Chủ Tịch ủy ban Nhân dân Cách mạng Quận III.



4- Chính quyền Ủy Ban Nhân dân Cách mạng tỉnh.

- Chủ tịch ủy ban Nhân dân Cách Mạng Thừa Thiên –Huế : Giáo sư Nhân chủng học thuộc viên Đại Học Huế, Lê văn Hảo.

Lê văn Hảo là một trong những thành phần tranh đấu tích cực của ông Thích Trí Quang vào năm 1966.

Giáo sư Lê văn Hảo là cơ sở Trí vận dứới sự điều khiển của Thành ủy viên Hòang Kim Loan.

- Phó chủ tịch là bà Đào thị Yến tức bà Tuần Chi, nguyên hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh Huế, cũng là cơ sở trí vận dưới quyền điều khiển của Hoang Kim Loan.

- Đồng phó chủ tịch là thường vụ Thành ủy Hòang Phương Thảo.



Liên Minh Các Lực Lượng Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình tại Huế

- Chủ tịch : Giáo sư Lê Văn Hảo.

- Phó chủ tịch: Thích Đôn Hậu.

Thích Đôn Hậu là cơ sở tôn giáo vận của thanh ủy viên Hoang Kim Loan.

Thích Đôn Hậu trù trì chùa Linh Mụ, là Chánh Đại Diện Phật giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh.

- Tổng thư ký: Giáo sư Hoang Phủ Ngọc Tuờng

- Phụ trách học Sinh Sinh Viên, các thành phần trí thức : Nguyễn Đắc Xuân.



Theo đài phát thanh Hà Nội, phát đi bản tin vào ngày mồng 3 Tết, tức là ngày 1tháng 2 năm 1968 thì đây là một lực lượng kết hợp nhân sĩ, trí` thức, học sinh, sinh viên và tôn giáo[Phật Giáo] yêu nước vừa mới thành lập tại Huế nhằm đứng dậy chống đế quốc Mỹ và đám tay sai bọn “ ngụy quân, ngụy quyền”.

Lùng, diệt, truy quét ác ôn, tàn binh “ngụy”, tay sai CIA.

Ngoài ra, thi hành chỉ thị của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam và Lê Chưởng Chính Ủy mặt trận Huế, Tống Hòang Nguyên

Trưởng ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên, và Đại Tá Công An Nguyễn Đình Bảy trưởng Ban An Ninh Thưa Thiên-Huế đã ra lệnh cho Nguyễn Đắc Xuân thành lập 3 lực luợng để phối hợp hành động với ban An Ninh Khu và Tỉnh, Thị là:

1- Lực Luợng Nghĩa Binh Cảnh Sát.

2- Lực lượng Nghĩa Binh Quân Nhân

3- Các Đội Tự Vệ thành.



- Lực Lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát.

Nguyễn Đắc Xuân giao lực lượng nầy cho Ông Nguyễn văn Cán nguyên Ty CSQG thị xã Huế chỉ huy. Cũng cần phải nói rõ thêm, Nguyên Văn Cán ngạch Quận Trưởng Cảnh Sát VNCH. Là tay chân thân cận của Ông Thích Trí Quang, trong suốt thời gian tranh đấu của Thích Trí Quang và 1966, Quận Cán được bổ nhiệm trưởng Ty CSQG thị xã Huế.

Quận truởng CSQG nguyễn văn Cán cũng là cơ sở Việt Cộng nội thành Trung Tá điệp viên Cộng Sản Hòang Kim Loan là cán bộ điều khiển của Quận Cán. Ngoài ra theo lời khai của Hoàng Kim Loan, chính y và thành ủy viên Hoàng Lanh cũng đã nhiều lần trú ngụ tại nhà Quận Cán.

Lực lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát chỉ là hữu danh vô thực trong suốt thời gian Việt Cộng chiến Huế chẳng quy tụ được nhân viên Cảnh sát nào cả..



- Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân

Nguyễn Đắc Xuân giao cho Đại Úy Nguyễn Văn Lợi Sĩ quan QLVNCH. Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân nầy ngòai Đại Úy Lợi ra còn có được khỏang 10 tên Lao công đào binh gia nhập.

Chúng tôi không có một tin tức nào ghi nhận mọi họat đông của hai lực lương nầy trong thời gian đó.



- Đội tự vệ Thành

Trực tiếp chỉ huy là Nguyễn Đắc Xuân, đoàn viên là những thành phần tranh đấu trong vụ tranh dấu 1966 của ông Thích Trí Quang, một số thóat ly lên mật khu vào tháng 6, 7/1966 khi phong trào tranh dấu của ông Thích Trí Quang thất bại, một số bị bắt ở tù ra tái hoạt động trở lại, số khác là cơ sở nằm vùng trong mọi thành phần quần chúng tại Huế như: Giáo sư , học sinh, sinh viên , tiểu thuơng v.v…



Đội tự vệ Thành của Nguyễn Đắc Xuân là lực luợng nguy hiểm nhất, bọn chúng phụ trách chỉ điểm, bắt bớ và hành quyết dân chúng , dân, quan, cán, chính VNCH .

Hầu hết những người bị bắt, bì hành hình, bị bắn, bị chôn sống trong thành phố suốt 26 ngày đều do Nguyễn Đắc Xuân và lực lượng của y thực hiện theo chỉ thị của đảng CSVN



Tóm lại, Lực lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát, Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân, Lực Luợng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình mà Hồ chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam trình làng quốc nội và quốc tế trong tết Mậu Thân tại Huế với 2 mục đích rõ rệt:



1- Dùng các lực lượng nầy để lôi cuốn quần chúng Huế tham gia vào cuộc “Tổng nổi dậy”.. Một hình thức như năm 1966 khi bọn chúng kết hợp với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu gây ra vụ biến động miền Trung. Còn nhớ bọn chúng và Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân đã thành lập Chiến đòan Quân Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức, lực lượng Cảnh Sát Phật Tử, lực lượng Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử v.v…Tóm lại là bình mới nhưng rượu cũ.



2- Ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã tráo trở bỉ ổi đánh lừa dư luận quốc tế:

Đã có cuộc Tổng nổi dậy tại Huế, dân chúng đã tự động thành lập các lực lượng trên, đã tham gia đông đảo từ quần chúng, trí thức ,sinh viên, đến Quân Đội, Cảnh Sát Quốc Gia, tất cả đồng đứng lên chống Chính phủ trung ương Saigòn, chống đế quốc Mỹ xâm lược.



Nhưng ông Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam đã uớc tính và đánh giá sai lầm nên đã bị thất bại nặng nề trong âm mưu nầy: Dân chúng miền Nam thấy rõ, Quốc tế thấy rõ, Huế chẳng có cuộc Tổng nổi dậy nào của quần chúng Huế trong Tết Mậu Thân 1968, mà lực lượng Quân Đội Nhân Dân, quân Giải Phóng, của ông Hồ đến vùng nào, chiếm vùng nào thì dân Huế kinh sợ bỏ trốn, rời khỏi vùng đó bằng mọi giá.



Thất bại vì không thể lôi cuốn dân chúng Huế theo chúng, không thể phát động cuộc Tổng nỗi dậy, Ông Hồ và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định áp dụng “Bạo lực Cách mạng” hay “Bạo lực đỏ” để hăm dọa , trừng trị dân chúng Huế.



Trách nhiện thi hành Bạo lực Cách mạng được giao cho Ban An ninh Quân Khu Trị Thiên, ban An ninh Tỉnh Thị ủy Thừa Thiên-Huế, hai cơ quan an ninh nầy phối hợp chặt chẽ với các Đội Tự Vệ Khu Phố do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, đòan viên của các đội Tự Vệ, những thành phần chủ chốt và sắt máu gồm có:



1- Các cơ sở nằm vùng từ lâu trong quần chúng thuộc các Quận I, II, III trong thành phố Huế.

2- Các thành phần trong Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo năm 1966 của ông Thích Trí Quang đã thoát ly lên mật khu nay trở lại thành phố.

3- Những cơ sở bí mật nội thành như:

- Hòang Phủ Ngọc Tường Giáo Sư Quốc Học

-Hòang Phủ Ngọc Phan, Sinh viên Y Khoa Đại học Huế.

- Nguyên Đóa cựu Giám thị trường Quốpc Học

- Nguyễn Thị Đoan Trinh [con gái của Nguyên Đóa] Sinh viên Duợc Khoa Đại Học Sàigon.

- Tôn Thất Dương Tiềm, Giáo sư Trường Trung Học Bồ Đề[ Con rể của Nguyễn Đóa]

- Nguyễn Thúc Tuân nhân viên nhà thuốc Tây Tràng Tiền, Huynh Trưởng Hướng Đạo

- Lê hữu Dũng sinh viên đại học Sàigon, con trai của Lê Hữu Tý cơ sở kinh tài thuộc Thành Ủy Huế.

- Nguyễn Tròn bồi bàn tiệm ăn Quốc Tế tại đường Phan bội Châu, Huế.

- Nguyễn Bé, thợ nề tại Quân II thị xã Huế.

- Tên Gù tại tiệm bán thuốc lá cẩm lệ, Quận II thị xã Huế.

- Tên Trần Văn Linh, tức tên thầy bói toán Diệu Linh thuộc Quân II thị xã Huế.

- Chũ Tiêm thuốc Bắc Thiên Tuờng và hai người con trai là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn.

Và… còn quá nhiều…. mà trí nhớ tôi không đủ sức nhớ hết.



Các Đội Tự Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân duợc rải đều khắp 3 quận, đặc biệt là Quận I, và Quận II thị xã Huế. Đây là một lực luợng sắt máu và tàn bạo nhất, bọn chúng chính là thủ phạm của những vụ chỉ điềm, bắt bớ, sát hại hằng trăm, hàng ngàn đồng bào vô tội ở Huế.

Những nhân vật chủ chốt trong việc thi hành lệnh “Bạo Lực Cách Mạng hay Bạo Lực Đỏ” gồm:



1- Lê Chưởng Chính Ủy mặt Trận Huế

2- Đại Tá Lê Tư Minh Tư Lệnh mặt trận Huế.

3-Tống Hòang Nguyên: Trưởng Ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên

4- Đại Tá Công an VC Nguyễn Đình Bảy tự Bảy Lanh Trưởng ban an ninh tỉnh thị ủy Thừa Thiên –Huê.

5- Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thành ủy viên Thành ủy Huế.

6- Hoang Lanh Thanh Ủy viên thành ủy Huế.

7- Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Tổng thư Ký lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Binh.

8- Nguyễn Đắc Xuân, phụ trách học sinh, sinh viên, thành phần trí thức của lực lượng Liên Minh Dân Chũ dân Tộc Hòa Bình.

8- Nguyễn Thiết Chủ tịch Quận II.

9- Nguyễn Hữu Vấn, chủ tịch Quân I.

Kế hoặch được chia làm 3 giai đọan hết sức tinh vi:



Giai đọan I: Đợt trình diện lần thứ I

Đại lực lượng nầy chia thành nhiều toán nhỏ rải đều trong 3 quận thành phố Huế, bọn chúng đi lục sóat từng nhà , từng gia đình, kêu gọi tàn binh, Ngụy quân, Ngụy quyền, Cảnh sát, Công An Ngụy ra trình diện và giao nạp vũ khí để được khoan hồng.

Ngòai ra trong khi lục sóat từng gia đình bọn chúng đã bắt một số người mà bọn chúng đã có danh sách từ truớc.

Trong đợt trình diện lần thứ I nầy, đã có một số ít công chức , quân nhân, CSQG trốn tại nhà đã ra trình diện. Họ được bọn chúng cấp giấy đã trình diện và có quyền đi lại trong khu vực, từng người một nhận giấy chứng nhận ra về, chẳng gặp trở ngại nào cả.



Giai đoạn II: Đợt trình diện lần thứ II

Lời kêu gọi trình diện và giao nạp vũ khí vẫn tiếp tục, những ngừoi còn trốn chưa ra trình diện thấy những kẻ đã trình diện đợt I bình yên vô sự trở về nhà, lại còn được cấp giấy tự do đi lại n nên họ theo ra trình diện và họ cũng đã được bọn chúng cấp cho một giấy như vậy và cũng đã được bọn chúng cho tự do yên ổn trở về nhà.



Giai Đọan III: Đợt trình diện lần thứ III

Những người còn nghi ngờ lẩn trốn chưa ra trình diện hai lần trước, nay thấy hai đợt trình diện vùa rồi mọi người đều được tự do ra về và con được cấp giấy đi lại trong vùng, vì vậy họ không còn nghi ngờ gì nữa nên quyết định ra trình diện.

Cũng như hai đợt trước, họ được bọn chúng cấp giấy và tự do ra về…



Thế nhưng, tất cả đã lầm, tất cả đã lọt vào bẫy của bọn chúng …

Chỉ vài ngày sau, lực luơng an ninh, cơ sở nằm đi lục xét từng nhà và yêu cầu những ai đã đi trình diện trong ba đợt vừa rồi phải trình diệntại các địa đểm trong thành phố mà chúng đã ân định để học tập.



Tin tuởng như ba đợt trình diện vừa rồi, đi rồi lại về, mọi người kéo nhau đi…

Nhưng rồi, vợ con trông đợi, cha mẹ mong chờ. Đêm qua đêm, ngày qua ngày, tháng qua tháng, những người ra đi sẽ không bao giờ trở lại…Vĩnh viễn không trở lại, ngàn đời vĩnh biệt…



Tất cả đã chết, Tất cả đã bị chôn sống, tất cả đã bị bọn Việt Cộng không dùng súng đạn, mà dùng vật cứng đánh vào đầu và lấp xuống hầm sâu hố cạn tại một vài nơi trong thành phố Huế và một số lớn tại các quận Huơng Trà, Phú Vang, Phú Thứ, Huơng Thủy, Nam Hòa v.v…



Tất cả nạn nhân Mậu Thân họ đã không may mắn được chết như Trịnh Công Sơn viết trong bài hát phản chiến: “Không hận thù nằm chết như mơ”, mà họ đã chết trong tư thế hai tay bị tróibằng đủ tất cả các loại dây, dây điện thọai, dây kẽm gai, bị nghẹt thở và chết trong nỗi hãi hùng, uất hận tột độ.

Tôi chợt nhớ đến hai bài hát Trịnh Công Sơn viết về Mậu Thân, mà từ ngày nó ra đời sau tết Mậu Thân đến bây giờ, tôi vẫn băn khoăn không tài nào hiểu nỗi tại sao nội dung của nó lại có nhiều điều mâu thuẫn như vậy, hay là tôi không đủ thâm thúy để hiểu? Đó là bài “ Hát trên những xác người” và bài” Bài ca dành cho những xác người”..

Trong 2 bài hát nầy, Trịnh Công Sơn không hề đá động gì đến thủ phạm đã gây ra cảnh tàn ác nầy, cũng như niềm đau của nó đối với thân nhân ở lại, và hậu quả của nó đối với đất nuớc, đối với lịch sử.

Từ nhỏ chúng ta đếu được dạy câu” một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, thì Trịnh Công Sơn lại thấy vui hiện tạivà những hứa hẹn trong tương lai qua hai bài hát về Mậu Thân như sau:

“Mẹ vỗ tay reo mừng xác con”

“Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh”

“Chị vỗ tay hoan hô hòa bình”

Mẹ reo mừng xác con? Thật vậy sao? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!

Là phó Trưởng Ty CSĐB có mặt trong cuộc chiến Mậu Thân1968 và sau đó chỉ huy công tác điều tra tội ác giết người của Cộng Sản lúc bấy giờ, tôi chỉ thấy toàn những người mẹ già, trẻ, gào thét ngất lịm bên xác con, chồng, thân nhân, trong không gian u ám, chết chóc kinh hoàng của Huế, Mậu Thân 1968.

Trịng Công Sơn ông ta đã chứng kiến cả trời, cả đất, cả người xứ Huế sụt sùi trong bi thảm như sau:

“ Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người, tôi đã thấy,trên con đường, người ta bồng bế nhau chạy trốn,..Chiều đi qua Bãi Dâu hát trên những xác người tôi đã thấy những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em”

Và rồi nữa:

“Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng, trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co…Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh nầy, bên xác người già yếu, có xác còn ngây thơ. Xác nào là em tôi dưới hố hầm nầy, trong những vùng lửa cháy, bên những vồng ngô khoai. Xác người nằm bên nhau, treo trên gầm cầu, trong góc nhà đổ nát, dưới những hào thông sâu. Xác người còn xương khô, trong khắp bụi bờ, sau những hè phố vắng, trên dốc đường mấp mô…”

Trịnh công Sơn đã ghi nhận cảnh tượng Mậu Thân tại Huế một cách chính xác, nhưng cảm xúc của cá nhân ông trước tai họa nầy lại là điều tôi mãi mãi băn khoăn thắc mắc: Những chết chóc gây ra bởi Cộng Sản tại Huế là tiền đề cho mùa xuân? Để nuôi thơm và thêm hơi cho đất? cho mạ tươi reo vui? Theo ông cái chết của đồng bào Huế ngày nào đó là những hy sinh cho mai hậu? cho đường đi tới? cho tương lai? Tương lai nào đây? Tuơng lai sống với Cộng Sản chủ nghĩa, thế giới đại đồng? Hả ông Trịnh Công Sơn?

Không thể chấp nhận rằng cái chết của những ngưởi dân vô tội bởi bàn tay Cộng Sản trong tết Mậu Thân 1968 là những hy sinh để cho đất nước có được tương lai tươi sáng, như nội dung bài hát của ông. Điều nầy cũng chẳng khác nào bọn Cộng Sản nói rằng, những cái chết của những thanh niên miền Bắc theo lệnh Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản vào miền Nam là những hy sinh cho đất nước. Thực chất đó là những cái chết oan khiên, bị lừa bịp, chỉ nhằm đem lại quyền lực cho bọn mưu đồ tội ác, và bán nước.

Trịnh Công Sơn viết:

“Mùa xuân ơi, xác nuôi thơm cho đất ruộng cày, Việt Nam ơi, xac thêm hơi cho đất ngày mai, đường đi tới, dù chông gai đã có người.

Ngày mai đây xác lên cây trên khắp ruộng nầy, ngày mai đây, xác reo vui những khóm mạ tươi, đồng lúa mới, người ra đi, dựng tương lai, với tay đầy…”

Tôi suy nghĩ mãi ngần ấy năm, vẫn không sao hiểu được. Hàng ngàn cái chết thê thảm như thế lại có thể làm niềm vui và tương lai đất nước? Làm sao có thể cắt nghĩa cho sự tương quan giữa cái chết thê thảm của tổng cộng 5.327 nạn nhân và sự hoang tàn của Huế là tiền đề để họ Trịnh phấn khởi mai sau?

Ai có thể luận giải giùm?

Trong cái mớ tư tưởng lập lờ ám muội đó, tôi không rõ ông ta muốn nói ai, phía nào là phía “vỗ tay cho thêm thù hận”? phía nào là phía “vỗ tay xa dần ăn năn”? phải chăng với ngôn ngữ mập mờ nầy, ông muốn cùng phe với đám cộng sản Bắc Việt và cộng sản nằm vùng, bạn của ông như Nguyễn Đắc Xuân, anh em Hòang Phủ, Ngô Kha v.v… đổ tội cho VNCH chăng ? bởi vì chính cộng sản và đám nằm vùng ở Huế đã tỉnh bơ, bóp méo, cáo buộc vụ tàn sát dã man, tồi tệ nầy cho quân đội VNCH, cho bom đạn của Mỹ Ngụy. Tôi có lời khuyên với bọn cộng sản chính thống và bọn Việt Cộng đầy tớ nằm vùng ở Huế rằng, nếu có điêu ngoa, thì hãy điêu ngoa như thế nầy mới là sư tổ: “ Các quân nhân VNCH đã đập đầu chôn sống đồng bào Huế.”

Thực tế, không ai khác hơn là đám VC nằm vùng của Trịnh Công Sơn như: Anh em Hoàng Phủ, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Khắc Cầm, Hòang văn Giàu, Tôn Thất dương Tiềm, Nguyễn Đóa, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…là những thủ phạm trực tiếp nhúng tay vào máu đồng bào Huế. Nhưng điều đau lòng hơn nữa là sau biến cố thê thảm nầy, Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục giao du và nối giáo cho cộng sản.

Trịnh Công Sơn đã thóa mạ đời sống tại miền Nam là nghẹt thở và phi nghĩa, ước ao có ngày thấy được chủ nghĩa cộng sản hòan hảo trên quê hương qua lá thư Trịnh gởi cho Ngô Kha, giao cho Nguyễn Khắc Cầm đăng lén trên báo “Đứng Dậy” của cái gọi là “thành phần thứ ba”. Trịnh Công Sơn đã đau đớn thương tiếc tên VC nằm vùng bị mất tích Ngô Kha, nhưng số phận của 5.327 thường dân vô tội bị bọn chúng thảm sát và 1200 người bị bọn chúng bắt đi mất tích trong Mậu Thân 1968 sao không thấy nói đến? Có chăng chỉ là điều Trịnh Công Sơn nói nguợc:” Mẹ vỗ tay reo mừng xác con”.

Tóm lại, câu hát “ người vỗ tay cho thêm hận thù, người vỗ tay xa dần ăn năn”, có lẽ ông muốn dành cho đối thủ của ông những người cầm súng chiến đấu chống lại các ông để bảo vệ dân lành, bảo vệ đất nước khỏi thảm họa Cộng Sản, chứ tôi không nghĩ rằng những câu hát đó ông dành cho các đồng chí của ông.

Cũng trong thời gian nầy, tại vùng Bến Ngự, Từ Đàm, Nam Giao, đại đa số dân chúng chạy ra khỏỉ nhà, đều bị Việt Cộng bắn chận đẩy lui, đành trốn tại nhà. Lực lượng an ninh của Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh và đám cơ sở nằm vùng lục xét từng nhà một, bắt và dẫn đi một số người. Dân chúng đã nhận diện rõ những tên nằm vùng thật nguy hiểm như tên Nguyễn Tú một võ sư môn phái Thiếu Lâm, nhà ở sát lăng vua Tự Đức, gần đồi Vọng Cảnh.

Tên thứ hai là Cửu Diên và con trai của y là một sĩ quan Thiếu úy QLVNCH đào ngũ theo VC truớc Tết Mậu Thân cả hai cha con tên nầy dều ở trong lực luợng của Bảy Lanh. Trong số những người bị hai tên Tú và Diên bắt dẫn đi có hai ông là Tôn Thất Hậu, Chủ tiệm chụp hình Tự Do tại gần chùa Từ Đàm, và Ông Nguyễn văn Nhẫn chủ tiệm hớt tóc cũng ở gần đó, Hai ông Tôn Thất Hậu, và Nguyễn văn Nhẫn là bạn rất thân của tên Cửu Diên và tên Tú vậy mà sau Mậu Thân, thân nhân hai ông nầy đã tìm ra xác của hai ông bị chôn sống tại vùng chùa Từ Hiếu.



- Cũng tại vùng Từ Đàm, Bến Ngự, hai người cháu nội của Cụ Phan Bội Châu là Đại úy Quân Cảnh Tư Pháp Phan Thiện Cầu, và Phan Thiện Tuờng cũng bị bọn chúng chôn sống. Oái ăm thay trong khi đó anh ruột của Đại úy Phan thiện Cầu và Phan Thiện Tường là Đại Tá Việt Cộng Phan Thiện Cơ đang là Tư Lệnh mặt trận ở Tây Nguyên.



Đại Tá VC Phan Thiện Cơ, Ông nghĩ gì khi các đồng chí của ông bắt hai ngừoi em của ông đem đi chôn sống? Hay đó cũng là những thường tình trong phong tục tập quán văn hóa của đảng? Ông noi gương của đồng chí Trường Chinh? Dưới ánh sáng soi đường của đảng, thì cha mẹ còn chưa kể , xá gì anh em phải không ông?



Năm 1973 đại tá Phan thiện Cơ là thành viên trong ủy ban kiễn sóat đình chiến tại Tân Sơn Nhất, Saigòn.



- Cũng tại vùng Từ Đàm, Ông Võ Thanh Minh một trong những huynh trưởng Huớng Đạo kỳ cựu, người mà vào năm 1954 dã dựng lều bên hồ Geneve ngồi thổi sáo phản đối hiệp định chia đôi đất nuớc cũng bị Việt Cộng bắt dẫn đi chôn sống.



- Tại vùng gần chùa Tuờng Vân, Ông Lê Hữu Bôi chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, là sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ra ăn Tết ở Huế cũng bị Việt Cộng bắt đi chôn sống vì nghi ông Bôi làm cho CIA.



- Tại vùng Cầu Lòn, Thầy Lê văn Thi nguyên giáo sư Quốc Học, sau đó du học Mỹ, đậu PhD về nguyên tử lực về nuớc phục vụ tại lò nguyên tử Đà Lạt, ra Huế ăn Tết bị VC bắt đi chôn sống vì tội là chuyên viên nguyên tử, khi bọn chúng bắt thầy Thi, phụ thân của thầy can thiệp cũng bị bọn chúng bắt luôn, sau đó gia đình đã tìm ra xác của thầy và ông cụ bị chôn sống gần xã Thủy Xuân.



Tóm lại, tại vùng Bến Ngự, Từ Đàm, Trường Cửi, Nam Giao, Thủy Xuân, Lịch Đợi, Cầu Lòn số nạn nhân bị chôn sống khỏang hơn 200 người.



- Tại nhà thờ Phủ Cam, sau một thời gian vây kín làng Phủ Cam, cuối cùng bọn VC tấn công và xông thẳng vào nhà thờ, bắt đi khoảng 300 thanh niên, dẫn lên giam giữ tại Chùa Từ Đàm. Mãi đến ngày 19 tháng 9 năm 1969 lực luợng hành quân của QLVNCH đã phát giác ra được 428 xác chết tại khe Đá Mài và vùng lân cận, trong đó, sau khi xác nhận, chứng thật có 300 xác của 300 thanh niên Phủ Cam đã bị VC bắt và dẫn đi.



- Tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, gần khu An Cựu thuộc Quận III thị xã Huế có khỏang trên 500 đồng bào đang lánh nạn tại đó. Các đơn vị an ninh của đại tá Công An Bảy Lanh, các cơ sở nằm vùng như cha con ông Thiên Tuờng, đoàn viên tự vệ khu phố của Nguyễn Đắc Xuân tràn vào khu nhà thờ thanh lọc đồng bào, bắt và dẫn đi khỏang 300 người, trong đó có Thượng Nghị sĩ Trần Điền.

300 người bị bắt nầy đã không bao giờ trở về với gia đình tất cả đã bị chôn sống tại vùng Lăng Xã Bàu, Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, trong đó có Thượng Nghị Sĩ Trần Điền.

- Trường trung học Thiên Hựu là nơi VC đặt bộ chỉ hụy nhẹ của Mặt trận cánh Nam do Đại Tá VC Thân Trọng Một chỉ huy, nơi đây cũng là chỗ Đại Tá Công An Việt Cộng dùng làm nơi giam giữ những nhân vật cao cấp hành chánh, quân sự của chính phủ VNCH mà bọn chúng bắt được. Điển hình là Ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên bị giam giữ tại đây trước khi đưa ra Bắc.

/ div>



Nguon:From: Nhuan Mai
Subject: Hãy truy tố CSVN ra tòa án Hình Sự Quốc Tế !!!

====================================
===============================================

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================