MƯỜNG GIANG
Ngày còn nhỏ rất thích đoản văn ‘ Tôi Ði Học’ của Thanh Tịnh và ‘ Nghĩ Hè’ thơ của Xuân Tâm. Vốn tâm hồn đa cảm và cô đơn, nên đọc qua những nhân vật của hai tác giả trên, đã làm tôi luôn xúc động đến rớm lệ một cách thành thật, khi nghĩ tới quê hương mình.
Tôi không hề biết ngôi làng Mỹ Lý và Bảo An của hai tác giả trên ở đâu, ra sao nhưng vẫn tin tưởng rằng các thế hệ học sinh mọi thời, trong đó có chúng tôi, ai cũng đã trải qua những cảm xúc, tâm trạng, những ao ước trong sáng ngây thơ của một cậu bé nhà quê, buổi sáng đầu tiên nắm vạt áo mẹ tới trường lần đầu. Hay đoàn chim non sung sướng, khi giờ cuối cùng đã hết, để cùng nhau chạy ùa ra sân ga đón tàu về quê trốn nắng.
Òa lên từ một niềm vui nho nhỏ thời tuổi học nhưng nó đã theo thời gian, vừa bừng bừng lặng lẽ, vừa mong manh như tơ trời, vậy mà vẫn dai dẳng theo tôi đến trọn đời. Ngày ấy tôi đã khóc vì không được theo bạn lên tàu. Nhưng tuổi thơ vốn mau quên vì ồn ào, ầm ĩ cho nên rồi cũng vội vàng, hăm hở cùng bạn lại chuẩn bị một mùa hè sắp tới.
Rồi thì thời gian lãng đãng theo bóng mây chiều, những chàng trai đang lớn, đã biết thả hồn mình mơ mộng theo những cánh phượng ở sân trường và những con đường dẫn vào lớp học, trước lúc lên tàu trở lại quê xưa.
‘Kiểm sót kỹ có khi còn thiếu sót, rương chật rồi khó nhốt cả niềm vui’, theo thời gian lửa loạn, nên đâu có còn êm ả như những mùa hè thiếu thời mà huyên náo đằng sau lũy tre làng. Tất cả đã ngoa ngoắt quay lưng chạy vào quá khứ, bỏ ta ở lại trong cái cảm xúc thân thuộc mà xa lạ, giữa cõi lòng trước sân trường của một mùa hạ tím ngắt.
Nay trở về quê xưa Phan Thiết trong tuổi già. Vẫn như hôm nào, chiếc xe đò từ Sài Gòn vào thành phố, cũng phải qua những lò gốm làm tỉm đựng nước mắm, nằm dài hai bên quốc lộ 1, xóm Giếng Rọc, Ấp Ðức Long. Dù bây giờ nghề đã dẹp nhưng cái mùi võ ốc, nghêu sò, muối mắm.. ở đâu đâu như khói, cứ bay và xộc cả vào miệng mũi, thế nhưng tôi không thấy khó chịu, trái lại rất vui mừng, vì biết chắc là mình đã tới nhà. Trong cái hương vị đậm đà của biển đọng trên da tôi, thử đưa lên ngửi như thấy có mùi rất riêng của quê tôi Phan Thiết.
Rồi thì ngơ ngơ ngẩn ngẩn trên những nẻo đường quê hương, càng nhìn càng thấy ngùi ngùi. Phố xá nói mở nhưng đi một vòng xe đã hết. Buồn trong cảm giác lẫn lộn, trước cảnh vật vừa lạ hoắc lại cũng thân quen. Phan Thiết bây giờ qua tâm tư của kẻ ly xứ vừa trở về, như là một thành phố nào khác. Về quê nhân mùa tết, trước quang cảnh ồn ào của những phiên chợ đông người làm dáng, như nửa thực nửa mơ của chốn phồn hoa đô hội đủ đầy, khiến thấy nực cười một mình, khi biết sẽ chẳng bao giờ có được một Phan Thiết rừng tiền biển bạc ở đời này, dưới cõi thiên đường xã nghĩa, chỉ đẹp giữa giấc mơ hay trong đầu óc của tưởng tượng.
Dường như không còn một mùi quê xa cũ, dù đó là mùi rêu mốc của những tường vách đền tháp, đình chùa, bởi đâu đâu cũng đã sơn lại một lớp màu hào nhoáng, làm mất hết cái rêu phong cổ kính của những nơi chốn thân quen, dù nơi đó là cảnh chùa xưa đền cũ. Anh em bè bạn và làng xóm cùng chung lứa, nay cũng không còn bao người. Những kẻ còn sót lại già trước tuổi. Mai, nếu trở lại quê xa lần nửa, chắc cũng như Hạ Trí Chương, ngậm ngùi trong nổi :
‘ Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Mục đồng tương kiến, bất tương thức.
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ‘
Thuở nhỏ bỏ nhà ra đi, già mới về quê nhà giờ thay đổi hết, ai cũng trố mắt nhìn mình và cười hỏi từ đâu tới ?. Bao chục năm phải xa quê hương vì hoàn cảnh và đã chịu biết bao thăng trăm nơi đất khách, nên lòng ai cũng mưốn trở về quê, để trút hết những ưu phiền đã cưu mang suốt thời gian lưu lạc chốn quê người.
Giờ biết tìm đâu cái mùi đất ẩm pha gió biển mằn mặn của Phan Thiết ? và trong đó chẳng những có mùi cá mực, mà còn thắm đượm cả mùi lá tre, rạ rơm, hương lúa mới, làm cho mình bổng thấy sảng khoái hít hà hết cái hương quê riêng của tuổi xuân thì..
Về Phan Thiết để được ăn lại những món ăn năm nao của quê nhà, bánh căn, mì Quảng, gỏi cá mai, bánh bèo chén, chè đậu ván.. và thịt heo luộc cuốn bánh tráng, chấm mắm nêm. Còn mùi thịt dông truyền thống Phan Thiết. Rồi sáng sớm lúc trời còn hơi lành lạnh, cởi chiếc xe đạp ghé vào quán cốc bên đường nhâm nhi ly cà phê nóng, để nhìn thiên hạ qua lại, mà nhớ cái thuở còn lang thang. Tóm lại, qua cái mùi riêng còn sót lại, như đã đánh thức trong tôi cả một ký ức của thời xưa cũ, hình như ngủ quên trong đời của một lãng tử, sắp bước vào ngưỡng cửa ‘ cổ lai hi ‘.Nhưng thấy được quê rồi, không vui mà vẫn bâng khuâng ngậm ngùi.
Phan Thiết bây giờ cũng thay đổi, khi những đồi cát hoang sơ, chạy dài từ Ðá Ông Ðịa, Rạng, Mũi Né tới Hòn Rơm, được đánh thức bởi những bước chân người. Vâng quê tôi là thế đó, từ bao đời luôn quyến rũ mọi người bằng nét đẹp thiên nhiên, rất hoang sơ mà lãng mạn, như tiếng mời gọi của sóng biển rì rào hay bóng mát dịu hiền của mặt trời khi xuyền qua rừng dừa xứ Rạng. Về Phan Thiết, để cùng với cái tĩnh lặng của đêm trường , để lắng nghe tiếng sóng vỗ trong gió, mang theo cả hương nồng vị mặn từ biển, ngược sông Cà Ty xuồi về Cồn Cỏ, Mường Mán, để nhớ những địa danh một thời như Cồn Chà, Xóm Ốc, Phố Hải, Bến Lội.. tuy mộc mạc nhưng đượm thắm hồn quê.
Tất cả đều là nổi nhớ trong xa mờ, từ lúc những lưu dân tới Phan Thiết dựng lều trại dọc theo bờ biển và cất nhà chồ dọc theo hai bờ sông Cà Ty. Sau đó, nhà ở được củng cố và làm thành những xóm nhỏ trong vịnh Phan Thiết lặng gió sóng êm. Vì hầu hết tổ tiên người Bình Thuận là lớp bình dân miệt ngoài, nên bản chất cũng chân thành mộc mạc. Họ đã gọi nơi mình sinh sống, bằng những cái tên có liên quan tới nghề nghiệp như Xóm Chỉ, Xóm Bánh Tráng, Xóm Ốc, Xóm Ghe, Xóm Câu, Xóm Biển.. là những địa điểm nằm dọc hai làng Lạc Ðạo và Tú Long.
Phía tả ngạn có Xóm Ðầm thuộc làng Hưng Long, ở đó nhờ có một cái đầm nước ngọt, giúp dân địa phương quanh năm sản xuất rau cải cung cấp cho thành phố. Riêng Xóm Tỉnh, thuộc làng Phú Tài, một địa phưong quanh tỉnh thành Bình Thuận, được dời từ Hoà Ða vào cuối thế kỷ XIX. Rồi thì Cồn Chà Ðức Thắng là một cồn cát bồi gần cửa biển, được các dân chài làm nơi bó các cột chà tre và lá dừa, dùng cho nghề đánh cá nục. Còn Cồn Cỏ là tên gọi cái cồn nhỏ mọc đầy cỏ giữa sông Cà Ty, hai bên bờ Phú Tài và Ðức Nghĩa. Riêng Phật Quang tự, là một trong những ngôi chùa cổ kính tại Bình Thuận, gần động cát nên gọi là chùa Cát.
Cuối thế kỷ XVIII, một cây cầu gỗ, dài 41 trượng, tương đương khoảng 164m, bắc ngang sông Cà Ty, nối liền con đường cái quan, nên thuở đó được gọi là Cầu Quan hay Thắng Kiều. Chợ búa mọc lên khắp nơi, đông nhất là chợ lớn ở sát cầu quan, thường có tới vài trăm người đến mua bán. Ngoài ra còn có nhiều chợ nhỏ hơn như chợ chiều tại Long Khê, chợ cồn chà tại Ðức Thắng, chợ Ðội Thiều tại Ðức Long..
Năm 1924 chợ lớn Phan Thiết xây cất xong trên địa điểm ngày nay. Tháng 12-1925, đã có hệ thống điện, đường sá cũng được quy hoạch và mở rộng để xe cộ và người đi lại. Các công sở cũng lần lượt được xây dựng. Năm 1934 lập vườn bông và đầu thập niên 40 mới xây tháp nước. Trong khoảng 1925-1927, chánh quyền bán rẻ đất cho người Âu, xây nhà cửa và cơ sở kinh doanh. Về giáo dục, chỉ mới có trường Pháp-Nam, đầu tiên ở khu vực trường Nữ ngày nay, sau dời về Ðức Thắng từ tháng 5-1924. Tuy vậy ở khu vực này vẫn còn lưu lại một trường nữ sơ học.
Bắt đầu giữa tháng 11 âm lịch, những hiệu buôn và các người buôn bán nhỏ, trên đường phố chính và Chợ Lớn Phan Thiết, chuẩn bị hàng tết và đầu tháng 12 đã thấy không khí tết khắp nơi. Từ 27 tới 29 tháng chạp có chợ đêm. Theo tài liệu cũ ghi lại, chợ tết thời trước cũng rất phong phú, gồm hàng hóa của người Tàu và địa phương, còn có các sản phẩm khắp nơi dồn về buôn bán.
Cũng như bây giờ, muôn đời không có gì vui bằng đi chợ tết. Mọi người khắp các làng quê trong tỉnh, tấp nập kéo về mua sắm hàng hóa và vui chơi những ngày cuối năm. Thành phố Phan Thiết mới bắt đầu được gắn đèn điện loại bóng tròn, hình ảnh của thời đại văn minh, mà trước đây khắp nơi chỉ có ngọn đèn dầu lờ mờ hắt hiu, khi mờ kh tỏ trước gió. Trong dòng người vui tết, ngoài người kinh ở miền xuôi, còn có người Chàm mặt lễ phục của họ và đặc biệt là người Thượng từng đoàn, đóng khố, ở trần, mang gùi và tay cầm chà gạc. Họ đến vừa đi chơi cũng là mua các mặt hàng như cá khô, muối, trống, phèng la và ché sành đựng rượu cần. Buôn bán đông đảo vui nhộn nhưng tới trưa 30 là vắng tanh, chỉ còn lưu lại mấy ông thây đồ viết đối và một vài hiệu tạp hóa mở cửa muộn.
Ngoài ngày 23 đưa ông Táo chầu trời và chiều 30 rước tổ tiên ông bà về nhà, khắp nơi còn có tục dựng nêu ngày tết. Bàn thờ khói hương nghi ngút, cổ cúng ê hề. Trước hiên pháo đỏ nổ vang, mọi người quây quần bên bữa tiệc tất niên vui vẻ hạnh phúc, kéo dài nhậu nhẹt chờ đón giao thừa.
Rồi thì tiếng chuông chùa cũng như nhà thờ đổ vang cùng lúc với pháo nổ. Mọi người kéo nhau ra đường tìm vui đón tết, hầu như suốt đêm không ngủ. Ngày xưa, dân ta rất kiêng cử, nên ngày mồng một tết kín cửa khóa rào, chỉ có các đội lân đi khắp phố múa mừng tuổi các nhà giàu. Tới chiều mới xuất hành, ai nấy đều ăn mặc mới mẻ. Ðàn ông mặc quần trắng áo dài, đầu quấn khăn nhiễu, chân đi guốc vông đồng. Người giàu sang thì áo nhiễu, khắn đống, giày da và che dù đen. Phụ nữ nhất là tầng lớp trung niên trở lên, đều nhuộm răng ăn trầu, mặc đồ bà ba bằng gấm hay lụa Quảng hay lụa dệt tại xóm Lụa, Phú Long. Ða số đội nón lá kiểu Huế, Gò Găng, Quảng Nam. Các cô gái nhà quê thì búi tóc, bịt khăn và đội nón nia. Họ đi hàng ba hay bốn nói cười vui vẽ. Tất cả chỉ đi bộ hay xe kéo, chưa có xe đạp.
Tất cả những ngày tết thời đó, chỉ để ăn chơi mà thôi, nên từ mùng hai tết, hè phố nào cũng có sòng bạc, còn các đình chùa thì hát bội, chèo bá trạo suốt mấy ngày xuân. Tại Phan Thiết bấy giờ chỉ có một rạp hát duy nhất, gọi là rạp Bà Ðầm trên đường Gia Long, những ngày tết là chỗ các đoàn cải lương từ Sài Gòn-Lục Tỉnh thời đó, ra trình diễn như đoàn Kim Cương, Nhạn Trắng, Phụng Hảo, Bầu Bòn, Tân Thịnh.. kể luôn đoàn Tân Việt Ban từ miền bắc vào. .
Sinh trưởng và có mặt khắp các nẻo đường Bình Thuận từ mấy chục năm qua, nên tụ nhiên thấy náo nức, khi đối diện với quê hương mình. Hạ Uy Di cũng là vùng biển mặn, khiến cho người xóm biển cứ bâng quơ tìm về đất trời quê củ. Rồi cũng bắt đầu từ đó, qua nổi vui của một kẻ tha hương, bổng cảm thấy thật ấm áp với mùi biển muối mặn mòi, làm như mình có nợ với Phan Thiết, nên cứ nhớ, viết và lâng lâng đi lạc trong mảnh vườn ấu thơ, kỷ niệm của một thời.
Ðường về Mũi Né, Hòn Rơm, ngang qua tháp Chàm và lầu ông Hoàng mặc trầm cổ kính, tưởng như đâu đó vang vang vó ngựa trận một thời chinh chiến và giọng ngâm thơ tha thiết của chàng thi sĩ đa tình, làm cho Phan Thiết bổng đi vào Văn học sử với câu chuyện thương sầu hận nhớ của Hàn Mạc Tử và Mộng Cầm, mà tới nay vẫn chưa mờ nhạt.
Tới Sông Quao khiến nhớ Kà Tót, trại tù cũng là mồ chôn không biết bao nhiêu trai trẻ của Bình Thuận sau ngày 30-4-1975. Xa hơn là đường về bốn quận miền bắc trên quốc lộ 1, Tà Dôn, Khu Lê, Lương Sơn, Sông Lũy.. giờ vườn cây đào, thanh long, mía, đậu phông, bông vải và ruộng lúa, cùng với những cô gái Chàm ngồi dệt thổ cẩm và làm gốm.. màu hồn nhiên trắng nõn của hoa thanh long và màu mắt đen láy của người thiếu nữ gợi tình. Tóm lại quê tôi là miền gió cát và biển sóng, cho nên con người ở đây luôn ôm ấp cái khát vọng là sống bình yên và tự do phóng khoáng nhưng tới nay cũng vẫn là khát vọng miên trường.
Bình Thuận muôn đời là vậy, chẳng khác gì loài Dông hiền lành tội nghiệp, cứ phải ẩn mình trong cát, dưới những tán rừng ô rô mà nhẫn nhục để sống. Bởi vậy về Bình Thuận, phải đi vào những ngõ ngách lẩn khuất của các xóm khu bình dân, lao động, những xóm chài, động giá, ngõ hẹp quanh co của khu vực nhà lều nước mắm thênh thang giàu sang của Ðức Thắng, Lac Ðạo, mới biết được thế nào là miếng ăn của người nghèo, đã được đổi bằng mồ hôi trên đòn gánh hay cánh tay khẳng khiu của người
Ba trăm năm qua rồi, cuộc đời cũng chỉ thế thôi. Kể chuyện Bình Thuận, để nhớ người nghèo sống nơi, bị đời gán cho ‘ quê hương miền biển mặn, hay chốn rừng tiền biển bạc gì gì đó’, thật ra cũng chỉ dành cho ai, chứ hầu hết dân nghèo lao động chỉ tự mình ngoi lên và tồn tại bằng chính máu và nước mắt của mình.
Nhớ về Bình Thuận, điều làm cho ta sung sướng nhất là lúc được sống hồn nhiên trong thế giới của người nghèo, không lọc lừa bưng bợ lại chẳng cần đóng kịch trí thức hay trưởng giả, bởi người nghèo Bình Thuận ăn ngay nói thật, không cần lớp hào nhoáng bên ngoài. Tuy nhiên nhớ nhất vẫn là những hàng phượng ven đường và rừng vông cao ngất trong vườn hoa lớn bên bờ sông Cà Ty, giữa có Lầu nước sáng chiều soi mình trên mặt nước thơ mộng.
Lang thang trong đêm thành phố hay bất cứ một vùng quê nào trên miền biển mặn, cũng chỉ là hồn ta với bóng, khi tiếng rao hàng đã im bặt từ lúc nào. Ðó là đêm của hôm trươc hay sáng của ngày sau, đối với những người lang thang trong đêm đi tìm cái sống. Chỉ có âm thanh của im lặng, nói với lặng im của mông lung vắng vẻ trong một thành phố đang bôi phấn làm dáng, trong lúc con người muốn gục xuống như lá héo trước những tiếng cười xì xoà
Hỡi ơi, Phan Thiết càng ngày càng trẻ trung rộng mở, còn ta thì già theo tuổi đời của ba trăm năm Bình Thuận, bởi vì quê hương chẳng bao giờ phụ ai hết, mà chỉ có con người bao đời phụ rảy tàn phá mảnh đất thân thương ..
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Giêng 2010
MƯỜNG GIANG
Ngay khi đọc được tin trên đài và báo, nhiều bà con gốc Hòa Ða (Bình Thuận) đã gọi điện thoại
về nhà hỏi tin vụ hơn 200 người ' Ăn Bánh Mì ' bị ngộ độc tại các ấp quanh xã Chợ Lầu, ngay ngã ba
Sông Mao nên biết
1- Theo khám nghiệm của bệnh viện Toàn Khoa tỉnh, thì Bánh Mì Cẩm Tú không có độc.
2- Chất độc chứa trong những thực phẩm nhập của Ba Tàu như Paté đóng hộp (để lâu ngày), da heo
khô, thịt cá đóng hộp.
3- Chính những thực phẩm trên đều chứa hóa chất gây độc, đã khiến bà con tại Chợ Lầu, nhất là khu vực ấp Xuân An kế rạp hát và chợ, gần tiệm bánh mì mua ăn, đã trúng độc.
4- Tính tới sáng nay, đã có một bé gái 14 tuổi, cháu nội ông Võ Tam đã qua đời tại bệnh viện Chợ Lầu.
Vì số người quá đông nên bệnh viện chỉ cho những người ngộ độc nặng nằm lại. Số khác được phát mỗi người 150.000 tiền Hồ về nhà tự chữa chạy.
Sự kiện nghiêm trong đến nổi một phó thủ tướng VC phải tuyên bố " Ở VN bây giờ không biết phải ăn gì để sống ".
Phổ biến theo tin hành lang từ bạn bè
MG
Hơn 200 người ở Bình Thuận ngộ độc bánh mì
Thursday, January 21, 2010
Bánh mì mới ra lò ở sài Gòn. (Hình: hopham.com)
BÌNH THUẬN - Một vụ ngộ độc hàng loạt với gần 200 người vừa xảy ra tại tỉnh Bình Thuận mà nguyên nhân là ăn bánh mì của cơ sở sản xuất Cẩm Tú ở thị trấn Chợ Lầu.
Báo Ðất Việt cho hay, các bệnh nhân bị ngộ độc được phát hiện vào sáng 17 Tháng Giêng khi một gia đình ở thôn Hiệp Phước mua bánh mì của cơ sở Cẩm Tú thị trấn Chợ Lầu về ăn. Sau đó, cả 9 người trong gia đình đều có triệu chứng đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, sốt cao... Tất cả được đưa vào cấp cứu tại bệnh viện đa khoa Bắc Bình Thuận rạng sáng 18 Tháng Giêng.
Cũng sáng 18 Tháng Giêng, cơ sở Cẩm Tú tiếp tục bán ra thị trường hơn 100 ổ bánh mì. Khoảng 2 giờ chiều cùng ngày, hàng loạt các ca bệnh với triệu chứng tương tự ồ ạt nhập viện trong tình trạng nguy kịch. Theo thống kê, có hơn 70 nạn nhân phải nhập viện từ 2 giờ sáng đến tối 18 Tháng Giêng.
Tuy nhiên, theo chính quyền địa phương, còn rất nhiều nạn nhân bị ngộ độc do ăn bánh mì của cơ sở này trong hai ngày qua, nhưng điều trị tại nhà. Hầu hết các bệnh nhân bị ngộ độc thực phẩm đều trú tại thôn Hiệp Phước.
Vẫn theo Ðất Việt, tính đến ngày 21 Tháng Giêng, bệnh viện đa khoa Bắc Bình Thuận đã tiếp nhận và điều trị 175 bệnh nhân. Các ca bệnh đều có triệu chứng sốt cao, tiêu chảy, ói mửa và co giật. Hiện mới chỉ có bốn bệnh nhân xuất viện, số khác vẫn đang được theo dõi, nhiều ca rất nặng. Ngoài ra, rất nhiều ca khác đang điều trị tại nhà, chưa khai báo với y tế cơ sở.
Theo một số nguồn tin, trong số các nạn nhân bị ngộ độc, có em Võ Thị Mỹ Quyên, 14 tuổi, học sinh lớp 7 THCS Chợ Lầu đã tử vong vào rạng sáng ngày 19 Tháng Giêng. Tuy nhiên, các bác sĩ chưa xác nhận thông tin này. Trước đó, bệnh nhân Quyên mổ ruột thừa nên đang điều trị tại bệnh viện. Trong buổi sáng ngày 18 Tháng Giêng, Quyên ăn bánh mì và xảy ra các triệu chứng ói mửa, tiêu chảy, sốt cao...
Theo các bác sĩ, số bệnh nhân ngộ độc rải đều trên địa bàn 7 xã, thị trấn, chứ không chỉ riêng người dân khu vực Chợ Lầu.
Cơ sở Cẩm Tú kinh doanh bánh mì và các thực phẩm khác như patê, chả lụa, nem... từ hơn một năm nay. Ngoài cung cấp cho các sạp bán lẻ trên địa bàn huyện, cơ sở này cũng có sạp bán lẻ tại trung tâm thị trấn Chợ Lầu. Rất nhiều sản phẩm ăn kèm bánh mì như dăm bông, patê, chả lụa do cơ sở này tự sản xuất. Hiện vẫn đợi kết quả kiểm tra các mẫu thực phẩm của cơ sở này từ cơ quan chức năng.
No comments:
Post a Comment