PẮC PÓ: MIỆNG NGUỒN CỦA TỘI ÁC
|
Hang Pắc Bó |
1. Theo tài liệu chính thức của CSVN, HCM về trú ẩn tại hang Pắc Pó, xã Trùng Hà, huyện Hà Thủy, tỉnh Cao Bằng từ ngày 8-2-1941, cách thị xã Cao Bằng 55km về phía Bắc. Theo tiếng Tày địa phương, Pắc Pó có nghĩa là Miệng Nguồn. Đây là một vùng rừng núi rậm rạp rộng hàng ngàn hécta, không có ranh giới rõ rệt, gồm những địa danh rất tai tiếng bí ẩn: hang Pắc Pó, núi Các Mác, suối Lê-nin, hang Cốc Bó, bãi Cò Rạc, suối Nậm,… Từ ngày 8-2-1941 đến ngày 10-10-1954, HCM chọn nơi đây làm An Toàn Khu tuyệt đối bí mật. Sau 1954, HCM vẫn duy trì nơi đây là một chiến mật khu đặc biệt, cần dùng khi hữu sự. HCM không sống và làm việc ở đó liên tục từ 1941-1954, vì thi thoảng HCM phải đi Trung Hoa, Liên Xô, hoạt động CS kháng chiến nơi này nơi khác ở các vùng rừng núi phía Bắc khác như Tuyên Quang, Quảng Đông, Quảng Tây, Côn Minh… Rõ ràng nhất là HCM đi Trung Hoa và bị tù ở Quảng Tây, Vân Nam từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943; từ tháng 5-1945 HCM chuyển về Tuyên Quang để chuẩn bị giành Chính quyền từ Chính phủ VN độc lập vừa mới thành lập còn rất non trẻ của Trần Trọng Kim ngày 2-9-1945. Rồi HCM sống ở Hà Nội cho đến 1946 mới lại rút vào chiến khu để thực hiện phương cách phá hoại khủng bố "đốt nhà phá vườn tiêu thổ kháng chiến". "Đốt sạch, phá sạch, giết sạch" bất cứ những gì CS không chiếm đoạt được, hoặc không theo CS, dù chỉ là một con gà con !
Như vậy HCM chỉ có thể chính thức sống ở Pắc Bó 3 thời kỳ : 1941-1942, 1943-1945, 1946-1954 trên danh nghĩa là không thường trực, nhưng trong thực tế là vẫn có thể thường trực. Lý do bí hiểm này trở nên khá dễ hiểu nhờ một chứng nhân rất đặc biệt.
2. Chứng nhân Chí Xầu, người Mán, quê ở Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, khoảng 23 tuổi, nhận đặc nhiệm bảo vệ an ninh khu Pắc Bó từ ngày 3-4-1941, sau đó làm Đội phó Đội Bảo vệ đặc khu này đến cuối năm 1943. Riêng một mình ông trong gần 3 năm, chính tay đã giết hơn 500 (hơn năm trăm) người nam nữ, đa số là Dân địa phương đi rừng kiếm sống, lạc chân vào. Nhìn những người khác chém giết đẫm máu còn hơn ông, ông cảm thấy quá ghê sợ và nhức nhối lương tâm, nên cuối năm 1943 xin chuyển công tác. Tỏ dấu hiệu gì đáng ngờ là tức khắc bị thủ tiêu ngay, nhưng may mắn ông Xầu được "chấp thuận cho tình nguyện" đi vận chuyển vũ khí từ Liên Xô qua đường Trung Hoa về miền Bắc Việt Nam. Chuyến đầu bình yên, nhưng chuyến thứ 2, khi tàu dừng chân ở giữa rừng, ông Xầu thèm thuốc lào chạy qua toa khác xin thuốc, thì toa chở chất nổ do ông phụ trách phát nổ, nhờ đó mà ông thoát chết. Ông biết là đã có lệnh thủ tiêu ông để bịt miệng, ông bỏ trốn.
3. Theo ông Xầu, HCM thật có thêm 2-3 HCM giả, có thể thay HCM thật tiếp khách, đi họp, gặp gỡ, kinh lý, thị sát, đi công tác… kể cả dự các Hội nghị với các Nước khác mà chỉ có HCM thật và một ít tay chân rất thân thiết biết điều này mà thôi. HCM thật 2 tai không đều nhau, vành tai trên của tai phải dính gần sát vào da đầu, còn các HCM giả 2 tai cân đối đều nhau. Những người thật sự tâm huyết chỉ dựa vào chi tiết rất nhỏ này mà nhận diện HCM thôi. Ngoài ra giọng nói, điệu bộ gần giống nhau. Còn lập trường, quan điểm, ứng xử thì các HCM giả phải tuân thủ theo sự chỉ dạy của HCM thật 100% tùy trường hợp, nếu không muốn chết sớm bất cứ lúc nào. Những hình chụp HCM 2 vành tai cân đối đều nhau chắc chắn là hình một HCM giả nào đó đã được lựa chọn.
Vì chung quang vùng hang Pắc Bó không có hàng rào làm ranh giới rõ rệt, nên HCM chọn một đội quân hàng trăm người canh gác rất nghiêm nhặt thành nhiều lớp ngoài, lớp trong rất bí mật. HCM ra nghiêm lệnh : Vì phải tuyệt đối bí mật, nên bất cứ người Dân địa phương nào, người nào, dù bất cứ lý do gì, đặt chân vào khu rừng núi đặc nhiệm này, nếu không phải là Cán bộ CS cao cấp (thuộc mật khẩu nhận diện) hoặc đặc khách có Cán bộ dẫn đường, thì :
- Nếu là nam hoặc nữ quá già nua ốm yếu, phải thủ tiêu ngay, không cần xét tuyển cán-bộ đội.
- Nếu là nữ, chỉ cần tương đối còn xuân sắc khỏe mạnh, thì phải đưa ngay vào hang nói là để "Bác" đào tạo gián điệp, giao liên. Thực chất để HCM thật (hoặc HCM giả) hưởng lạc, sau đó chia cho thủ hạ thân tín hưởng xái, rồi mới thủ tiêu. Thủ tiêu bằng cách nhét miệng kín, trói chặt tay, đâm chém chết, rồi thả suối trôi. Không một ai được phép còn sống mà ra khỏi mật khu này.
4. Ông Chí Xầu tìm cách viết và nói để tố cáo bí mật tội ác quá ghê tởm rùng rợn của Pác Pó với Đồng bào nơi ông lưu lạc trốn tránh. Năm 1972, ông Xầu bị bắt, đưa vào K1, trại 1, Phố Lu, tỉnh Lào Cai. Năm 1976, ông bị chuyển qua trại Phong Quang, Lào Cai. Cuối năm 1978, khi Trung Cộng sắp "dạy VN một bài học 1979" thì cùng với nhiều bạn tù ở phía cực Bắc, ông được chuyển về trại 5 Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đến năm 1980, ông bị chuyển qua trại Thanh Phong, tỉnh Thanh Hóa. Người bạn tù (tạm dấu tên) cùng ở 4 trại giam với ông được trả tự do cuối năm 1983, bấy giờ ông Xầu khoảng 65 tuổi, đã quá già yếu, vẫn còn bị giam ở đó. Không rõ hiện nay ông Xầu sống chết thế nào, nếu còn sống thì đã 93 tuổi, nhưng chắc chắn, dù là còn tù, thì cũng đã tự do từ năm 1991 là năm bãi bỏ án tập trung không qua tòa án. Trong cả 4 trại giam, ông Xầu kể chuyện Pắc Bó cho một số bạn tù thân tín, chế tạo bút chì bằng thỏi than đen của ruột viên pin phế thải, cưa 4 ra, nhét vào ruột trúc nhỏ, vót/mài nhọn, để viết thư vạch trần tội ác tày trời này, rồi bỏ vào hòm thư góp ý của tù nhân. Các Ban Giám thị cả 4 trại này đều phản ứng gần giống nhau : kết tội ông Xầu vu khống lãnh tụ, bôi lọ chế độ, đưa vào cùm tại nhà kỷ luật 15-30 ngày, rồi biệt giam 6-12 tháng. Dù vậy, ông Xầu đến trại nào cũng tìm cách viết lại bí mật tội ác này. Lời chứng trên đây suốt đời ông phải chịu trăm cay ngàn đắng chỉ mong được công bố cho công luận quốc dân VN và quốc tế, nhưng chưa thể làm được. Người bạn tù, từ năm 1983, rất muốn ghi lại, nhưng chưa đủ điều kiện, mãi đến cuối năm 2010, đã 68 tuổi, gặp tôi, muốn thay ông Xầu tường thuật lại bí mật này. Tôi khuyến khích người đó mạnh dạn ghi lại, nhưng vẫn chưa làm được, cuối cùng tôi nhận trách nhiệm công bố giúp 2 người này. Hi vọng hôm nay, với Lời Chứng số 5 rất đặc biệt này, hiện ở cõi vĩnh hằng hay chốn dương gian, ông Xầu cũng phần nào mãn nguyện.
Các hành động tội ác của Pắc Bó này chắc chắn lớp lãnh đạo CSVN như Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Chí Công, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… đều biết, nhưng cố tình bưng bít. Nghe nói có một tướng CS, đã từng bảo vệ đặc khu này, cũng quá hối hận, đã tiết lộ tương tự, nhưng tôi chưa có dịp được đọc. Nhiều nhân chứng còn sống. Hi vọng sẽ có người bổ sung sống động chi tiết hơn.
Lời kết tạm : Rất nhiều người CS, còn chút lương tri, vẫn tự hỏi do đâu mà một chủ nghĩa, dù là ảo tưởng vì dựa trên những nền tảng thiếu khoa học khách quan của qui luật cuộc sống, chủ trương công bằng nhân ái, lại phát sinh quá nhiều tội ác cho Nhân loại và Dân tộc VN đến như thế ? Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã trả lời chính xác : "CNXH và CNCS không sai về lý tưởng, nhưng sai về phương pháp, khiến xã hội nào gian ác và bất công mà lấy CNXH và CNCS chữa trị, thì làm cho bệnh gian ác và bất công ấy nặng hơn."
Nguồn gốc phát sinh mọi tội ác và gian trá của CSVN tận bản chất đã tuôn trào từ MIỆNG NGUỒN PẮC PÓ vậy. Sau đây là một trong muôn vàn Bản Sao từ Nguyên Bản Miệng Nguồn Pắc Pó:
5. Ba hoàn thuốc bổ đặc biệt mỗi ngày : Trong số các bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho HCM, có bác sĩ Chánh, người Hà Nội, du học Liên Xô, trách nhiệm chăm sóc HCM từ năm 1954 đến 1969. Vì vi phạm tác phong một cán bộ, ông bị tù 5 năm, sau đó lại gia hạn thành án cao su tập trung cải tạo cứ một lệnh 3 năm, hết lệnh lại gia hạn thêm 3 năm như lệ thường trước 1991. Ông tù ở trại Phong Quang, tỉnh Lao Cai từ 1972-1978. Sau đó bị chuyển vào trại 5 Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa (1978-1980), rồi trại Thanh Phong, tỉnh Thanh Hóa (1980-1983…). Bác sĩ Chánh cho biết : Ông có nhiệm vụ bào chế cho HCM mỗi ngày 3 viên thuốc bổ đặc biệt : lấy thai nhi vài tháng tuổi bị trục nạo trong các bệnh viện, sấy khô, ngào với mật ong, bào chế thêm với các vị thuốc bắc, viên thành từng hoàn nhỏ bằng đầu ngón tay trẻ con, mỗi ngày dâng lên cho HCM 3 viên, đều đặn như vậy cho đến khi HCM không thể uống được nữa năm 1969.
Còn chuyện HCM mỗi khi đi công tác, mang theo mo cơm cau, gói muối vừng… chỉ là một trong hàng ngàn mẹo vặt, vốn có từ thời Pắc Bó, cốt làm hoa mắt, mủi lòng, mụ trí các chiến sĩ gian khổ núi rừng quá ngây ngô dễ tin HCM sống thanh cao, đạm bạc, giản dị, luôn gần gũi với Dân nghèo. HCM quả là một diễn viên kiệt xuất siêu lừa ngoại hạng thế giới khó ai bì kịp.
TNLT Nguyễn Văn Lý, Huế 15-1-2011
Hoàng Tùng
(Trưởng Ban Tuyên huấn TW. Bí thư Trung ương Đảng)
Đầu năm 1950, Bác cùng Bộ chính trị phân tích tình hình, mối quan hệ giữa thế và lực. Lực của ta còn yếu, mới có một đơn vị tổ chức thành đại đoàn 308. Còn lại là tiểu đoàn và trung đoàn. Lực lượng thực sự cũng yếu. Tổng phản công lúc này cũng khó. Chỉ hi vọng ở cái thế. Bác đã viết trong ” Học đánh cờ ” : lực yếu nhưng thế mạnh thì lực sẽ tăng. Về lí luận thì đúng, nhưng còn trong điều kiện cụ thể lại khác. Nên ta tính năm 1950 chưa thể tổng phản công được. Vi Quốc Thanh chuẩn bị, mọi việc nhất nhất xin ý kiến của Mao. Mùa thu năm 1950, ta đánh chiến dịch Biên giới Đường số 4. Trần Canh trực tiếp sang giúp. Tôi nghe nói lúc đầu ta định đánh từ Cao Bằng (theo ý ông Giáp). Trần Canh nói ta nên đánh Đông Khê. Vì Đông Khê là tuyến chính nhất ở trên này. Mà đánh vào điểm yếu thì cả phòng tuyến của địch sẽ bị rung. Đánh vào điểm mạnh thì ta chưa đủ sức. Đúng là Trung Quốc có công giúp ta trong trận Biên giới. Sau thắng lợi mới, tổng kết chiến dịch và sau đó là tiến hành chỉnh huấn, chỉnh quân, thay đổi lại tổ chức quân đội.
Thế là năm 1950-51 đoàn cố vấn thực hiện chỉnh đốn quân đội. Các chỗ khác họ chưa đụng tới. Đại hội Đảng ta năm 1951, đại biểu nước ngoài tới dự chỉ có La Quý Ba, bên Cam-puchia có Xieng Hiêng (sau phản bội), phía Lào có một đại biểu. Tại Đại hội, La Quý Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp. Sau đó bắt đầu đánh thuế. Họ đem các nề nếp từ bên Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh đảng, chỉnh phong từ Diên An sang. Sau Đại hội ta không nói gì đến cải cách ruộng đất, chỉ thấy nói đến lí thuyết ba giai đoạn, vì thế nên mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải thực hiện cải cách ruộng đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định phải thực hiện cải cách ruộng đất. Bác viết một bài nhan đề ” Terre et eau ” (đất và nước) kí tên là Le Ding, đăng ở tạp chí Vì một nền hoà bình lâu dài, vì một nền dân chủ mới. Bác nói đại ý : Đất và Nước bao giờ cũng đi liền với nhau, muốn giải phóng nước phải đưa đất cho dân. Bác nói khéo để nói lên việc phải cải cách ruộng đất. Năm 1952, Đảng ta không có đoàn nào dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô. Mùa hè năm 1952, sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Bác chuẩn bị cho Hội nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết định cải cách ruộng đất. Trung Quốc cử đoàn cố vấn sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền. Đoàn cố vấn cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang làm trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng Tây. Họ muốn qua cải cách ruộng đất để chỉnh đốn lại Đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành cải cách ruộng đất đến lúc dừng là 3 năm. Khi đó tôi thường được dự họp Bộ chính trị do đó cũng biết một số việc. Đó là việc làm thí điểm cải cách ở đồng bằng và chọn đồn điền Nguyễn Thị Năm. Nguyễn Thị Năm tức là Cát Thành Long có một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong dịp Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà còn tham gia công tác của Hội phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đình Nguyễn Thị Năm cũng giống như các gia đình Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô giúp đỡ nhiều cho cách mạng. Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ chính trị Bác nói : ” Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa “. Sau cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói : ” Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải “. Và họ cứ thế làm. Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức khác của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích của họ không phải là cải cách ruộng đất mà là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng lại, nếu không thì tan nát hết. Sau này có những phiên họp Bộ chính trị tôi hay ngồi lại cùng Bác nói chuyện. Có lần Bác trầm ngâm nói : ” Mình đã nói để kháng chiến xong đã, mới tiến hành cải cách ruộng đất, cứ ép mãi. Mà nếu có làm cũng làm theo cách ta, chứ không theo họ “.
Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta làm vội, làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như thế. Do đó khi Cách mạng tháng tám thắng lợi không khí vui mừng đến như thế, mà chiến thắng Điện Biên Phủ không khí không được vui bằng.
Tôi nhớ có chuyện thế này, đầu năm 1951, lúc đó tôi là chánh văn phòng của Tổng bí thư nên được dự các cuộc họp của Thường vụ Trung ương. Trong một cuộc họp Thường vụ Trung ương, Bác nói Stalin không được như thế đâu, chỉ vì người ta cần có một ngọn cờ mà đưa lên như thế. Nghĩa là Bác biết rõ Stalin. Người không sùng bái, cũng như không sùng bái Mao Trạch Đông. Nhiều lúc Bác cũng phải ngoại giao. Cũng như Bác không thích gì Tưởng Giới Thạch, nhưng Bác vẫn dịch cuốn Trung Quốc mệnh vận do Tưởng viết, rồi đem biếu Trương Phát Khuê. Tranh thủ để giữ vững chính quyền, giảm được kẻ thù. Bác hết sức tinh trong nhìn nhận tình hình chính trị. Nhưng người ít nói. Nhiều người không biết cứ tưởng Bác mơ hồ trong vấn đề này khác. Chính trị Bác sắc sảo, nhưng Người rất ghét nói ba hoa. Bác bao giờ cũng vì dân, vì nước, chứ không vì cá nhân mình. Nhiều người sắc sảo nhưng lại vì bản thân mình nhiều, củng cố vị trí cá nhân mình nhiều hơn. Nếu người lãnh đạo cách mạng nào cũng được như Bác thì không bao giờ chính quyền bị đổ, vì Bác lúc nào cũng có Đảng có dân, quan hệ với dân chặt chẽ, không bao giờ làm điều gì vì mình, tất cả đều xuất phát vì nhân dân. Tôi cho rằng hiểu được Bác không dễ, làm như Bác càng khó hơn.
Sau chiến thắng 1954, Bác gọi tôi đến và căn dặn: “Ta chiến thắng rồi công tác tuyên truyền chỉ nên biểu dương tinh thần anh dũng của quân và dân ta, không nên sỉ nhục Pháp. Vì như thế sẽ khích động tinh thần tự ái dân tộc của họ. Sau này đối với Mỹ, Bác cũng căn dặn như thế.
Tháng 10 năm 1956, đồng chí Trường Chinh xin từ chức Tổng bí thư, vì sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trung ương bàu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng bí thư, lúc này đồng chí Lê Duẩn vẫn ở Nam Bộ. Trong lúc chờ đồng chí Lê Duẩn ra nhận chức Tổng bí thư, Trung ương đề nghị Bác làm Chủ tịch, tạm kiêm nhiệm chức Tổng bí thư. Để giúp Người giải quyêt công việc hàng ngày, Trung ương cử đồng chí Võ Nguyên Giáp sang giúp Bác. Ngoài ra còn có công việc chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Trần Quang Huy, Hoàng Tùng chuẩn bị sơ bộ một bản đề cương báo cáo chính trị. Khi đồng chí Lê Duẩn ra Hà Nội làm nhiệm vụ Tông Bí thư, đồng chí trực tiếp giải quyết mọi công việc của Trung ương cùng Bác. Đồng chí bắt tay vào việc chuẩn bị cho Báo cáo chính trị tại Đại hội. Giúp cho đồng chí Lê Duẩn trong những công việc này có Trần Quang Huy, Hoàng Văn Thái, Hoàng Tùng. Đồng chí Lê Duẩn làm việc liên tục cùng các đồng chí trên ở nhà số 6 phố Hoàng Diệu.
Đồng chí Lê Đuẩn phân tích tình hình miền Nam từ năm 1954 đến lúc đó và trình bầy có hệ thống đường lối giải phóng miền Nam. Đồng chí viết thành dự thảo Nghị quyết trình Bác và Bộ chính trị thảo luận. Trong quá trình chuẩn bị các đồng chí Quân uỷ Trung ương cũng tham gia thảo luận, góp thêm nhiều ý kliến. Quá trình chuẩn bị Nghị quyêt này kéo dài gần một năm.
Về cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1968, Người đưa ra sáng kiến này là đồng chí Lê Duẩn, sau khi đã trực tiếp chỉ đạo mọi mặt công tác ở miền Nam từ năm 1958 (nói đúng hơn là từ năm 1946 đến 1954 và từ năm 1954 đến năm 1957). Bộ Chính trị và Bác quyêt định mục tiêu, phương hướng và các vấn đề khác của chiến dịch. Cuối năm 1967, Bác đi chữa bệnh ở Trung Quốc. Giáp Tết, Trung ương họp ở Kim Bôi quyết định mở chiến dịch này. Đồng chí Lê Duẩn trực tiếp chỉ đạo mọi công tác chuẩn bị chiến dịch này ở cả hai miền cùng với Quân uỷ Trung ương và Trung ương cục miền Nam.
Sau đây tôi kể thêm một số kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên. Khi Bác đi Liễu Châu gập Chu Ân Lai, thì ở nhà chị Bác (bà Bạch Liên) qua đời. Lúc đó Bác cùng Bộ Chính trị đóng tại xã Kim Quan, huyện Yên sơn, tỉnh Tuyên Quang. Nhận được điện báo từ khu Bốn đánh ra, tôi báo cáo anh Trường Chinh, anh Trường Chinh ngậm ngùi nhưng không nói phải làm gì. Khi Bác về tôi báo cáo lại. Bác hỏi tôi: “Thế các chú có nhân danh Bác điện vào chia buồn và xin lỗi gia đình và địa phương là Bác bận việc không về được không? Tôi trả lời: “Thưa Bác, không ạ”. Bác nói: “Các chú ngốc quá”.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Bác giao cho tôi tham gia chuẩn bị Hội nghị chính trị đặc biệt. Bác cho phép tôi được góp ý kiến vào bài nói của Người tại Hội nghị và bồi dưỡng cho một số người phát biểu tại Hội nghị trong đó có anh hùng Núp.
Năm 1968 Bác có vịệc phải ra nước ngoài, ở nhà Ban Bí thư mà cụ thể là đồng chí Tố Hữu có chủ trương dong bọn giặc lái Mỹ mà ta bắt được đi diễu qua các đường phố để cảnh cáo Mỹ. Khi về Bác hỏi: “Vì sao các chú lại làm một việc dại dột như thế?” Tôi thành thật báo cáo Bác là mình không tham gia việc này. Bác nói luôn rằng tôi cũng ở trong Trung Ương mà lại không chịu trách nhiệm sao được, dư luận thế giới sẽ không đồng tình về việc làm của ta.
Bác đọc báo thấy các báo đưa tin Bộ Văn hoá đúc tượng nửa người của Bác bằng đồng (việc này do đòng chí Hà Huy Giáp quyêt định). Bác hỏi tôi, (vì lúc đó tôi làm công tác tuyên truyền): “Ai cho phép các chú làm? Đồng để dùng vào việc quân, không phải để tạc tượng”.
Từ khi tôi phụ trách báo Nhân Dân và một phần công tác của Ban Tuyên huấn, tôi thường xuyên được Bác dạy bảo, phê bình, cho chỉ thị công tác, khi gặp trực tiếp, khi gọi qua điện thoại, hoặc qua các đồng chí khác. Bác dạy tôi cả kinh nghiệm viết báo. Bác viết khá đều đặn cho báo Sự Thật, báo Nhân Dân. Những bài viêt của Bác báo Nhân Dân đã tập hợp lại. Tuy nhiên bản thảo của Bác giữ lại không nhiều.
Tháng 7 năm 1969 tôi đưa Charles Fourniau, phóng viên thường trú báo L’Humanité đến phỏng vấn Bác. Hai người phóng viên cuối cùng tôi đưa đến phỏng vấn Bác là Marta Rohad của Cuba và Charles Fourniau. Bác cho gọi tôi lên sớm để góp ý kiến về những câu trả lời.Tôi nói chắc đồng chí đó sẽ hỏi cảm tưởng của Bác khi Người vào tuổi 80. Bác nổi nóng, dồn cho tôi một hồi. Người nói chúng tôi tại sao lại bày ra việc kỷ niệm 80 tuổi, so với Các Mác, Lênin, chỉ là con cháu thôi, các chú tưởng rằng Bác cũng như người khác hay sao? Vì lúc bấy giờ không khí chống sùng bái cá nhân rât kinh khủng. Đúng lúc đó thì Charles Fourniau vào. Chuyện của hai Bác cháu tạm dừng. Nhưng chủ đề câu chuyện Charles Fourniau hỏi Bác hôm đó lại về chuyến đi của Bác từ Pháp sang Liên Xô năm 1923. Sau buổi làm việc khi Charles Fourniau về rồi, Bác gọi tôi vào, và dường như Người đã quên chuyện lúc trước, Người chỉ vào trong nhà và nói: “Trong tủ lạnh có nhiều thứ, chú vào lấy mà ăn”.
Một kỷ niệm không bao giờ quên đối với tôi là trước khi vĩnh biệt chúng ta mấy ngày Bác cho gọi tôi vào, Người giơ tay cho tôi nắm rất lâu. Khi Bác mất tôi được tham gia công việc tổ chức tang lễ. Túc trực bên quan tài của Người. Tôi viết phần tiểu sử của Người. Còn bài điếu văn tôi viết dài quá, anh Lê Duẩn bảo Đông Ngạc viết lại.
Tìm hiểu về Bác, tôi thấy Bác có 10 nỗi đau lớn (1) :
Một là gia đình tan nát. Mẹ và người em út mất sớm vì nhà nghèo không đủ tiền mua thuốc, không ai chăm sóc, trong lúc Bố đi vắng. Cụ Nguyễn Sinh Sắc bị thù oán nên bị hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng thắn những người xấu và làm theo ý mình cho là phải. Bọn quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị phạm tội đưa đến, lệ ngày xưa trước khi xử án phải nọc người đó mấy chục roi trước. Chẳng may người phạm tội bị bệnh từ trước nên sau khi bị đánh trả về một thời gian người ta chết. Nhân việc này mới cách chức cụ và đày đi biệt xứ. Còn ông anh và bà chị Bác cũng bị tù đày, rồi sau mất sớm.
Nỗi đau thứ hai là, sau vụ chính biến Tưởng Giới Thạch, Bác đi Liên Xô. Trước đó Bác phụ trách phòng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mình, Bác bị Liên Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gì cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về. Bác về Xiêm tìm đến các gia đình người Nghệ như gia đình cụ Đặng Thúc Hứa. Bác hoạt động trong Việt kiều. Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó. Như thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công. Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng đồng chí hội để lập Đảng cộng sản, Bác cho rằng chưa phải lúc. Bác cho rằng lúc đầu hãy tập hợp thanh niên và giương cao ngọn cờ yêu nước đã. Có tổ chức Đảng cộng sản chỉ là tổ chức bí mật chứ chưa đưa Đảng cộng sản ra và nói đấu tranh giai cấp vội, cứ nói đánh Tây cho quần chúng dễ hiểu. Theo tôi vì sao lại lập Đảng cộng sản ? Chuyện này có lẽ bắt nguồn từ Đảng cộng sản Pháp. Đảng cộng sản Pháp sợ liên luỵ không dám bênh vực phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa nữa. Sau cách mạng tháng Mười, hai người cộng sản Pháp sang Liên Xô gặp Lenin là Frossard và Cachin. Frossard không đồng ý với Lenin một số điểm cho nên về nước không được dùng mà chỉ có Cachin được dùng. Những điều này tôi đoán lúc đầu Bác không biết, vì lúc đó Bác đang là một nhà cách mạng chân thành, trong sáng, không nghĩ đến những điều phức tạp bên trong. Đảng cộng sản Pháp cho rằng Bác không lập ra Đảng cộng sản mà chỉ tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, lại phê phán Đảng cộng sản Pháp khá nhiều, trên báo chí và ở Đại hội Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp có ý không tán thành Bác. Năm 1923, Nguyễn Văn Tạo là học sinh bãi khoá ở Sài Gòn được sang Pháp học, được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn Ái Quốc không được bầu vào Trung ương, Bác làm ở Ban thuộc địa. Đảng Cộng sản Pháp cử 3 người trong đoàn Pháp sang Đại hội VI Quốc tế cộng sản, trong đó có Nguyễn Văn Tạo. Nguyễn Văn Tạo đề nghị là ở Đông Dương điều kiện đã chín muồi, đề nghị cho thành lập Đảng Cộng sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc Kì _ Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương cộng sản đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Việc đó chính là phê phán Nguyễn Ái Quốc, hay gọi là sự sửa sai đối với Nguyễn Ái Quốc. Nhưng Bác vẫn im lặng tìm cách sửa sai việc đã rồi, vì ba tổ chức tìm cách chống nhau, gây chia rẽ. Sau Lê Văn Lương nói với tôi là khi Bác về Trịnh Đình Cửu có hỏi Bác giấy uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản, vì Bác nói là Quốc tế cử về. Bác trả lời : ” Đồng chí thử tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong người giấy uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, thì liệu tôi có về được đến đây không ? “. Trong số những người dự hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản có Lê Hồng Sơn (Đông Dương cộng sản đảng). Có người nói không có Đông Dương cộng sản đảng là không đúng. Người sáng lập An Nam cộng sản đảng là Hà Huy Giáp, nhưng anh theo quan điểm công nông, đưa công nhân lên là chính, nên mới đưa Hạ Bá Cang lên. Hạ Bá Cang, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm được cử đi dự hội nghị hợp nhất. Nhưng Hạ Bá Cang bị bắt ở Hải Phòng nên không dự được. Đại diện cho Bắc Kì là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh. Bác đưa ra Chính cương vắn tắt và điều lệ vắn tắt, thật sự là Bác đã trở lại đường cách mạng với 3 mục tiêu : Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Mà dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc chính là tư tưởng của Tôn Văn. Nhưng cách thực hiện khác hoàn toàn. Tôn Văn dùng cách mạng tư sản. Bác là làm cách mạng nhân dân, cách mạng quần chúng rồi tiến dần lên cách mạng xã hội chủ nghĩa thực sự. Bác nói là làm từ từ, dần dần. Tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay làm sao được với một nước có nền nông nghiệp lạc hậu. Mẫu của Stalin không phải đâu cũng áp dụng như thế. Nhiều ông cách mạng còn trẻ, kinh nghiệm ít, cứ tin theo sách, nhưng Bác không khờ như thế.
Năm 1931-32, ở Hương Cảng, Bác không có chức vụ gì, nhưng vì sự nghiệp cách mạng Bác vẫn làm. Bác gửi thư cho Quốc tế cộng sản đề nghị giao việc, vì thời gian đó Bác chỉ làm nhiệm vụ một hộp thư. Đường giao thông của ta với Pháp bị vỡ do một anh thuỷ thủ Pháp bị bắt khai ra. Khi tôi ở trong tù thì được thông báo cho biết là Trần Văn Giàu bị bắt khai ra đường dây, nhưng sau này tôi hỏi lịch sử Đảng Sài Gòn, họ nói có tài liệu chứng minh là không phải Trần Văn Giàu khai. Mật thám tìm được chỗ Bác ở và bắt Bác. Việc Bác được tha là nhờ luật sư Loseby. Ông luật sư cãi cho Bác là ông Stafford Cripps sau này là bộ trưởng dưới thời thủ tướng Churchill. Việc Bác bị bắt rồi lại được tha, Liên Xô không hiểu, họ nghi ngờ có điều gì phức tạp trong vụ án. Tại sao lãnh tụ cộng sản mà được đế quốc tha yên ổn, cho nên trong vòng 4 năm họ không giao việc gì. Bác là nhân viên thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ, nhưng Người rất chán. Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản Bác không có cương vị gì cả. Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp trước đó, bầu Bác là Uỷ viên dự khuyết, và còn ghi rõ là chỉ công tác ở nước ngoài. Chính vì thế nên Bác không có tên trong đoàn đại biểu của Đảng ta sang dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong. Sau khi xin việc mãi không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi có gặp một nhà trí thức Việt Nam, người này có gặp một nhà trí thức Pháp, họ nói Bác suýt bị hạ vì những chuyện lôi thôi này. Ông lãnh tụ Nhật Bản Nosaka Sando cũng bị làm rầy rà. Những chuyện này Bác biết cả.
Thời gian này quan hệ với Trung Quốc không gay go, vì tình bạn của Bác với Chu Ân Lai, Lí Phú Xuân, Diệp Kiếm Anh… khi bác ở Quảng Châu là thân thiết. Năm 1938-39 Chu Ân Lai cũng giúp đỡ Bác nhiều. Chỉ có sau này với Mao Trạch Đông là Bác gặp khó khăn thôi.
Về việc Bác bị bắt năm 1942 ở Trung Quốc, tôi được biết như sau : chuyện này do Hoàng Điền, đại tá về hưu, người đước dự các lớp huấn luyện ở Liễu Châu năm 1944, nói với tôi. Mục đích chuyến đi này của Bác là gặp Chu Ân Lai để hỏi thăm tình hình quốc tế. Lúc Bác bị bắt, trong người có tấm danh thiếp : Hồ Chí Minh, Việt Nam hoa kiều kí giả và một số giấy tờ khác. Hoàng Điền nói Trương Bội Công đứng đầu bọn tình báo của Trương Phát Khuê đã bố trí Trần Báo ở với những người cách mạng của ta thường đi qua để bắt. Tên này là em bà Ngô Khoả Duy, vợ ông Hồ Học Lãm, người đã biết rõ Bác Hồ. Bác bị hành hạ khổ sở. Nhưng nỗi đau nhất của Bác là Người bị bắt trong lúc tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Nếu ở nhà lúc đó không có anh Trường Chinh thì thật sự chúng ta cũng không có ngày nay đâu. Tả lại phần nào nỗi đau của mình trong những ngày bị bắt giữ, Bác có viết bài thơ : ” Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do “. Càng cay đắng hơn là Bác bị bắt trong lúc Cách mạng rất cần Người.
Nỗi đau thứ tư là sau năm 1945, Liên Xô, Trung Quốc không công nhận ta. Đảng cộng sản Pháp cũng nghi ngờ.
Nỗi đau thứ năm là 1950-52, Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang phê phán gay gắt, buộc phải thay đổi đường lối, dẫn ta đến sai lầm trong cải cách ruộng đất. Tuy nhiên Trung Quốc giúp ta chỉnh lại quân đội có phần đúng. Mục đích của họ là sửa lại cả quân sự, chính trị, tổ chức, cách dùng người. Nhân nói về chính sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này. Có lần trong một cuộc hội nghị về công tác tổ chức, Lý Ban nói : ” Đối với con cán bộ khi kết nạp vào Đảng không cần phải thời gian dự bị, mà được chính thức ngay “. Bác nói ngay : ” Chú nói như thế không đúng. Đối với cách mạng phải xem cụ thể người ấy như thế nào. Vì có chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra con là chó. Phan Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng đã đưa mật thám bắt Phan Bội Châu. Nhưng cũng có những địa chủ lớn như Bành Bái, địa chủ nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông lại là người tiến bộ, Đảng cộng sản coi là anh hùng. Cho nên không được máy móc, không được xem nguồn gốc xuất thân, lí lịch làm quan trọng “.
Họ sửa khá nhiều nên Bác đau lòng. Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau đó phải gạt hết, có những người còn bị đấu tố nữa.
Nỗi đau thứ sáu là Bác không ngờ Liên Xô và Trung Quốc lại xung đột, mâu thuẫn đến gay gắt như thế. Bác nói phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo. Nhưng Liên Xô và Trung Quốc cùng lãnh đạo thế nào được. Một nước chỉ có một mặt trời. Mao Trạch Đông là mặt trời hay Stalin là mặt trời đây. Liên Xô hay Trung Quốc đứng đầu lãnh đạo. Chỉ có một mà thôi. Hai bên xung đột nên bên nào cũng muốn lôi kéo Bác về phía mình. Bác bị giằng xé trong suốt những năm cuối của cuộc đời.
Nỗi đau thứ bảy là sự bất hoà giữa mấy người lãnh đạo của ta. Không phải mọi việc đều êm đẹp cả. Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh Mĩ, nhưng quan điểm quốc tế không thống nhất, về quan hệ cá nhân với nhau không thuận lợi. Sau này Bác bảo tôi viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Ý Bác là muốn nói mấy ông này. Bài đó tôi viết Bác sửa lại nhiều. Sau Bác nói anh Tố Hữu cùng sửa nữa. Tôi được biết từ năm 1966, cứ mỗi buổi chiều thứ bảy, Bác lại cho làm cơm và nói : ” Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết ra. Không nên để bụng “. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư kí cho những cuộc đó cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều gì. Nếu không biết việc này thì không hiểu hết tại sao trong di chúc Bác lại dặn phải đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương đến địa phương. Trên mà đã đoàn kết rồi thì cần gì nói đến cơ sở nữa. Trên đoàn kết mà dưới không thì lôi thôi to, các ông trị cho chết. Chính vì thế mà Bác rất buồn. Có thể có một vài hiện tượng, có đồng chí nào đó muốn vượt Bác. Bác biết hết nhưng Bác không quan tâm.
Nỗi đau thứ tám là tình hình trong nước và thế giới trước khi Bác qua đời đều căng thẳng, nên đầu óc Bác không được thư thái. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài, nhân dân ta hi sinh nhiều của, nhiều người, Bác rất đau lòng. Tuy Bác nói là trường kì kháng chiến nhưng thực sự Bác không muốn cuộc chiến tranh phải kéo dài. Từ đầu đến cuối, Bác không muốn có chiến tranh. Cho nên mới có cuộc hoà hoãn với Pháp. Đối với Mĩ cũng thế, Bác muốn tranh thủ, nhưng không được mới phải đánh. Cộng thêm những năm tháng ốm đau kéo dài (trên 3 năm), có lúc Người cáu gắt cũng vì lẽ đó. Tất cả những nỗi đau này Bác không thố lộ cùng ai, kể cả với anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh. Nếu chúng ta không hiểu những nỗi đau của Bác, không hiểu được sự chín chắn, đúng đắn của Bác trong chính trị thì ta sẽ giáo điều, nói không sát.
Tổng kết lại, cho đến nay Đảng ta có 4 thắng lợi lớn và 4 thất bại. Bốn thắng lợi thì đã rõ : thứ nhất là Tổng khởi nghĩa, thứ hai là Kháng chiến chống Pháp, thứ ba là Kháng chiến chống Mĩ, thắng lợi thứ tư là thực hiện công cuộc Đổi mới đang thắng lợi dần dần. Thắng lợi trong công cuộc đổi mới tuy Bác không còn, nhưng đường lối, tinh thần độc lập tự chủ, tức là trở lại với chính mình, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh mới đổi mới được. Cứ để như cũ chắc hôm nay nước đổ rồi. Bốn thắng lợi đều do tư tưởng độc lập tự chủ, do tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định.
Bốn lần thất bại là do học theo Trung Quốc, học theo Liên Xô. Đó là cứ xông thẳng tới chính quyền mà là chính quyền công nông thôi, đó là cải cách ruộng đất, đấu địa chủ. Bác không phải là không nói tới đấu tranh giai cấp. Cụ nói đấu tranh giai cấp phụ thuộc vào đấu tranh dân tộc. (…)
Sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa xã hội là cứ xông thẳng tới chính quyền. Và khi đã nắm được chính quyền rồi, đáng lẽ phải thực hiện dân chủ thì lại nhấn mạnh chuyên chính. Cái sai nữa là, sau khi giành được chính quyền rồi thì thực hiện công hữu ngay lập tức, công hữu cực đoan, tức là vô sản hoá hơn cả tư sản. Mọi người không ai có gì cả, chỉ là người làm công ăn lương, nên động lực mới yếu đi. Marx dự báo khoa học có cái đúng có cái trật. Nhưng về xu thế lịch sử là Marx nói đúng. Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại dài lâu mà nó phải thay thế bằng công bằng hơn, cuối cùng là chế độ công hữu. Hiện tại không phải là công hữu hết mà chỉ cần xây dựng một nền kinh tế hợp tác là đủ. Chúng ta chưa dám nói khác. Người cầm quyền lại càng sợ nói khác đi.
© Hoàng Tùng
(1) Sau đó chỉ thấy kể ra 8 nỗi đau, không rõ người kể đếm nhầm, hoặc không kể hết, hay người ghi chép thiếu. Chúng tôi không nghĩ rằng bản này (được chuyền tay trong giới cán bộ) đã bị kiểm duyệt. Đây cũng không phải là sự bất nhất duy nhất trong hồi kí này.
No comments:
Post a Comment