MỘT ĐÁNH GIÁ LẠI CUỘC CHIẾN VIỆT - TRUNG 1979
Trương Tiểu Minh (Xiaoming Zhang)BVN dịch
TÓM TẮT: Bài này cố gắng phát hiện những
nhận thức của chính Trung Quốc về cuộc chiến Việt Nam 1979. Bài viết
trình bày các quan hệ lịch sử Trung – Việt và ảnh hưởng của chúng đến
đường lối chiến tranh của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình,
chiến lược quân sự cùng những chuẩn bị tấn công của người Hoa.
Bài chỉ ra các đặc trưng Trung Quốc trong
đường lối tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh: tính toán khi nào và làm
thế nào sử dụng sức mạnh quân sự, mục tiêu cơ bản trong suốt cuộc chiến,
và cơ sở để đánh giá thành công. Bài còn duyệt lại những hậu quả của
xung đột, cả về chính trị lẫn quân sự, và các bài học rút ra từ bản thân
người Hoa.
Đầu năm 1979 Trung Quốc xâm lược Việt Nam,
theo lời lãnh đạo Trung Quốc, nhằm “dạy Việt Nam một bài học” khó quên.
Tuy Bắc Kinh tuyên bố chiến thắng, giới học giả hiện nay nói chung đều
đồng ý rằng cuộc chiến không diễn tiến tốt đẹp như Trung Quốc đã kỳ vọng
và Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đã thể hiện kém trong cuộc xung
đột. Chính Trung Quốc, không phải Việt Nam, thật sự nhận được bài học.
Tư liệu Trung Quốc về cuộc chiến vẫn hết
sức bí mật, thông tin có được không những rời rạc và thiên lệch, mà còn
đáng ngờ về tính chân thực. Có một vài bài tường thuật bằng tiếng Anh
song phần lớn đều chứa đầy suy đoán và thiếu chính xác, được người ngồi
lê đôi mách ở Hồng Kông và Đài Loan ủng hộ.
Tuy nhiên, việc kiểm soát thông tin hiện
nay của Bắc Kinh có vẻ đang nới lỏng. Nhiều tài liệu lưu hành nội bộ
liên quan đến hiệu suất và kinh nghiệm của PLA trong cuộc chiến 1979 đã
đến được thư viện Hoa Kỳ và dễ dàng truy cập trên internet. Thêm vào đó,
hồi ký của các sĩ quan quân đội cao cấp đã sẵn có.
Bài này cố gắng phát hiện những nhận thức của chính Trung Quốc về
cuộc chiến Việt Nam 1979 dựa trên việc khảo sát các tài liệu gốc và
nghiên cứu của những học giả hàng đầu. Bài bắt đầu bằng một thảo luận về
các quan hệ lịch sử Trung – Việt và ảnh hưởng của chúng đến đường lối
chiến tranh của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Sau đó
khảo sát vai trò của PLA, chiến lược quân sự cùng những chuẩn bị tấn
công của người Hoa và quan điểm của chính PLA về các hoạt động quân sự.
Sau cùng duyệt lại những hậu quả của cuộc xung đột, cả về chính trị
lẫn quân sự, và các bài học rút ra từ bản thân người Hoa. Bài sẽ trình
bày chi tiết đường lối tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh, chỉ ra những
nét đặc trưng Trung Quốc: lãnh đạo Bắc Kinh đã không ngần ngại sử dụng
sức mạnh quân sự sau khi tính toán cẩn thận khi nào và làm thế nào sử
dụng vũ lực, mục tiêu cơ bản của PLA là chiếm lĩnh và duy trì thế chủ
động; cơ sở quan trọng nhất trên đó người Hoa đánh giá thành công quân
sự về mặt địa dư chính trị thay vì hiệu quả tác chiến.
PLA đã bị quân đội Việt Nam đánh trả mãnh liệt, nhưng đã hoàn thành
mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, buộc Việt Nam phải quan tâm đến áp
lực quân sự mới tại biên giới phía Bắc, từ đó cắt giảm hoạt động phiêu
lưu của Việt Nam ở Đông Nam Á. Tuy nhiên PLA đã thất bại trong việc phân
tích các bài học xung đột từ triết lý và truyền thống quân sự lạc hậu,
từ đó có thể hạn chế kế hoạch hiện đại hóa và chuyển biến của họ.
Một khía cạnh lịch sử – văn hóa
Bắc Kinh và Hà Nội từng là đồng minh thân cận kể từ chiến tranh
Đông Dương lần thứ nhất vào đầu những năm 1950. Thế thì tại sao Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa lại quyết định gây chiến với Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam vào cuối năm 1978? Các lý do của Bắc Kinh rõ ràng bao gồm
“mộng bá quyền” của Hà Nội tại Đông Nam Á; vi phạm biên giới và sau đó
xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc; ngược đãi người Hoa sinh sống ở Việt Nam;
sự thân mật của người Việt với Liên Xô vốn đang mở rộng ảnh hưởng của họ
ra Đông Nam Á.
Những nhà quan sát vào thời điểm đó và một số nghiên cứu sau này
khẳng định rằng mục tiêu thật sự của Bắc Kinh là nhằm giải tỏa áp lực
quân sự của Hà Nội lên Campuchia và cột chặt lực lượng của Việt Nam vào
mặt trận thứ hai. Robert Ross quả quyết rằng Bắc Kinh dùng vũ lực quân
sự tấn công Việt Nam không chỉ nhằm phản ứng lại hành động gây hấn của
Hà Nội tại Đông Dương mà còn phản ứng lại sự hợp tác của người Việt với
Liên Xô để bao vây Trung Quốc từ Đông Nam Á.
Các nghiên cứu khác thì cho rằng Trung Quốc xâm lược Việt Nam nhằm
bôi nhọ hình ảnh Liên Xô như một đồng minh tin cậy khi có khủng hoảng.
Trong nghiên cứu về quan hệ Bắc Kinh với Việt Nam trước khi xảy ra
chiến thắng 1975 của Hà Nội, Zhai Qiang kết luận “chính sách thực dụng
để một quốc gia thành công nhanh chóng không chỉ là lời nói” của lãnh
đạo Trung Quốc trên quan hệ quốc tế.
Tuy tự tuyên bố là những người theo chủ nghĩa Mác – Lênin, họ kế
thừa hoàn toàn di sản lịch sử Trung Quốc: quan điểm xem Trung Quốc là
trung tâm của thế giới, còn các nước bé bên rìa, kể cả Việt Nam, đều là
hạ cấp và nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của họ. Mặt khác, “niềm tự hào về
lịch sử và tính nhạy cảm văn hóa” là nhân tố chủ chốt ảnh hưởng đến thái
độ của người Việt trước Trung Quốc.
Theo chiều dài lịch sử, người Việt ưa vay mượn, thích nghi với nền
văn minh và định chế Trung Hoa theo cách riêng, kiên cường bảo vệ nền
độc lập cùng di sản văn hóa của mình. Người Việt đã nhờ cậy Trung Quốc
khi nội lực yếu nhưng lại hống hách sau khi thống nhất, thoát khỏi sự
xâm lược của ngoại bang. Hình ảnh lịch sử tương hỗ của lãnh đạo và nhân
dân hai nước về quan hệ Trung – Việt rõ ràng đã đóng vai trò đáng kể
khiến Bắc Kinh quyết định chinh phạt Việt Nam.
Từ đầu những năm 1950 Trung Quốc hỗ trợ Hà Nội mạnh mẽ về chính trị
lẫn quân sự, giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp
cũng như đánh bại đế quốc Mỹ. Các nghiên cứu gần đây cho thấy chính sách
Trung Quốc đối với Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu
tiên được dẫn dắt bởi nhiều suy xét đa tạp, từ truyền thống lịch sử cho
đến lý tưởng cách mạng và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, xuyên suốt vẫn là thái độ bề trên của người Hoa trong
quan hệ với Việt Nam. Tuy lãnh đạo Trung Quốc thường xuyên tái khẳng
định rằng Việt Nam cần phải được đối xử “bình đẳng,” Chen Jian nhận xét
là bản thân lối ngụy biện đó đã phản ánh niềm tin mạnh mẽ cho rằng “họ
đã chiếm được vị thế để có thể qui định giá trị và thái độ ứng xử nhằm
thống trị quan hệ của họ với các nước láng giềng.
” Bắc Kinh tuyên bố rằng họ chưa từng áp đặt điều kiện chính trị
cũng như kinh tế trên sự giúp đỡ to lớn về quân sự và vật chất cho Hà
Nội. Họ muốn Hà Nội xác nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc trong phong
trào giải phóng dân tộc ở khu vực và trên thế giới. Thái độ này của
người Hoa đã khiêu khích người Việt, vốn đặc biệt nhạy cảm về quá khứ
không êm đẹp với Trung Quốc. Tuy Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “đồng
chí anh em” vào thời điểm đó, đằng sau là ác cảm ngày càng tăng của
người Việt về phiên bản quan hệ hiện đại của Trung Quốc.
Điểm lại tài liệu tiếng Hoa liên quan đến cuộc chiến 1979 cho thấy
những báo cáo về cách ứng xử không hay của Việt Nam đối với Trung Quốc
từ năm 1975 đã gây tổn thương hơn nữa đến ý thức thống trị của người
Hoa. Lãnh đạo trung ương Việt Nam đã thông qua chính sách xem đế quốc Mỹ
là kẻ thù lâu dài, song Trung Quốc là “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp
nhất,” và “kẻ thù mới dự kiến” mà Việt Nam cần phải chuẩn bị chiến đấu.
Hòa theo, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐVN) đã kêu
gọi lực lượng vũ trang Việt Nam thi hành chiến lược tấn công chống lại
Trung Quốc,
chủ động tấn công và phản công quân địch bên trong cũng như bên
ngoài lãnh thổ Việt Nam, đồng thời biến khu vực biên giới thành mặt trận
chống Trung Quốc. Thái độ khinh thường PLA của người Việt, đồng thời tỏ
ra quá tự tin vào sức mạnh quân sự của chính mình còn là chất xúc tác
khiến PLA hành động.
Lực lượng thiện chiến QĐVN đã chiến đấu hầu như liên tục qua nhiều
thập niên và có thể tuyên bố chiến thắng trước hai cường quốc to lớn
phương Tây, trong khi đó các chuyên gia Việt Nam thì lại cho rằng PLA có
kém khả năng tác chiến và tinh thần yếu. QĐVN đặc biệt tự hào về vũ khí
do Nga chế tạo và trang thiết bị tịch thu được từ Hoa Kỳ, và theo
truyền thông Việt Nam, chúng siêu việt hơn mọi trang thiết bị của PLA.
Trong hơn hai thập niên, Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội 20 tỉ
USD, nhiều hơn mọi quốc gia khác. Khi Việt Nam bắt đầu buộc người Hoa
tại miền Bắc hồi hương và gia tăng xâm phạm biên giới Trung Quốc, nhiều
người Hoa cho rằng Hà Nội đã vô ơn trước sự giúp đỡ và hy sinh đó. Làn
sóng giận dữ của công chúng nổi lên phản đối Việt Nam. Những người đã
từng giúp đỡ cộng sản Việt Nam trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống
Mỹ đặc biệt cảm thấy bị phản bội và nóng lòng muốn “dạy Việt Nam một bài
học.” Trong số đó có Đặng Tiểu Bình,
Phó Thủ tướng kiêm Tổng Tham mưu Trưởng PLA, đã khó chịu về thái độ
khiếm nhã của Việt Nam trước sự hỗ trợ của Trung Quốc ngược về giữa
những năm 1960. Khi tình trạng thù địch giữa hai quốc gia tăng cao vào
cuối những năm 1970, ông ta trở nên ngày càng bức xúc, thậm chí đã từng
gọi Việt Nam là wangbadan (nghĩa đen là “trứng rùa” nhưng có
thể được dịch là đồ-chó-đẻ) trước một lãnh đạo nước ngoài. Nhiều lý
thuyết gia quân sự nói chung đều cho rằng “trước thái độ thù địch ở cả
hai phía, giận dữ và căm hờn … sẽ nổi lên” giao tranh.
Sự xấc xược của Việt Nam cộng với mâu thuẫn biên giới ngày càng
tăng và tình trạng di tản của người Hoa vẫn tiếp diễn đã tăng cao bức
xúc trong giới lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc gia, đưa đến
hành động xem xét sử dụng vũ lực.
Nước đi đầu tiên của Trung Quốc hướng đến chiến tranh
Hiện chưa có tài liệu chắc chắn về vấn đề khi nào và làm thế nào
Bắc Kinh đã quyết định có hành động quân sự đối với Việt Nam. Nayan
Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu làm việc cho Tạp chí Kinh tế Viễn Đông,
tường trình một vài chi tiết cho thấy lãnh đạo Trung Quốc quyết định
“dạy Việt Nam một bài học” vì thái độ “vô ơn và ngạo mạn” tại phiên họp
hàng tuần của Bộ Chính trị vào đầu tháng 07/1978.
Tuy nhiên, ông nhận định rằng chính nhân cuộc họp này mà lãnh đạo
Trung Quốc đã kết hợp “một cách thuyết phục” quyết định tiến hành hoạt
động quân sự như một nước đi “làm suy yếu vị thế của Liên Xô trong Thế
giới Thứ ba.” Các nguồn tin mới của Trung Quốc cho rằng việc cân nhắc về
một phản ứng quân sự trước khủng hoảng giữa Trung Quốc và Việt Nam là
một quá trình chậm chạp; không có quyết định nào được ra cho đến khi
thật trễ.
Hơn nữa, hành động này ban đầu chỉ được xem là xung đột cục bộ
giữa hai nước thay vì là một phần trong chiến lược của Trung Quốc chống
bá quyền toàn cầu. Trong suốt những năm đầu của thời kỳ hậu Mao, Bắc
Kinh đã sử dụng phong cách lãnh đạo đồng thuận, thường là một quá trình
lâu dài tham khảo ý kiến không chính thức các lãnh đạo cao cấp cũng như
thuộc cấp, gồm nhân viên chính phủ và sĩ quan quân đội cấp thấp hơn,
chuyên trách về vấn đề đó, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Zhou Deli, Tham mưu Trưởng Quân Khu Quảng Châu, nhớ lại vào tháng
09/1978 một cuộc họp về “làm thế nào giải quyết phần lãnh thổ của chúng
ta đang bị lực lượng Việt Nam chiếm đóng” được tổ chức tại Bộ Tổng Tham
mưu PLA. Trọng tâm ban đầu là cuộc xung đột biên giới, vốn được xem là
nguyên nhân chủ yếu của tình trạng leo thang căng thẳng giữa hai quốc
gia kể từ năm 1976. Một đề xuất thăm dò là nên có hoạt động qui mô nhỏ
tấn công một trung đoàn Việt Nam ở Trùng Khánh, một huyện biên giới tiếp
giáp tỉnh Quảng Tây.
Tuy nhiên, rà soát sau đó về thông tin tình báo mới nhất cho hay
Việt Nam chuẩn bị tấn công Campuchia, hầu hết các thành viên tham gia
đều cho rằng bất kỳ hành động quân sự nào cũng phải có tác động đáng kể
lên Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ đề nghị tấn công một đơn vị bộ
đội chính qui Việt Nam trong phạm vi địa lý rộng lớn hơn.
Tuy cuộc họp kết thúc mà không đi đến bất kỳ quyết định cụ thể, nó
đã dọn đường cho kế hoạch chiến tranh sau này của Trung Quốc đối với Hà
Nội, và có thể đây là bằng chứng đầu tiên liên hệ hành động quân sự trên
biên giới Bắc Việt với sự gây hấn của Việt Nam ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, hoạt động quân sự qui mô lớn đối với Việt Nam có thể ảnh
hưởng đến hình ảnh quốc tế của Trung Quốc trong khu vực và trên thế
giới. Chuyến viếng thăm chính thức của Đặng Tiểu Bình đếnThái Lan,
Malaysia và Singapore vào đầu tháng 11 đã trao cơ hội tìm kiếm sự ủng hộ
của những nước này đối với chính sách Việt Nam của Trung Quốc.
Trong chuyến đi của mình, Đặng gây dấu ấn với các chủ nhà nước
ngoài rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự gây hấn của người
Việt nếu Việt Nam tấn công Campuchia. Trong nước, truyền thông có đầy ắp
những bài xã luận cùng bình luận lên án Việt Nam xâm lấn lãnh thổ Trung
Quốc và cảnh báo khả năng xảy ra hành động trả đũa.
Ngày 23/11 Bộ Tổng Tham mưu triệu tập một cuộc họp khác nhằm thảo
luận kỹ kế hoạch chiến tranh mới. Cân nhắc các đề xuất trước đó, Bộ Tổng
Tham mưu quyết định mở rộng phạm vi và thời hạn tác chiến. Kế hoạch là
sẽ tấn công mọi vị trí quân sự và thành phố trọng yếu của Việt Nam dọc
theo biên giới Quảng Tây và Vân Nam, dự kiến kế hoạch này sẽ ngăn chặn
việc gây hấn của người Việt. Một lần nữa, một số người đã cho rằng những
hành động này chưa đủ tầm vì vẫn giới hạn tại khu vực xa xôi hẻo lánh,
không trực tiếp đe dọa Hà Nội.
Tuy nhiên họ không phản đối vì cho rằng lãnh đạo trung ương đã xem
xét tỉ mỉ vấn đề này. Cuộc họp chỉ định hai Quân Khu Quảng Châu và Côn
Minh tiến hành chiến dịch. Cuộc họp còn đề nghị điều lực lượng phòng bị
chiến lược của PLA, tổng cộng gồm bốn quân đoàn và một sư đoàn, từ Quân
Khu Vũ Hán và Thành Đô đến tăng cường cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam.
Ngày 07/12 Quân Ủy Trung ương (CMC) triệu tập cuộc họp, được cho là
đã kéo dài 4 – 5 giờ, và quyết định tiến hành cuộc chiến hạn chế trên
miền biên giới phía Nam Trung Quốc nhằm “đánh trả” Việt Nam. Ngày hôm
sau CMC ra lệnh cho hai Quân Khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến
dịch, quân đội phải sẵn sàng tác chiến vào ngày 10/01/1979. Mệnh lệnh
xác định rõ rằng cuộc chiến có tính chất hạn chế nghiêm ngặt, tiến hành
trong vòng 50 cây số tính từ biên giới và kéo dài hai tuần.
Sau đó CMC tiếp tục nhấn mạnh nguyên lý cốt lõi của học thuyết tác
chiến truyền thống PLA, yêu cầu hai bộ tư lệnh quân khu phải “tập trung
lực lượng áp đảo nhằm bao vây các lực lượng quân địch từ bên sườn, tiêu
diệt từng lực lượng một bằng lối đánh nhanh, rồi lập tức rút lui.”
Thời điểm của mệnh lệnh này cho thấy Trung Quốc đã phản ứng lại
tình hình Việt Nam chuẩn bị tấn công Campuchia, song việc tiến hành
chiến dịch quân sự qui mô lớn thậm chí trước khi lực lượng Việt Nam vượt
sông Mekong còn thể hiện phản ứng sau nhiều năm tức giận vì hành vi vô
ơn của Việt Nam.
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Tuy bộ máy chiến tranh của người Hoa được chuẩn bị kỹ lưỡng từ đầu
tháng 12, ngày tấn công chưa được ấn định cụ thể. Những nghiên cứu trước
đây suy đoán rằng quyết định của Bắc Kinh về cuộc chiến đã được ấn định
tại Hội nghị Công tác Trung ương vào giữa 10/11 và 15/12/1978. Trên
thực tế, cuộc họp này kêu gọi xem xét nghị trình cải tổ kinh tế mười năm
tới và kết thúc bằng việc giải quyết các di sản Cách mạng Văn hóa.
Không rõ là đã có thảo luận đáng kể nào về tình hình Đông Dương hay
không. Tuy nhiên, hội nghị đã củng cố vị thế lãnh đạo trung ương của
Đặng Tiểu Bình, cho phép ông ta, tuy chỉ là một trong 5 phó chủ tịch
Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) kiêm Tổng Tham mưu Trưởng, là người có
quyền quyết định về Việt Nam.
Tại hội nghị CMC vào đêm giao thừa dương lịch, Đặng chính thức đề
xuất cuộc chiến trừng phạt Việt Nam. Mọi thành viên tham dự, kể cả Hoa
Quốc Phong, chủ tịch CCP, đều được cho là đã ủng hộ đề xuất này. Tại
cuộc họp, Đặng bổ nhiệm Hứa Thế Hữu chỉ huy hoạt động từ Quảng Tây phía
Đông, Dương Đắc Chí, tư lệnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy hoạt động từ Vân
Nam phía Tây, không dùng Vương Tất Thành, tư lệnh Quân Khu Côn Minh.
Rõ ràng lo ngại về sự thay đổi chỉ huy ngay trước cuộc chiến, Đặng
sau đó đã gửi hai trợ tá của mình đến Côn Minh giám sát việc chuyển giao
và chuẩn bị chiến tranh. Không có lãnh đạo chung, hai quân khu sẽ độc
lập tác chiến và hầu như không có bất kỳ hoạt động điều phối hoặc hợp
tác nào. Hội nghị còn nhắc lại rằng cuộc xâm lược phải nhanh gọn và toàn
bộ quân đội phải rút lui sau khi hoàn thành mục tiêu tác chiến.
Những bài viết gần đây nhận định rằng một số lãnh đạo Trung Quốc
thật sự đã lên tiếng phản đối cuộc tấn công Việt Nam, nhưng không trùng
khớp về lãnh đạo nào và hình thức phản đối như thế nào.
Do Đặng Tiểu Bình là kiến trúc sư cuộc chiến, rất có thể chẳng ai
muốn tranh luận về quyết định của ông ta vì địa vị cao và uy tín của ông
ta trong Đảng. Nhờ kiểm soát Bộ Tổng Tham mưu, Đặng có khả năng khởi
động bộ máy quân sự Trung Quốc trước khi lãnh đạo trung ương có quyết
định chính thức.
Hành xử tương tự như Mao, Đặng tham khảo ý kiến riêng của các trợ
tá thân tín trước khi ra quyết định, sau đó luôn đưa ra Bộ Chính trị để
được chính thức thông qua. Một trong những trợ tá thân tín nhất của ông
ta là Trần Vân, cũng là phó chủ tịch CCP và đảng viên kỳ cựu, được cho
là đãcó những đóng góp đáng kể vào quyết định tiến hành chiến tranh Việt
Nam.
Có một số quan ngại chính yếu: liệu Liên Xô sẽ phản ứng bằng cách
tấn công trả đũa ở mạn Bắc để buộc Trung Quốc phải chiến đấu trên cả hai
mặt trận; liệu Hoa Kỳ muốn lợi dụng cơ hội này để đắc lợi; và liệu cuộc
chiến Việt Nam có gây trở ngại cho tân nghị trình hiện đại hóa kinh tế
của Trung Quốc hay không. Trở ngại đáng lo nhất là phản ứng của Liên Xô.
Theo phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham mưu, Moscow có ba phương
án phản ứng lại cuộc xâm lược: xâm nhập quân sự qui mô lớn kể cả tấn
công trực tiếp Bắc Kinh; xúi giục lực lượng vũ trang dân tộc thiểu số
lưu vong ở Liên Xô tấn công những tiền đồn của Trung Quốc tại Tân Cương
và Nội Mông; hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ nhằm gia tăng căng
thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, do Liên Xô không sẵn lực lượng
thích hợp để có thể lập tức tiến hành hoạt động quân sự qui mô lớn
chống Trung Quốc, lãnh đạo người Hoa, đặc biệt là Đặng, tin rằng hoạt
động quân sự phòng vệ, giới hạn và ngắn ngủi tấn công Việt Nam sẽ không
kích động Liên Xô can thiệp và khiến quốc tế giận dữ.
Hai cuộc xung đột biên giới trước đây, với người Ấn năm 1962 và với
Liên Xô năm 1969, đã củng cố cho suy tính này. Thời hạn ngắn của cuộc
chiến còn giúp giảm nhẹ chống đối trong nước và bào chữa cho quyết định
của Bắc Kinh. Tuy nhiên, lãnh đạo Trung Quốc vẫn cảnh giác ra lệnh cho
những binh đoàn ở quân khu phía Bắc và Tây Bắc sẵn sàng chiến đấu, đề
phòng trường hợp bị Liên Xô tấn công.
Cuộc họp đêm giao thừa dương lịch đã trì hoãn thời điểm tiến hành
hoạt động quân sự. Các nhà phân tích phương Tây lập luận rằng Bắc Kinh
vẫn bị kìm nén vì quan ngại phản ứng của quốc tế.
Do đó chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và Nhật Bản của Đặng được lên kế
hoạch là để “thăm dò.” Tuy nhiên, những trợ tá thân thiết của Đặng cho
rằng phản ứng dữ dội tiềm tàng của quốc tế sẽ không cản được ông ta bởi
vì Đặng sẽ không từ bỏ bất cứ điều gì một khi ông ta đã quyết trong đầu.
Các lãnh đạo Trung Quốc lo lắng hơn về việc liệu quân đội của họ có
đủ thời gian chuẩn bị cho cuộc xâm lược hay không. Binh lính Trung Quốc
không tham gia chiến đấu trong thời gian dài, đồng thời nhiều người
trong số họ không hiểu lý do tại sao lại phải tiến hành cuộc chiến tấn
công một đồng minh truyền thống và láng giềng nhỏ bé.
Ngay sau cuộc họp đêm giao thừa, Đặng phái Dương Dũng, phó tổng
tham mưu trưởng đến Vân Nam, và Trương Chấn, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần
đến Quảng Tây nhằm thẩm định điều kiện tác chiến của quân đội. Kinh
hoảng về tình trạng chưa sẵn sàng, Trương lập tức đề nghị tạm hoãn cuộc
chiến một tháng. Sau này ông hồi tưởng, CMC đã đồng ý dời cuộc phản công
đến giữa tháng Hai.
Dương trình bày báo cáo, kèm theo những đề xuất về kế hoạch cuộc
chiến, ngày 22/01 tại nhà của Đặng với sự có mặt của các tham mưu trưởng
CMC. Rất có thể trong cuộc họp này lãnh đạo Trung Quốc đã tái khẳng
định quyết tâm tiến hành cuộc chiến và ấn định thời hạn tấn công. Ngày
hôm sau, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức họp chốt lại kế hoạch cuộc chiến và ra
lệnh quân đội sẵn sàng hành động vào ngày 15/02. Nhằm ngăn chặn nguy cơ
mất khả năng kiểm soát, lãnh đạo trung ương đặc biệt yêu cầu Hứa Thế
Hữu phải dừng hoạt động quân sự và rút quân ngay sau khi chiếm được Lạng
Sơn và Cao Bằng, hai thành phố lớn thuộc biên giới Việt Nam.
Ngày 11/02/1979, hai ngày sau khi Đặng Tiểu Bình trở về sau chuyến
viếng thăm Hoa Kỳ và Nhật Bản, hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đã được
triệu tập. Đặng nêu rõ lý do căn bản của cuộc tấn công Việt Nam và sau
đó mệnh lệnh tấn công Việt Nam ngày 17/02 đã được gửi đến tư lệnh quân
đội địa phương ở Quảng Tây và Vân Nam.
Đây là ngày các quan sát viên ngoài cuộc đã dự kiến từ lâu. Họ suy
đoán một cách hợp lý rằng cuộc tấn công có thể liên hệ mật thiết đến
những yếu tố thời tiết: sẽ bất lợi nếu tiến hành hoạt động quân sự trong
mùa mưa, thường bắt đầu vào tháng Tư, hoặc tấn công quá sớm vì lực
lượng vũ trang Xô-viết có thể vượt sông băng dọc theo biên giới Trung –
Xô.
Đặng và những lãnh đạo khác đã tính toán cẩn thận mọi phương án một
khi xua quân vượt biên giới sang Việt Nam. Họ giới hạn qui mô, thời
gian lẫn không gian của cuộc chiến và gọi đó là “cuộc phản công tự vệ,”
toan tính giảm thiểu mọi phản ứng tiêu cực ở trong lẫn ngoài nước.
Tuy nhiên, một khi cuộc chiến bắt đầu, trong khi vẫn quan tâm sâu
sắc đến diễn biến, Đặng hiếm khi đưa ra chỉ đạo hay mệnh lệnh (trái
ngược với phong cách lãnh đạo của Mao Trạch Đông).
Chiến lược, mục tiêu và chuẩn bị
Gerald Segal tuyên bố rằng động cơ chủ yếu của Trung Quốc khi tấn
công Việt Nam là nhằm ngăn cản tham vọng và hành động gây hấn của người
Việt tại Đông Nam Á, đe dọa an ninh Trung Quốc, đồng thời phô bày điểm
yếu của Liên Xô. Song tính toán chính trị nghèo nàn đã khiến lãnh đạo
Trung Quốc tự đặt mình vào vị thế khó khăn trong lúc xây dựng chiến lược
trừng phạt Việt Nam và họ chẳng bao giờ có cơ hội thành công. Tham vọng
rõ ràng của Trung Quốc muốn “dạy Việt Nam một bài học” đã chuyển tải
mục tiêu chiến tranh tối thượng của họ là “một hành động trả thù.”
Ngay từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục tiêu và tiến hành chiến tranh
không vượt ra khỏi phạm vi xung đột biên giới hai nước. Lãnh đạo quân
sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải đưa ra chiến lược hành
động không những hoàn thành mục tiêu trừng phạt mà còn hạn chế thái độ
thù địch theo thời gian và không gian.
Câu hỏi thật sự đặt ra cho các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc
tại địa phương là làm thế nào đạt được và đánh giá được mục tiêu dạy cho
Việt Nam một bài học. Tư duy truyền thống của PLA luôn đặc biệt nhấn
mạnh hành động tiêu diệt sinh lực địch (yousheng liliang).
Một trong những truyền thống tác chiến của PLA là sử dụng lực
lượng áp đảo tuyệt đối để cầm chắc chiến thắng. Đến giữa tháng 01/1979,
hơn một phần tư bộ binh PLA đổ về biên giới Trung – Việt, tổng cộng hơn
320.000 quân. Rút từ kinh nghiệm trận mạc của riêng mình và dựa vào
phong cách tác chiến PLA khai triển trước đây, Hứa Thế Hữu đã đáp ứng
các yêu cầu chiến tranh từ lãnh đạo trung ương bằng phương pháp gọi là niudao shaji (lấy dao mổ trâu để cắt cổ gà).
Lối giao chiến này gồm ba thành phần cơ bản: phải tập trung tấn
công vào những trọng điểm trong tuyến phòng thủ của địch, nhưng đó không
được là điểm mạnh của địch; lực lượng và hỏa lực áp đảo cần được sử
dụng để phá tan tuyến phòng thủ đối phương tại nơi giao chiến; phải
nhanh chóng di chuyển lực lượng vào sâu bên trong rồi tấn công từ mọi
hướng vào thẳng trung tâm quân địch. Bằng cách này, Hứa dự kiến lực
lượng của mình sẽ chia cắt tuyến phòng thủ của địch ra thành nhiều mảnh,
phá vỡ sức kháng cự, rồi tiêu diệt đối phương.
Căn cứ trên các nguyên tắc này, hai Quân Khu Quảng Châu và Côn Minh
đã lên kế hoạch tấn công nhằm hủy diệt những sư đoàn chính qui Việt Nam
trên biên giới Trung Quốc. Cuộc chiến được tiến hành theo hai giai
đoạn. Trong giai đoạn một, tấn công sẽ theo hai mũi vào Cao Bằng và Lào
Cai, bao vây và tiêu diệt hai sư đoàn tại đó, đồng thời đánh phá Đồng
Đăng để làm Hà Nội bối rối về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc.
Sau đó, lực lượng PLA ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công Lạng Sơn,
trong lúc lực lượng Vân Nam khiêu khích một sư đoàn của Việt Nam ở Sa
Pa. Tổng cộng tám quân đoàn PLA đồng thời tham gia và một dự phòng.
Bắc Kinh còn đề ra chiến lược khi nào và làm thế nào sử dụng không
quân. Không Lực PLA đã chuẩn bị 18 không đoàn cùng sáu phi đội bổ sung
nhằm chuẩn bị hỗ trợ hoạt động trên bộ. Để tránh leo thang xung đột, CMC
giới hạn sử dụng không lực chỉ bên trong lãnh thổ Trung Quốc, đồng thời
ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng hỗ trợ hoạt động trên bộ “khi
cần,” tuy không xác định rõ thế nào và khi nào thì đó có thể là tình
huống “cần thiết”. Mệnh lệnh qui định bất kỳ hoạt động bên ngoài không
phận Trung Quốc đều phải được CMC cho phép.
Dựa trên nguyên tắc này, chiến lược yêu cầu mọi đơn vị không quân
phải trong tư thế sẵn sàng bảo vệ vùng trời và hỗ trợ bộ binh, đồng thời
xuất kích càng nhiều càng tốt trên không phận biên giới trong lúc bộ
binh bắt đầu tấn công, nhằm ngăn chặn không lực Việt Nam thực hiện hành
động chống lại Trung Quốc.
Chỉ huy không quân, sĩ quan kiểm soát và các bên kiểm soát chiến
thuật đã được điều đến các tiền đồn chỉ huy của hai Quân Đoàn Quảng Châu
và Côn Minh, bộ chỉ huy quân đoàn và một số sư đoàn bộ binh chịu trách
nhiệm chính trong cuộc chiến.
Từ cuối tháng 12/1978 đến tháng 01/1979, quân đội Trung Quốc gấp
rút luyện tập chiến đấu. Nhiều người trong số họ là tân binh, vốn tham
gia sản xuất nông nghiệp trong thời gian dài, nỗ lực điên cuồng vào phút
chót như vậy tuy hữu ích, song chắc chắn không đủ. Nội dung huấn luyện
chủ yếu tập trung vào những kỹ năng quân đội cơ bản như bắn súng và ném
lựu, trong khi một vài đơn vị có thể thực hiện luyện tập chiến thuật có
giá trị tại cấp trung đoàn và sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ
không chắc đội ngũ của mình có khả năng chiến đấu.
Tóm lại, quân đội PLA đã được huấn luyện và chuẩn bị tồi trong cuộc
chiến hiện đại tấn công lực lượng Việt Nam từng có 25 năm kinh nghiệm
chinh chiến trước khi diễn ra cuộc xung đột này, dữ kiện đó dường như đã
bị bỏ qua.
Tuy có nhu cầu huấn luyện cấp bách, PLA vẫn kế tục truyền thống
quân sự của mình, dùng tuyên truyền chính trị để lên tinh thần và cải
thiện khả năng chiến đấu.
Bộ máy tuyên truyền được khởi động nhằm thuyết phục binh lính rằng
nghị quyết tiến hành chiến tranh của lãnh đạo là cần thiết và đúng đắn.
Việt Nam đã thoái hóa thành “Cuba của phương Đông,” “bọn lưu manh Châu
Á” và “bọn chó săn của Liên Xô,” đang cố chạy theo tham vọng bành trướng
của mình. Ý thức hệ chính trị của chủ nghĩa Mác, tuy được hai quốc gia
chia sẻ, đã không ngăn được Trung Quốc phát động cuộc chiến tự vệ tấn
công một nước láng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi cao cả của quốc gia bị
ảnh hưởng.
Nhiều bài giảng, cuộc họp lên án, cuộc trưng bày hình ảnh và bằng
chứng cụ thể để thấm nhuần tinh thần yêu nước và lòng căm hận quân thù.
Ít ra thì chúng cũng là lời giải thích rõ ràng và hợp lý dành cho những
người lính bình thường và ít học của Trung Quốc về lý do tại sao Trung
Quốc cần phải tấn công Việt Nam, một quốc gia anh em, đồng chí lâu đời.
Chiến dịch quân sự
Lối phản công tự vệ của PLA được tiến hành theo ba giai đoạn. Đầu
tiên từ 17 đến 25/02, lực lượng Trung Quốc đã đập tan tuyến phòng thủ
đầu tiên và chiếm được trung tâm tỉnh Cao Bằng và Lào Cai, các thị xã
quan trọng dọc theo biên giới là Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ đi vào
Lạng Sơn. Giai đoạn hai là chiến dịch tấn công Lạng Sơn cùng khu lân cận
phía Đông, Sa Pa và Phong Thổ mạn Tây Bắc, từ 26/02 đến 05/03.
Giai đoạn cuối cùng là một nỗ lực hơn nữa nhằm dập tắt lực lượng
còn lại của địch đồng thời phá hủy những căn cứ quân sự ở khu vực biên
giới giáp với Trung Quốc trước khi rút quân hoàn toàn vào ngày 16/03.
Các hoạt động quân sự được tiến hành bên trong lãnh thổ Việt Nam trải
dài 900 cây số dọc theo biên giới từ Đông sang Tây. Trong vòng 30 ngày,
lực lượng Trung Quốc đã tham gia những trận đánh đẫm máu nhất kể từ
Chiến Tranh Triều Tiên; sau này trở thành một bước ngoặt cho PLA.
Cuộc tấn công của Trung Quốc đã khiến Hà Nội bất ngờ. Tình báo Việt
Nam dường như không thể giúp được lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị cuộc chiến.
Tuy bị Bắc Kinh đe dọa trong nhiều tháng, lãnh đạo Việt Nam không thể
tin rằng “một nước xã hội chủ nghĩa anh em” mà lại đi tấn công mình. Khi
quân Trung Quốc ồ ạt tràn sang biên giới, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và
Tổng Tham mưu Trưởng QĐVN còn đang ở thăm Phnom Penh. Lối tấn công rộng
khắp của PLA còn gây bối rối cho chỉ huy cấp cao Việt Nam trong việc xác
định lực lượng tấn công chủ lực và mục tiêu thật sự của cuộc chiến.
Trong lúc gấp rút kêu gọi Moscow thực hiện cam kết trong hiệp định
hữu nghị và hợp tác vừa được ký kết giữa hai nước, phản ứng tức thời của
Hà Nội là “tùy cơ ứng biến, bằng mọi cách ngăn cản, làm chậm đường tiến
của Trung Quốc.” Những trận đánh lớn diễn ra tại các thị trấn biên giới
gồm Sóc Giàng, Đông Khê, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường,
giành giật từng chiến hào, từng ngọn đồi. Hai bên đều thể hiện quyết tâm
đẩy mạnh tấn công và phản công bất chấp thiệt hại nặng về thương vong.
Đến ngày 20/02, cố vấn Liên Xô kết luận rằng lối phòng thủ du kích và
phi điều phối của Việt Nam không thể ngăn chặn đường tiến của lực lượng
Trung Quốc.
Lời khuyên đưa ra là lập tức chuyển bằng đường hàng không một quân
đoàn ở Campuchia về tăng cường cho tuyến phòng thủ ở giữa Lạng Sơn và Hà
Nội. Nguồn tin từ Liên Xô cho thấy các cố vấn của họ đã cố gắng hết
mình để tìm gặp lãnh đạo Việt Nam và thuyết phục ông ta hành động. Không
hiểu được mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội tỏ ra phản ứng chậm
chạp trước tình hình thay đổi nhanh chóng của cuộc chiến.
Tuy ban đầu PLA đã chọc thủng được phòng tuyến, nhưng địa hình, đặc
biệt không có đường sá, và sức kháng cự dữ dội của bộ đội chính qui
Việt Nam, an ninh cùng dân quân khu vực, chẳng bao lâu đã đưa quân đội
Trung Quốc vào một thế trận bất ngờ, bộc lộ nhiều điểm yếu và thiếu hiệu
quả của PLA trong vấn đề chỉ huy, liên lạc và hậu cần.
Phần lớn đây là những yếu kém truyền thống của PLA. Trong một số
tình huống, chỉ huy tiền phương Trung Quốc thúc giục không quân hỗ trợ
trực tiếp sau khi các cuộc tấn công trên bộ vấp phải sức kháng cự mãnh
liệt từ phía Việt Nam.
Bộ Tư lệnh từ chối, thay vào đó đã ra lệnh cho họ phải hoàn toàn
dựa vào hỗ trợ của hỏa lực pháo. PLA và tướng lĩnh của họ được đào tạo
theo truyền thống chuyên về chiến tranh trên bộ kèm hỏa lực pháo và ưu
thế số đông. “Tinh thần lưỡi lê” vẫn còn phổ biến. Kết quả là Chiến
tranh Trung – Việt 1979 đã trở thành cuộc chiến trên bộ tàn bạo và đầy
chết chóc.
Thành công trong cuộc chinh phạt của PLA phụ thuộc vào chiến thuật
xâm nhập, tấn công bên sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai sư đoàn
chịu trách nhiệm luồn sâu đã không tiến được đến đích trong vòng 24 giờ.
Địa hình đồi núi, rừng rậm, không đường sá, những cuộc phục kích
của lực lượng bộ đội và dân quân địa phương đã tạo nhiều khó khăn bất
ngờ cho quân Trung Quốc. Sự chậm trễ buộc Hứa Thế Hữu phải trì hoãn cuộc
tấn công trực tiếp Cao Bằng, mặc dù quân đoàn dưới sự chỉ huy của phó
tư lệnh Ngô Trung đã đến gần thành phố từ hướng Đông và hướng Nam.
Tuy nhiên, một điều tra đang diễn ra về dính líu chính trị của ông
ta trong Cách mạng Văn hóa đã tạm ngưng vai trò lãnh đạo của Ngô ngay
giữa chiến dịch. Trong bức điện ngày 20/02, Hứa lặp lại sự phân công
trước đây là chiến dịch sẽ tiếp tục dưới quyền chỉ huy của một phó tư
lệnh khác, mặc dù người này và quân của ông ta vẫn còn chiến đấu để đến
được Cao Bằng từ mạn Bắc.
Mãi tận ba ngày sau Hứa và sĩ quan của mình mới phát hiện rằng Cao
Bằng chỉ được bảo vệ bởi một lực lượng nhỏ, làm bình phong để các cơ
quan đầu não và chính quyền tỉnh có thể rút lui. Sau đó ông ta ra lệnh
tấn công và chiếm được thành phố chỉ sau vài giờ giao chiến.
Việc tiếp quản trễ Cao Bằng đã phá vỡ kế hoạch ban đầu của PLA, vốn
được thiết kế nhằm tìm kiếm những trận đánh nhanh gọn và quyết định.
Lực lượng Việt Nam đã phân tán thành các đại đội hoặc trung đội, ẩn náu
trong núi rừng hang động và liên tục phản công.
Sức kháng cự không ngừng của bộ đội và dân quân Việt Nam đã buộc
Trung Quốc phải rà soát lại chiến thuật của họ, chia quân thành những
tiểu đoàn và đại đội nhằm tham gia các hoạt động tìm diệt ở khu vực Cao
Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và Quảng Hòa. Chiến thuật mới bao gồm việc
chặn đường, lùng sục đồi núi, tìm hang động, thiêu hủy mặt bằng và cho
nổ đường hầm.
Nhiều cuộc giao tranh dữ dội tiếp diễn đã dẫn đến kết quả hàng trăm
bộ đội và dân thường Việt Nam bị giết. Đến tận ngày 06/03 thì tài liệu
thu được từ Việt Nam dường như chứng tỏ sư đoàn QĐVN được giao nhiệm vụ
bảo vệ Cao Bằng đã bị đánh bại. Nếu không có dữ kiện đó, những mất mát
nặng nề của PLA trong suốt giai đoạn đầu sẽ làm cho cuộc chiến trông kém
thành công hơn rất nhiều.
Bắc Kinh trở nên ngày càng lo lắng về diễn tiến cuộc chiến nên thúc
ép chỉ huy bộ binh Quảng Tây tiến hành càng sớm càng tốt trận đánh
quyết định chiếm Lạng Sơn, cửa ngõ ngăn cách Hà Nội với phía Bắc. Rõ
ràng không thỏa mãn với điều đã xảy ra tại Cao Bằng, Hứa tổ chức lại kế
hoạch tác chiến và thúc giục quân đội của mình tấn công Lạng Sơn mạnh mẽ
hơn. Sáu sư đoàn Trung Quốc đã tham gia vào trận chiến quyết định này,
bắt đầu ngày từ 27/02, đi trước là cuộc ném bom dữ dội. Sau nhiều trận
đánh ác liệt, lực lượng Trung Quốc ban đầu nắm quyền kiểm soát cao độ
bao quanh thành phố rồi sau đó chiếm được Bắc Lạng Sơn ngày 02/03, đúng
vào ngày dự kiến chấm dứt hoạt động quân sự.
Do bộ máy tuyên truyền Hà Nội từ chối thừa nhận thất bại của Việt
Nam ở Lạng Sơn, Hứa quyết định tiếp tục hành động, xua quân vượt sông Kỳ
Cùng nơi chia cắt thành phố Lạng Sơn thành hai phần Nam Bắc, xâm chiếm
toàn bộ thành phố, rồi tiếp tục tiến xuống phía Nam nhằm tạo tình thế
quân sự đe dọa Hà Nội. Tuy Bắc Kinh tán thành quyết định của Hữu, họ
loan báo kế hoạch rút quân ngày 05/03, ngay sau khi quân đội Trung Quốc
chiếm được Nam Lạng Sơn, tuyên bố rằng họ đã đạt được mục tiêu chiến
tranh.
Đánh giá cuộc chiến Trung – Việt
Cuộc chiến Trung – Việt 1979 là hoạt động quân sự lớn nhất của PLA
kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Dựa theo chiến lược của Mao Trạch Đông,
“trong mọi giao tranh, tập trung lực lượng áp đảo tuyệt đối trước quân
địch,” Bắc Kinh đã triển khai chín quân đoàn chính qui cùng nhiều đơn vị
đặc nhiệm và địa phương, quân số lên đến hơn 300.000, để tiến hành
chinh phạt Việt Nam trong vòng một tháng.
Lực lượng không quân đã thực hiện 8.500 chuyến bay tuần tra trên
không, 228 chuyến không vận và trực thăng; hải quân đã phái một lực
lượng đặc nhiệm (gồm hai tàu khu trục trang bị tên lửa cùng ba hạm đội
gắn tên lửa và ngư lôi) đến Quần đảo Hoàng Sa đề phòng hải quân Liên Xô
can thiệp. Ngoài ra, các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng
chục ngàn dân quân cùng dân công tham gia hỗ trợ cuộc chiến.
Trong suốt cuộc xung đột, lực lượng Trung Quốc chiếm được ba tỉnh
và hơn một chục thị trấn cùng huyện thị sát biên giới, tuyên bố đã tiêu
diệt và làm bị thương 57.000 quân Việt Nam, gây tổn thất nặng nề bốn sư
đoàn chính qui cùng mười trung đoàn khác, thu giữ một số lượng lớn vũ
khí. Bắc Kinh khẳng định cuộc chiến Việt Nam 1979 đã kết thúc với thắng
lợi thuộc về Trung Quốc.
Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu đương đại đều viết rằng Việt
Nam “đã thật sự vượt trội” lực lượng Trung Quốc trên chiến trường do các
vấn đề trong tác chiến và quân số báo cáo thương vong nặng nề của PLA.
Hà Nội tuyên bố chỉ có dân quân và lực lượng địa phương tham gia chiến
đấu, và không sử dụng chiến thuật phòng ngự nào khác ngoài việc không
ngừng tấn công chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Đài Phát thanh Hà Nội
vào thời điểm đó loan tin rằng Việt Nam đã tiêu diệt và làm bị thương
42.000 quân Trung Quốc.
Một vài ghi chép phía Việt Nam mà những nhà nghiên cứu có thể tham
khảo về hiệu suất và mất mát của Việt Nam trong cuộc xung đột thì khác
với thông tin của các cá nhân đăng tải trên mạng, vốn cho rằng lực lượng
QĐVN chính qui đã thật sự tham gia và tổn thất nặng nề. Việc đánh giá
lại cuộc chiến Trung – Việt mà chỉ dựa trên nguồn tin Trung Quốc sẽ
phiến diện song vẫn có thể làm sáng tỏ vấn đề.
Một cách đánh giá về sự được mất của Trung Quốc là tập trung vào số
thương vong. Bắc Kinh bước đầu thừa nhận đã có 20.000 quân chết và bị
thương trong xung đột biên giới với Việt Nam. Giới học giả hiện nay có
xu hướng ước tính 25.000 quân PLA đã bị tiêu diệt và 37.000 quân khác bị
thương. Những nguồn tin Trung Quốc có thể tham khảo hiện nay cho hay
mất mát của PLA là 6.900 chết và khoảng 15.000 bị thương, tổng cộng
21.900 thương vong từ lực lượng tham chiến hơn 300.000 quân.
Thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến ngắn ngủi như thế là
khá cao trong mọi trường hợp, điều này tiếp tục cho thấy một trong những
đặc trưng cố hữu trong phong cách tác chiến của PLA: chấp nhận tổn thất
nặng nề khi cần. Lãnh đạo Trung Quốc xem thương vong là tiêu chí không
mấy quan trọng khi đánh giá thành công quân sự miễn là giành được và
kiểm soát được tình hình chiến lược tổng thể.
Từ góc độ của Trung Quốc, cuộc chiến Việt Nam 1979 là hành động
quân sự đã được dàn xếp kỹ lưỡng nhằm phản ứng lại chính sách Việt Nam
đối với Trung Quốc cùng sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á, cũng
như khát vọng toàn cầu của Liên Xô.
Tuy chiến dịch này phơi bày các thiếu sót của PLA trong học thuyết
và chiến thuật hiện đại, từ đầu chí cuối, Trung Quốc luôn nắm chắc thế
chủ động và nhịp độ cuộc chiến. Bắc Kinh đã làm Hà Nội bất ngờ không chỉ
bằng việc tiến hành những cuộc tấn công ồ ạt, mà còn bằng sự rút lui
nhanh chóng, không bị sa lầy ở Việt Nam. Phán đoán về phản ứng của Liên
Xô trước cuộc xâm lược cũng đã thành công trong việc phơi bày sự bất lực
và không muốn ủng hộ Việt Nam của Liên Xô.
Dựa dẫm của Việt Nam vào Liên Xô về an ninh rõ ràng là một kinh
nghiệm đáng thất vọng. Điều quan trọng hơn về sau là cuộc chiến Việt Nam
1979 đã đánh dấu sự khởi đầu trong chính sách của Bắc Kinh khiến Việt
Nam phải “đổ máu” nhằm hạn chế Hà Nội bành trướng ra Đông Nam Á. Việc
rút quân khỏi Campuchia của Việt Nam sau khi bị Trung Quốc tấn công là
ước ao của lãnh đạo Trung Quốc, nhưng họ không hề kỳ vọng sẽ có rút quân
ngay.
Trung Quốc đã tiếp tục tiến hành chiến lược duy trì áp lực quân sự
lên Việt Nam bằng lời đe dọa thường xuyên rằng sẽ có cuộc tấn công thứ
hai, đồng thời thỉnh thoảng pháo kích dữ dội và tiến hành những cuộc tấn
công lớn trên biên giới, gần như kéo dài suốt thập niên 1980. Một
nghiên cứu vào đầu các năm 1990 kết luận: “Cuộc chiến là thành công nhất
khi xem đó là chiến thuật trong chiến lược của Trung Quốc về một cuộc
chiến kéo dài nhằm tiêu hao sinh lực địch.”
Tương tự, cuộc chiến đã không tạo ra những hậu quả quốc tế đáng kể
cho Trung Quốc. Hành động sử dụng vũ lực tấn công Việt Nam đã gia tăng
mối nghi ngờ của Indonesia và Malaysia, vốn luôn lo lắng về ảnh hưởng
của Trung Quốc trong khu vực. Sự xâm chiếm Campuchia của Việt Nam, đe
dọa đến Thái Lan, đã khiến liên minh các quốc gia ASEAN liên tục gia
tăng chống đối mạnh mẽ Việt Nam. Về quan hệ Trung – Mỹ, cuộc chinh phạt
của Trung Quốc có vẻ đặc biệt thành công.
Trong khi Washington công khai lên án cả hai cuộc xâm lược
Campuchia của Việt Nam và cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc, Hoa Kỳ
chia sẻ mối quan tâm với Trung Quốc về ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông
Nam Á. Ước muốn sử dụng vũ lực của Trung Quốc, bất chấp tổn thất về nhân
mạng, đã biến Trung Quốc thành một “thành trì quí giá” trước chủ nghĩa
bành trướng Xô – Việt; Washington đã tiếp tục tìm kiếm một quan hệ gần
gũi với Trung Quốc nhằm đối trọng lại Liên Xô.
Lãnh đạo Việt Nam đã hành động như là họ không hiểu chiến lược và
mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, khăng khăng cho rằng cuộc xâm lược
1979 là hành động mở đầu cho kế hoạch lâu dài của Bắc Kinh nhằm xâm phạm
độc lập và chủ quyền Việt Nam. Sau lời tuyên bố rút quân của Trung Quốc
ngày 03/05, Hà Nội ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đồng thời dự
tính xây dựng các vị trí phòng thủ bên trong và bao quanh Hà Nội. Đến
cuối tháng Năm, PLA giải ngũ trở về tình trạng bình thường.
Tuy nhiên, Việt Nam tiếp tục cảnh giác, duy trì rất nhiều quân dọc
biên giới phía Bắc giáp với Trung Quốc vào thời điểm nền kinh tế ở
“trong tình trạng tồi tệ nhất kể từ 1975.” Kết quả là những nỗ lực của
Hà Nội nhằm chiến đấu đồng thời trên cả hai mặt trận, một tại Campuchia
và một ở biên giới phía Bắc, rõ ràng đã trả giá cao về kinh tế và xã hội
quốc gia, làm cạn kiệt nỗ lực hiện đại hóa nền kinh tế của Hà Nội, và
quan trọng hơn, xói mòn các ước vọng địa chính trị của Việt Nam.
Tuy nhiên, lãnh đạo Việt Nam đã thất bại trong việc hiểu thấu tầm
quan trọng của tình huống và tiếp tục đưa đất nước lệ thuộc Liên Xô cho
đến ngày Liên Xô sụp đổ năm 1991. Nếu có bài học nào đó Việt Nam cần
phải rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, đó chính là, như một vị
tướng Việt Nam sau này bình luận, Việt Nam “phải biết chung sống với
người láng giềng to lớn của chúng ta.”
Liên quan đến câu hỏi tại sao Trung Quốc lại nóng lòng sử dụng vũ
lực với tính toán kỹ lưỡng để tấn công Việt Nam năm 1979, phân tích ở
đây trùng khớp với khẳng định của các nghiên cứu khác cho rằng nhận thức
về sự đe dọa đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ có tầm quan trọng đặc
biệt đối với Bắc Kinh, đủ để mở rộng trách nhiệm của PLA từ phòng thủ
chuyển sang tấn công.
Tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới là những yếu tố tác động
bên ngoài nhắc nhở Bắc Kinh phải xem xét sử dụng vũ lực đối với nước
láng giềng phía Nam, kèm theo sự bột phát tinh thần dân tộc đầy cảm tính
có xu hướng thúc đẩy tâm tính người Hoa cho rằng cần phải có hành động
trừng phạt nào đó đối với kẻ xưa là đồng minh nay lại phản bội mình.
Cảm tính này còn đóng vai trò quan trọng đưa đến sự đồng thuận
rộng rãi trong giới lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc về việc ủng
hộ Đặng, nhân vật chính quyết định triển khai hành động quân sự đối với
Việt Nam. Liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ, vốn luôn khơi dậy
cảm xúc mơi người Hoa, quan điểm quân sự dường như là yếu tố nổi bật
trong quyết định bắt đầu thực hiện các hành vi thù địch thật sự.
Cuộc họp tại Bộ Tổng Tham mưu vào tháng Chín, đề xuất lãnh đạo
trung ương cần phải giải quyết mối quan hệ đang xấu đi giữa Trung Quốc
và Việt Nam, là điểm khởi đầu cho hoạt động quân sự trọng yếu. Phân tích
quân sự về phản ứng của Liên Xô còn giúp xóa tan mọi âu lo về hành động
mạo hiểm, nếu có. Tuy nhiên bản thân quân đội phải phụ thuộc vào mong
muốn của lãnh đạo trung ương. Một khi đã quyết định tiến hành chinh phạt
Việt Nam, tướng lĩnh PLA sẵn sàng thực thi nhiệm vụ bằng cách ưu tiên
sử dụng tối đa lực lượng.
Bài học kinh nghiệm
Bất kể thành công chiến lược của Trung Quốc, một số câu hỏi then
chốt vẫn cần được đặt ra, chẳng hạn PLA nhận thức về hiệu suất của họ
tại Việt Nam ra sao, PLA học hỏi được gì từ chiến dịch, và mức độ ảnh
hưởng của kinh nghiệm này lên tư duy của PLA trong tương lai.
Là một phần trong truyền thống của PLA, mọi đơn vị tham chiến đều
được lệnh viết bài thu hoạch về kinh nghiệm chiến đấu của họ. Khi hồi
tưởng, lãnh đạo PLA tự thấy mình đã ở vào tình thế đầy mâu thuẫn. Trong
khi khẳng định Trung Quốc chiến thắng cuộc chiến, họ phải thừa nhận rằng
PLA đã trả giá cao. Theo quan điểm của lãnh đạo PLA, một đánh giá công
bằng về các kém cỏi của PLA là bắt buộc.
Tuy nhiên, họ lo lắng xu hướng đánh giá quá cao về khả năng và hiệu
suất quân sự của người Việt. Tất nhiên, chắc chắn niềm tự hào dân tộc
và thành kiến văn hóa đã ngăn cản họ đưa ra những kết luận trung thực về
kinh nghiệm của PLA trong cuộc chiến, vốn có thể được tổng hợp thành
sáu chủ đề.
Bài học đầu tiên tập trung vào phương châm truyền thống của PLA cho
rằng mọi quyết định và chiến lược quân sự đúng đắn đều phải dựa trên
khả năng nắm chắc tình huống về mọi phương diện. Cuộc chiến 1979 cho
thấy PLA ít quan tâm đến học thuyết và chiến thuật giao chiến của QĐVN
trước khi tiến hành chiến tranh. Kết quả là quân đội Trung Quốc đã đánh
giá thấp khả năng tác chiến của đối phương.
Có thể do e ngại trong việc khen ngợi QĐVN quá mức, các tài liệu
của PLA đã kết luận rằng lực lượng chính qui của quân địch thiếu tính
kiên định trong tấn công cũng như phòng thủ và chỉ biết hợp đồng tác
chiến trong một vài tình huống, song lại thật sự thừa nhận rằng chiến
thuật du kích, lực lượng công binh và dân quân Việt Nam đã thành công
một cách đáng kinh ngạc, khiến cho lực lượng Trung Quốc mất thăng bằng
vì họ nôn nóng tìm kiếm những trận đánh với lực lượng QĐVN chính qui
trong một cuộc chiến sáng tỏ.
Một sĩ quan Hoa Kỳ đã từng tổng kết kinh nghiệm của người Mỹ trong
Chiến tranh Việt Nam, nhận ra rằng Hoa Kỳ hoàn toàn không thể “thâm
nhập, thọc sườn, hoặc bao vây” các cứ điểm của Việt Nam “mà không tổn
thất nhân mạng vô cùng nặng nề.” Chiến thuật của PLA về việc thúc đẩy bộ
binh đi vào những trận đánh lớn với đối phương và chấp nhận tổn thất
cao về nhân mạng có thể giúp giải thích tại sao Trung Quốc khẳng định
rằng QĐVN không có khả năng giữ vững cứ điểm của họ.
Khó khăn bất ngờ trong tác chiến đã khiến Trung Quốc rút ra bài học
thứ hai từ cuộc chiến về tình báo và lập kế hoạch. Tình trạng thiếu
thông tin trong một thời gian dài về người đồng minh truyền thống đã đặt
ra cho Trung Quốc một thách thức nghiêm trọng khi lên kế hoạch và tiến
hành cuộc chiến.
Đánh giá của PLA về địa hình miền Bắc Việt Nam thường dựa vào bản
đồ và thông tin địa lý lỗi thời, trong khi khả năng do thám chiến trường
của họ lại bị hạn chế. Một thất bại chủ yếu của quân đội Trung Quốc là
đã không xét đến số lượng dân quân hùng hậu trong các tính toán về năng
lực của QĐVN. Kinh nghiệm PLA cho thấy dân quân Việt Nam có khả năng
kháng cự bề bỉ hơn và tạo ra nhiều cuộc đột kính bất ngờ vào lực lượng
xâm lược hơn QĐVN chính qui.
Các nhà hoạch định PLA ban đầu nghĩ rằng họ đã tập hợp được lực
lượng áp đảo 8_1 trước QĐVN. Đã có từ 40.000 đến 50.000 dân quân tại
riêng khu vực Cao Bằng, từ đó thay đổi đáng kể tỉ lệ chênh lệch lực
lượng xuống còn 2_1.
Trong suốt chiến dịch, PLA dường như chưa bao giờ duy trì được ưu
thế về lực lượng để có thể tung ra đòn quyết định. Tình hình còn cho
thấy thật khó tiến hành các hoạt động quân sự ở nước ngoài nếu nhân dân
địa phương được huy động tham gia kháng chiến.
Cuộc xung đột Việt Nam giúp PLA rút ra bài học thứ ba về khả năng
chiến đấu của họ. Đây là lần lầu tiên lãnh đạo PLA kết hợp các hoạt động
quân sự bằng xe tăng và pháo binh yểm trợ bộ binh tấn công, đồng thời
tập hợp lực lượng không quân và hải quân bao vây ở vòng ngoài.
Tình trạng lạc hậu về học thuyết và chiến thuật đã ngăn trở PLA
thật sự hợp đồng tác chiến. Trong khi đó, ràng buộc chính trị của Bắc
Kinh cùng tư duy quân sự lỗi thời đã loại trừ khả năng hỗ trợ của không
quân, còn lực lượng trên cạn thì thể hiện hiệu suất yếu kém trong hợp
đồng tác chiến giữa bộ binh, xe tăng và pháo binh. Một ví dụ điển hình
là bộ binh chưa bao giờ được trang bị đủ kiến thức để di chuyển cùng xe
tăng. Lính bộ binh tự mình buộc chặt vào xe tăng để khỏi ngã đã mắc kẹt
khi bị đối phương nhằm bắn.
Mặt khác, đơn vị xe tăng, vốn thường hoạt động không có bộ binh yểm
trợ và không liên lạc trực tiếp giữa hai bên, đã chịu nhiều thiệt hại
và mất mát không ngờ. Kinh nghiệm cuộc chiến 1979 đã dạy PLA nhiều bài
học quí giá về kỹ năng phối hợp.
Bài học thứ tư là vấn đề chỉ huy và kiểm soát, chủ yếu bắt nguồn từ
truyền thống và văn hóa PLA. Quan hệ cá nhân giữa sĩ quan chỉ huy và
binh lính, vốn được nuôi dưỡng trong quá khứ, vẫn đóng vai trò quan
trọng trong PLA. Do quan hệ cá nhân quan trọng hơn quan hệ tổ chức, thật
chẳng ngạc nhiên khi lãnh đạo Quân Khu Quảng Châu sau này thừa nhận
rằng họ cảm thấy không thoải mái khi phải lãnh đạo quân đội được chuyển
giao từ Quân Khu Vũ Hán và Thành Đô trong suốt chiến dịch.
Các lãnh đạo này còn nhận nhiều lời phàn nàn từ mọi cấp về phong
cách lãnh đạo của Hứa bởi vì ông ta trước đây chưa từng chỉ huy họ. Vấn
đề chỉ huy của PLA còn chất chồng do thiếu sĩ quan dày dạn kinh nghiệm
chiến đấu.
Tuy đã gửi những sĩ quan bậc cao, từng là cựu binh, đến hỗ trợ các
đơn vị cấp thấp hơn trong vấn đề chỉ huy, hoạt động PLA vẫn tệ hại do sĩ
quan cấp thấp thiếu khả năng phán đoán độc lập và hợp đồng tác chiến
vào những thời điểm quyết định. Tuy nhiên, cuộc chiến Việt Nam 1979 đã
cho ra đời một thế hệ cán bộ quân sự trẻ từ chiến trường, và ngày nay
nhiều người trong số họ đang nắm giữ chức vụ cao trong PLA.
PLA đã không đủ hệ thống và cấu trúc cung ứng hậu cần hiện đại để
hỗ trợ cho cuộc tấn công chớp nhoáng và ở xa. Thống kê tác chiến cho
thấy mức tiêu thụ đạn dược và xăng dầu trung bình mỗi ngày là 700 tấn
mỗi loại. Hậu cần là lĩnh vực then chốt mà PLA cần rút ra bài học.
Không có phương tiện lưu trữ và vận chuyển thích hợp, cả hai Quân
Khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải cùng chia sẻ một hệ thống cung ứng
nên không thể nào vận hành trôi chảy và hiệu quả. Số lượng hàng cung ứng
đã bị mất mát đáng kể do quản lý tồi hoặc bị Việt Nam phá hủy. Khi lực
lượng PLA tiến sâu hơn vào lãnh thổ Việt Nam, các sĩ quan hậu cần còn
nhận ra khó khăn trong việc duy trì đường liên lạc mở nếu không triển
khai lực lượng lớn để bảo vệ.
PLA kết luận rằng nhất thiết phải có một bộ chỉ huy vận tải nhằm
giải quyết những vấn đề vướng mắc của quân đội khi tác chiến. Kinh
nghiệm này dường như vẫn còn thích hợp đối với Trung Quốc ngày nay, như
nguyên phó chỉ huy Học viện Quốc Phòng PLA phát biểu tại một hội nghị
chuyên đề về “kiểm soát liên lạc” năm 2002.
Bài học cuối cùng là sự diễn giải phương thức áp dụng học thuyết
chiến tranh nhân dân lâu đời vào cuộc xung đột bên ngoài biên giới Trung
Quốc. Một nguyên tắc của học thuyết chiến tranh nhân dân là huy động
thường dân ủng hộ cuộc chiến.
Kinh nghiệm cuộc chiến 1979 chỉ ra rằng hoạt động của lực lượng PLA
hùng hậu hầu như bất khả bên ngoài quốc gia nếu không huy động dân
chúng trong nước hỗ trợ cuộc chiến. Bộ máy tuyên truyền Bắc Kinh đã
khuấy động tinh thần yêu nước của quần chúng và niềm tự hào trong quân
đội Trung Quốc.
Biểu hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ đã giúp PLA nhận được hỗ trợ
trực tiếp từ người dân sống tại hai tỉnh biên giới. Riêng tỉnh Quảng
Tây, hơn 215.000 dân địa phương đã được huy động để khiêng cáng, bảo vệ
và khuân vác hàng tiếp tế cho mặt trận; và trên 26.000 dân quân ở khu
vực biên giới đã thật sự trực tiếp tham gia chiến đấu. Hệ thống cung ứng
của PLA vào thời điểm đó hỗn tạp đến mức phải yêu cầu mọi đơn vị phải
tự chịu trách nhiệm về công tác hậu cần trên chiến trường.
Chính quyền địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội
thông qua việc đơn giản hóa thủ tục đặt hàng, giúp họ nhận được nguyên
vật liệu cần thiết và thực phẩm tươi sống trong thời gian sớm nhất. Kinh
nghiệm đó đã thuyết phục được lãnh đạo PLA cho rằng việc huy động chính
quyền địa phương và nhân dân tham gia hỗ trợ cuộc chiến vẫn là chìa
khóa để giành thắng lợi.
Bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến Việt Nam 1979 có thể không chặt
chẽ, toàn diện và hoàn toàn khách quan vì PLA không đánh giá thành công
của một hoạt động quân sự trên cơ sở kết quả của hành động đó, mà là
trên cơ sở tác động của cuộc xung đột vào tình hình chung.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi giáo huấn của Mao cho rằng chiến tranh
về cơ bản là một nhiệm vụ chính trị, miễn sao Trung Quốc có thể tuyên bố
thành công trong việc đạt được mục tiêu chiến lược và quân sự, PLA sẽ
không coi trọng hệ quả đưa đến từ thất bại về mặt chiến thuật.
Điều này lý giải tại sao các bài học này khác đáng kể với những
nghiên cứu của Tây phương, vốn cung cấp thông tin nhiều và xác đáng về
phương diện nào đó, nhưng có vẻ hơi lạm dụng quá mức nguồn thông tin hạn
chế của họ để rút ra kết luận về một đề tài vô cùng phức tạp. Nghiên
cứu của PLA cho rằng Cách mạng Văn hóa (1966-76) là yếu tố bất lợi, làm
xói mòn truyền thống tốt đẹp của PLA, và hậu quả là quân đội Trung Quốc
đã thể hiện tồi trong cuộc chiến.
Các bài học được PLA đúc kết tập trung nhiều vào khía cạnh chiến
thuật hơn, nhấn mạnh đến vấn đề chỉ huy và kiểm soát, hiệp đồng binh
chủng, cơ cấu lực lượng và vũ khí, thay vì tập trung vào triết lý chiến
lược và học thuyết. Trong suốt quá trình đánh giá kinh nghiệm cuộc chiến
1979, PLA có vẻ không muốn che dấu hoặc bỏ qua những yếu kém và vấn đề
của chính họ vào thời điểm đó; tuy nhiên họ đã thất bại trong việc xét
đến tư duy và truyền thống quân sự sai lầm của chính mình.
Các nghiên cứu của Tây phương đã kết hợp bài học Việt Nam của PLA
với việc đánh giá lại vào năm 1985 về bản chất chiến tranh hiện đại cùng
những đe dọa đối với Trung Quốc, và các nỗ lực sau đó nhằm cải thiện cơ
cấu và chuyên nghiệp hóa PLA trong suốt những năm 1980.
Bài học Việt Nam của PLA và các xung đột liên tục trên biên giới
Trung – Việt trong những năm 1980 đã giúp lãnh đạo Trung Quốc thực hiện
một chuyển biến chiến lược từ chú trọng chuẩn bị chiến tranh tổng lực
sang chuẩn bị chiến tranh giới hạn và cục bộ theo xu thế của thời đại.
Một vài nỗ lực trong việc chuyển biến PLA thành lực lượng hiện đại
trong các năm 1980 nhằm sửa chữa tư duy quân sự sai lầm của họ, vốn luôn
đánh giá thấp vai trò của không quân. Kết quả là nếu có điều gì đó mà
PLA dường như vẫn không trung thực, đó chính là bài học về sự áp đảo
hoặc hỗ trợ sát sao của không lực. Tài liệu và sách giáo khoa của PLA
tiếp tục trích dẫn “khả năng ngăn chặn” của không quân Trung Quốc là lý
do chính giải thích tại sao Không Quân Việt Nam đã không tham chiến.
Nguyên soái Diệp Kiến Anh thậm chí còn lố bịch bình luận rằng hoạt
động giả tạo của không lực Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam là một
“cách sử dụng không quân khéo léo.” Bình luận như thế chẳng cho thấy
điều gì ngoài thất bại của lãnh đạo Trung Quốc trong nhận thức vai trò
tối quan trọng của không lực trong chiến tranh hiện đại.
Tuy nhiên, một tổng quan về kinh nghiệm của PLA trong cuộc chiến
Việt Nam 1979 sẽ cung cấp những nhận thức sâu sắc và hữu ích về chiến
lược và cách tiếp cận cuộc chiến của lãnh đạo Trung Quốc. Chúng nhất
quán với những phát hiện của các nghiên cứu hiện hữu khác.
Thứ nhất, lãnh đạo Trung Quốc đã tính toán thận trọng khi nào và
bằng cách nào sử dụng sức mạnh quân sự, song không ngần ngại gây chiến
một khi họ xác định rằng quyền lợi quốc gia đang lâm nguy.
Thứ hai, PLA đã thể hiện thiên hướng chiếm lĩnh và duy trì thế chủ động bằng việc triển khai lực lượng áp đảo.
Thứ ba, cảm nhận của Trung Quốc về chiến thắng quân sự nằm ở đánh
giá của họ về kết quả địa dư chính trị hơn là phán xét về hiệu suất tác
chiến trên chiến trường. Kể từ cuộc chiến Việt Nam 1979, PLA đã tiến
hành rà soát toàn diện học thuyết phòng thủ, chỉ huy và kiểm soát, chiến
thuật hoạt động, cùng cơ cấu lực lượng, trong khi hoạt động quân đội
trên thế giới đã biến đổi đáng kể kể từ cuộc chiến 1979.
Ngày nay, không ai còn kỳ vọng lực lượng quân đội Trung Quốc sẽ lặp
lại điều mà họ đã làm trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam. Về
phương diện lịch sử, tập hợp những đặc trưng Trung Quốc thể hiện trong
cuộc chiến Việt Nam 1979 có thể vẫn còn giá trị cho học viện quân sự
Trung Quốc cũng như cho các nhà quan sát muốn thấu hiểu đường lối sử
dụng sức mạnh quân sự của người Hoa, không những trong quá khứ mà còn ở
hiện tại và tương lai.
BVN dịch
Sắp đánh nhau với Trung Cộng,
chuẩn bị cho một cuộc chiến thực sự ở Biển Đông:
Hải-lục-không quân Mỹ-Australia TẬP TRẬN lớn nhất trong lịch sử Australia
|
Thứ tư, 13 Tháng 7, 2011 |
Từ hôm qua, Mỹ và Australia bắt đầu tiến hành chương trình luyện tập chung trên diện rộng, với sự tham gia của mọi quân binh chủng và các ngành của hai nước. Đây là cuộc tập trận lớn nhất trong lịch sử Australia và sẽ kéo dài đến cuối tháng.
Những cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Australia được tiến hành định kỳ từ năm 2005. Nhưng cuộc tập trận lần này - mang tên Talisman Sabre 2011 (TS11 - Lưỡi gươm Hộ mệnh 2011), không giống những cuộc tập trận chung Mỹ thường tiến hành với các nước trong khu vực.
Lính dù Australia trong cuộc tập trận với Mỹ tại Vùng lãnh thổ phía Bắc của nước này.
Cuộc tập trận diễn ra trong bối cảnh cường quốc khu vực xét lại chiến lược quốc phòng và địa bàn tác chiến hướng về phía Bắc - hướng Biển Đông, nơi đang có căng thẳng.
Talisman Sabre 2011 không chỉ là cuộc tập trận giữa hai quốc gia, mà còn giữa liên quân của hai quốc gia - tức là hải-lục-không quân.
Cuộc tập trận cũng không chỉ có ý nghĩa kỹ thuật mà còn về địa bàn, vì tập trận diễn ra ở bắc Australia - động thái tái bố trí lực lượng của Australia ở khu vực này.
Chất nổ, xe tăng, tàu chiến và máy bay chiến đấu sẽ được huy động cùng hơn 22.000 quân nhân tham gia cuộc tập trận.
“Cuộc tập trận đã được kích hoạt hôm qua. Đây là một cuộc tập trận song phương phức hợp và chúng tôi sẽ cùng tiến hành trong vài tuần”, Thiếu tướng Australia Bob Brown nói.
Tuy nhiên, ông khẳng định đó chỉ là cuộc diễn tập chiến thuật và hành động.
“Khoảng 14.000 lính Mỹ và 8.500 lính Mỹ thuộc các lực lượng hải, lục, không quân sẽ huấn luyện ở bờ biển Queensland và Vùng lãnh thổ phía Bắc của Australia cho đến ngày 29/7”.
Trong khi đó, có những ý kiến bác
bỏ tuyên bố của Mỹ và Australia cho rằng đây là hoạt động nhằm tăng
cường quan hệ quân sự mật thiết giữa hai nước. “Cuộc huấn luyện này có thể làm gia tăng mặt
an ninh”, người phát ngôn tổ chức hoà bình Peace Convergence, ông Robin
Taubenfeld nói. “Nó có thể là mô phỏng, nhưng mô phỏng để chuẩn bị cho một cuộc chiến thực sự”.
Nhật, Mỹ, Australia tập trận hải quân trên Biển Đông
Theo Kyodo, Lực Lượng Phòng Vệ Trên Biển (MSDF) của Nhật Bản ngày 8/7/2011 thông báo họ sẽ lần đầu tiên tiến hành tập trận chung với hải quân Mỹ và Australia trên Biển Đông từ ngày 9/7/2011 ở ngoài khơi bờ biển Brunei.
Tàu của hải quân Mỹ chuẩn bị tham gia tập trận
Cuộc tập trận này, từng được tiến hành tại các vùng biển phía phía Tây Kyushu hoặc gần Okinawa, miền Tây Nam của Nhật Bản, nay sẽ được tiến hành tại các vùng biển phía Nam quần đảo Trường Sa, nơi xảy ra các cuộc tranh cãi gay gắt về chủ quyền lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á.
Tàu khu trục Shimakaze của Lực Lượng Phòng Vệ Trên Biển (MSDF) của Nhật Bản, một tàu khu trục của Hải quân Mỹ và một tàu tuần tra của Hải quân Australia sẽ tiến hành huấn luyện tác chiến thông tin và các cuộc tập trận khác. Ba tàu này đang tham gia một cuộc thao diễn quốc tế ở Brunei.
Đây là hành động cụ thể hóa nội dung hợp tác quốc phòng giữa ba nước cũng như mục tiêu chiến lược chung về an ninh hàng hải mà Nhật Bản và Mỹ thống nhất trong phiên họp ngoại giao-quốc phòng (2+2) hồi tháng 6/2011.
|
ShiSo Sánh Lực Lượng : VCunộngSoợng : VCùa thu cuộc ở m"
Lực lượng Quân sự Cộng sản Trung Hoa (Trung Cộng):
Ngân sách Quốc phòng tăng dần:
Năm 2008: 60,1 Tỷ Đô la
Năm 2009: 70,3 Tỷ Đô la
Năm 2010: 77,8 Tỷ Đô la
Quân đội: gồm 2.285 000 lính (quân dịch 2 năm).
Bộ binh: 1.600 000 (800 000 lính quân dịch) trang bị súng ống hỏa lực hiện đại kèm theo 6550 Thiết giáp đủ loại.
Hải quân: 255 000 (40 000 lính quân dịch) với 65 Tiềm Thủy Đỉnh trong đó có 7 Tiềm Thủy Đỉnh trang bị Hỏa tiển, tấn công bằng đầu đạn nguyên tử. 28 Khu Trục Hạm, 52 Hộ Tống Hạm.
Không quân:
300 000 lính với 1600 Chiến Đấu Cơ đủ loại.
Lực Lượng Chiến Lược với vũ khí Nguyên tử:
gồm 100 000 lính.
Lực lượng dự bị:
khoảng chừng 510 000 lính.(Căn cứ theo tài liệu Bilan Géostratégie - Le Monde 2010)
Từ nhiều năm qua.Trung Cộng thiết kế xây đựng và đã hoàn thành một hệ thống căn cứ Quân sự Hải quân hùng mạnh từ cửa biển Hồng hải băng qua Ấn Độ Dương bọc hết vùng Vịnh Bengale xuyên qua eo biển Malacca cho đến Vịnh Xiêm la.
Hệ thống căn cứ Hải quân Trung Cộng này được gọi là Xâu chuỗi Ngọc trai gồm 6 viên Ngọc trai:
1- Căn cứ Hải Quân Trung Cộng nằm trên Hải cảng Gwadar / Pakistan.
2- Căn cứ Hải Quân Trung Cộng nằm trên Hải cảng Marao / Maldives.
3- Căn cứ Hải Quân Trung Cộng nằm trên Hải cảng Hambantota / Sri Lanka.
4- Căn cứ Hải Quân Trung Cộng nằm trên Hải cảng Chittagong / Bangladesh.
5- Căn cứ Hải Quân Trung Cộng nằm trên Hải cảng Iles Cocos/ Birmanie.
6- Căn cứ Hải Quân Trung Cộng nằm trên Hải cảng Sihanoukville / Cambodge.
Xây dựng và thực hiện được "Xâu chuỗi Ngọc trai", Trung cộng đã viện trợ quân sự, kinh tế, tài chính và kỷ thuật cho 6 quốc gia sở tại: Pakistan, Maldives, Sri Lanka, Bangladesh, Birmanie và Cambodge.
|
Lực lượng Quân sự Cộng sản Việt Nam (Việt Cộng):
Ngân sách Quốc Phòng: - 2008: 2,90 Tỷ Đôla - 2009: 2,80 Tỷ ĐôlaQuân đội tại ngũ:
455 000 (chế độ quân dịch từ 24 đến 36 tháng phục vụ)Bộ đội: 412 000 với 1315 Chiến Xa.
quân: 13 000 với 2 Tiềm Thủy Đỉnh và 5 Hộ Tống Hạm.
Không quân: độ chừng 30 000 với 219 Chiến Đấu Cơ.Lực lượng dự bị: 5 000 000.(Căn cứ theo tài liệu Bilan Géostratégie - Le Monde 2010)
|
No comments:
Post a Comment