VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Friday, April 22, 2011

Ông Nguyễn Văn Thiệu và lịch sử Việt Nam

Thursday, February 10, 2011
Ông Nguyễn Văn Thiệu và lịch sử Việt Nam
Ông Nguyễn Văn Thiệu và lịch sử Việt Nam (tiep theo) Bùi Anh Trinh
Sau năm 1975 báo chí của người Việt hải ngoại có đủ bình tâm để suy xét lại nguyên do nào đã đưa tới thảm họa 1975. Mới đầu thì người ta quy tất cả tội lỗi cho ông Thiệu, nói cho cùng thì ngày đó không quy lỗi cho ông Thiệu thì biết quy vào ai? Do đó tất cả các phương tiện truyền thông tại hải ngoại đồng loạt xướng lên một chiến dịch bôi đen Nguyễn Văn Thiệu. Nổi bật nhất là luận điệu của các tay cơ hội chủ nghĩa đã mất phần danh vọng trong vụ ông Nguyễn Văn Thiệu đuổi hết vây cánh của ông Nguyễn Cao Kỳ trong trung tâm quyền lực của chính phủ Việt Nam Cọng Hòa. Rất nhiều người có máu mặt đã bị cho ra rìa một cách oan uổng, chẳng qua là vì họ đã toan tính thời cuộc hơi sớm khi quyết định chạy theo ông Kỳ để được tham chính. Một trong những người nhờ ông Kỳ mà được nổi tiếng là dân biểu kiêm nhà báo Võ Long Triều, cũng vì vậy mà sau 1975 Võ Long Triều rất mạnh miệng chưởi Nguyễn Văn Thiệu. Nhóm thứ hai chịu ơn Nguyễn Cao Kỳ là các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp trong binh chủng Không quân VNCH. Trong thời gian cầm quyền ông Kỳ sử dụng người của Không Quân để nắm giữ các địa vị then chốt trong chính phủ và có chế độ ưu đãi đặc biệt cho những người này, điển hình là Nguyễn Ngọc Loan, Lưu Kim Cương…
Ngoài các chính trị gia và sĩ quan Không quân còn có một nhóm sinh viên thuộc nhóm “Trại hè 65” mà sau này có một số đã hoạt động báo chí rất mạnh tại Hoa Kỳ như các ông Đỗ Ngọc Yến, Tô Phạm Liệu, Đỗ Quý Toàn, Đỗ Việt Anh, Trần Đại Lộc, Đoàn Viết Hoạt, Trần Thị Thức, Dương Phục, Vũ Thị Thanh Thủy, Hà Tường Cát, Phạm Phú Minh, Nguyễn Đức Quang, Tống Hoằng, Lê Đình Điểu, Phan Huy Đạt… Nhóm “trại hè 65” đã được ông Kỳ yểm trợ để phát huy các hoạt động văn hóa xã hội, thành lập các tổ chức như “Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội”, “Thanh Niên Thiện Chí”, “Thanh Sinh Công”, “Đoàn Thanh Niên Trừ Gian”, “Đoàn Thanh Niên Du Ca”…Rất nhiều thanh niên đã thành danh trong thời kỳ đổi mới của đất nước nhờ sự yểm trợ nhiệt thành của Chủ tịch Ủy ban Hành pháp trung ương là Tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Do đó khi nắm được các phương tiện truyền thông tại hải ngoại, nhóm “trại hè 65” thường có khuynh hướng đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là người phải chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cọng Hòa. Họ cố tình lơ đi chuyện Hoa Kỳ mới là người quyết định để cho VNCH sụp đổ. Ngay từ ngày 08-2-1967 Tổng thống Hoa Kỳ Johnson đã gởi thư xin phép ông Hồ Chí Minh cho Hoa Kỳ được rút quân rồi, ngày đó ông Thiệu chưa nắm chính quyền. Nguyên văn bức thư của Tổng thống Johnson và thư trả lời của ông Hồ Chí Minh hiện được lưu
trong hồ sơ lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ, đã được giáo sư Lê Văn Khoa dịch và đăng trong tác phẩm “Việt Nam 1945-1995”, trang 526.
Ngoài phe cánh của ông Nguyễn Cao Kỳ, còn có phe cánh của ông Dương Văn Minh, những người này tham chính trong thời kỳ Dương Văn Minh mới đảo chánh Ngô Đình Diệm từ 1963 tới 1965. Nhóm này đa số thuộc tổ chức “Học sinh Liên trường”, đây là một nhóm Nam Kỳ thân Pháp được hình thành vào thời Bảo Đại nắm quyền lực từ năm 1949 tới 1954. Nhóm này gồm có cựu học sinh của 4 trường trung học đầu tiên của Nam Kỳ do Pháp thành lập, đó là các trường Chasseloup Laubat, Pétrus Ký, Marie Curie và Gia Long. Nhóm này chủ trương ủng hộ những người nào xuất thân từ Nam Kỳ Quốc như Dương Văn Minh, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Đôn, Trần Văn Bông Trần Văn Văn v.v…Cũng vì chủ trương này mà nhóm Học sinh Liên trường tẩy chay ông Ngô Đình Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu là những người Miền Trung. Năm 1971 ông Dương Văn Minh dự định ra tranh cử với ông Thiệu gây hy vọng cho một số nhân vật chính trị trong nhóm Liên trường nhưng sau đó ông Minh đã bị ông Thiệu dùng thủ đoạn gạt ra rìa cho nên nhóm Nam Kỳ bị hụt ăn, càng thêm oán giận Tướng Thiệu.
Tuy nhiên nhóm hoạt động chống Nguyễn Văn Thiệu mạnh nhất tại hải ngoại là nhóm thân Mỹ. Nhóm này trước năm 1975 đã làm việc cho các cơ quan tình báo chính trị của chính phủ Hoa Kỳ, sau 1975 họ tiếp tục làm việc cho các cơ quan chính trị Hoa kỳ, hoạt động trong giới truyền thông của người Việt hải ngoại. Năm 1975 chính phủ Hoa Kỳ muốn đổ tội làm mất Miền Nam Việt Nam cho ông Nguyễn Văn Thiệu để lái sự oán hận của dân chúng Việt Nam sang ông Thiệu thay vì oán hận Hoa Kỳ. Người nổi bật trong nhóm này là Thiền sư Nhất Hạnh và nhóm phản chiến của ông. Thiền sư nhận được sự hỗ trợ công khai của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ dưới hình thức nghiên cứu phát triển văn hóa của Rockefeller Fondation và Fulbright Fondation. Nhóm thân Mỹ thường sử dụng hình thức bảo trợ để hỗ trợ cơ quan truyền thông nào lên tiếng kết án ông Thiệu. Ngoài Nhất Hạnh còn có Đỗ NgọcYến là một trùm điệp viên của CIA trước năm 1975. Cuối cùng còn có nhóm phục hồi danh dự cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhóm này đổ tội cho CIA đã giết ba anh em Tổng thống Diệm; và những người tham gia lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm là tay sai , làm việc ăn lương của CIA hoặc tổ chức đảo chánh để lấy tiền của CIA. Có một cây viết chủ lực của nhóm này là ông Nguyễn Cần, ông nổi tiếng với các bài bình luận chính trị với bút hiệu Lữ Giang hay Tú Gàn. Giọng văn mĩa mai khá cay độc của ông đã khiến cho lắm kẻ chột dạ nhưng cũng làm nhiều người bất bình.
Ông Nguyễn Cần đã cáo buộc các tướng lãnh lật đổ chế độ của ông Ngô Đình Diệm là tay sai của CIA hoặc là cộng tác với CIA để lấy tiền trong điệp vụ đảo chánh. Ông trưng bằng chứng là thú nhận của Trung tướng Trần Văn Đôn trong hồi ký của ông ta. Theo đó thì một tay trùm CIA là Lucien Conein đã mang tới bộ chỉ huy cuộc đảo chánh một bị tiền là 3 triệu đồng Việt Nam, tương đương 42.000 USD. Ông Cần cho rằng bị tiền đó là tiền trả cho điệp vụ đảo chánh.
Tuy nhiên bằng cớ này không có giá trị lý tính bởi vì ai cũng thừa hiểu rằng cái
giá 42.000 USD quá bèo so với hiểm nguy của một cuộc tạo phản. Và cách thanh toán tiền cho một điệp vụ tạo phản không thể nào được trao cho nhau một cách khơi khơi như vậy được. Nếu quả thật đã có một cuộc mua chuộc đề tạo phản thì phải có một cuộc trả giá trước khi hành động và mỗi nhân vật được hưởng bao nhiêu so với công lao và sự nguy hiểm của từng nhân vật. Ngoài ra cách thức trả tiền phải kín đáo bằng chi phiếu, hoặc nếu bằng tiền mặt thì phải là Đô la chứ không cớ gì lại đổi ra tiền Việt Nam rồi mang ra ngồi chình ình trước mặt bàng quang thiên hạ. Trên thực tế Tướng Đôn đã cho phân phát số tiền đó một cách tùy hỷ. Điều này chứng tỏ số tiền 42.000 USD không phải là tiền thuê làm đảo chánh, mà chỉ là số tiền chi tiêu lặt vặt cần phải có trong bất cứ một cuộc đại sự nào. Tướng Đôn đã ghi lại trong hồi ký : “Ông Conein hỏi tôi có cần tiền hay vũ khí gì không. Tôi trả lời không cần tiền, cũng không cần vũ khí, chỉ cần tinh thần và lòng cam đảm, mà những điều đó chúng tôi đã có đủ. Ông Coenin nói phải cần có tiền để ủy lạo cho gia đình binh sĩ nào bị thương vong hoặc mua thức ăn cho binh sĩ, ông ta nghĩ rằng đảo chánh cũng mất vài ngày.” Đó là thực tế của những người chuyên môn hành động, làm đảo chánh mà không nghĩ tới những món tiền chi tiêu bất ngờ như tiền mua gói thuốc lá hay trái cam để động viên binh sĩ đang liều mạng thì quả là tay mơ. Hoặc nếu có thất bại thì cũng phân phát cho mỗi người một món lộ phí để tìm đường tẩu thoát. Dĩ nhiên là các nhà văn viết về chính trị không bao giờ nghĩ đến những điều này, bởi vì các ông chưa bao giờ hành động.
Hơn nữa, trong biên bản ghi lại số tiền được phân phát thì không có riêng cho ông Thiệu hay ông Lê Nguyên Khang mà chỉ có cho Sư Đoàn 5 do ông Thiệu ký nhận và Liên đoàn Thủy quân lục chiến do ông Lê Nguyên Khang Ký nhận. Ngoài 2 đơn vị kể trên, các sĩ quan khác được phân phát cho mỗi cá nhân. Số tiền được phân phát cho Sư đoàn 5 của ông Thiệu chỉ có 100 ngàn, ngang bằng số tiền phát cho Liên đoàn Thủy quân lục chiến cũng 100 ngàn. Ngang bằng cá nhân ông Trần Ngọc Huyến lãnh 100 ngàn, cá nhân ông Phan Hòa Hiệp lãnh 100 ngàn, cá nhân đại úy Đào Ngọc Diệp (câu lạc bộ Bộ Tổng tham mưu) lãnh 100 ngàn. Trong khi đó cá nhân ông Trần Thiện Khiêm lãnh 500 ngàn, cá nhân ông Tôn Thất Đính lãnh 550 ngàn.
Như vậy nếu cho rằng số tiền 42.000 USD là tiền của CIA trả cho các tướng lãnh là không đúng. Ngược lại số tiền nói trên chứng minh được rằng ông Nguyễn Văn Thiệu và ông Lê Nguyên Khang vô tư trong âm mưu đảo chánh, các ông chỉ hành động do máu nóng của người trai trong thời loạn và nhiệt tâm của một sĩ quan trước những nghịch cảnh trái tai gai mắt của đất nước. Nếu quân đội không ra tay thì nhân dân biết trông chờ vào ai trong khi mà sự bất mãn đối với chế độ của ông Ngô Đình Diệm đã vỡ lỡ đến độ không thể nào chấp nhận được. Nếu lòng dân không bất mãn thì một ngàn ông Thiệu cũng không dám dẫn một sư đoàn đi tạo phản; một điều dễ hiểu là tất cả sĩ quan và binh sĩ cũng đồng lòng với vị chỉ huy của mình. Họ thực hiện đảo chánh bất chấp nguy hiểm đến với cá nhân và gia đình họ nếu chẳng may thất bại.
Nếu thực sự có một cuộc mà cả trước khi đảo chánh thì dĩ nhiên ông Thiệu và ông Khang không thể nào chấp nhận phần của các ông ngang bằng với ông Trần Ngọc Huyến lúc đó đang ở Đà Lạt và ngay cả ngang bằng một ông đại úy chủ câu lạc bộ trong Bộ Tổng tham mưu .( Thực ra trong các ngày các Tướng lãnh tụ nhau lại tại Bộ tổng Tham mưu để chỉ huy cuộc đảo chánh thì mọi sự ăn uống của các ông vào lúc đó được miễn tính tiền, do ông chủ câu lạc bộ đài thọ; dĩ nhiên là ông ta đã nhận được lời hứa là sẽ trả gấp bội nếu cuộc đảo chánh thành công, và ông ta cũng thừa biết nếu thất bại thì ông ta mất toi số tiền đó. Vì vậy mới có chuyện một ông chủ câu lạc bộ lãnh tiền ngang hàng với ông Chỉ huy trưởng lực lượng tấn công dinh Gia Long ). Nhưng rồi ông chủ câu lạc bộ có quyền thủ một mình số tiền đó, trong khi ông Tư lệnh Sư đoàn 5 phải chia cho các sĩ quan và binh sĩ dưới quyền chứ ông ta không thể nào thủ riêng cho mình được. Vậy phần của ông Thiệu là bao nhiêu? Có xứng đáng với công chỉ huy lực lượng tấn công dinh Gia Long hay không?
Một lập luận khác nữa của ông Nguyễn Cần, cho rằng ông Thiệu làm việc ăn lương của CIA và thi hành đảo chánh theo lệnh của chủ CIA. Ông đưa ra bằng chứng: “Trần Thiện Khiêm: Tốt nghiệp Chuẩn Úy Hạ Sĩ Quan cao cấp trường Viễn Đông khóa 1946 – 1947 và được đi tu nghiệp khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Command and General Staff College ở Fort Leavenworth, Kansas, tại Hoa Kỳ khóa 1957 – 1958. Nhiều người tin rằng Đại Tá Khiêm đã được tuyển dụng và huấn luyện làm nhân viên CIA trong thời gian học ở trường này “Nguyễn Văn Thiệu: Sinh ngày 5.4.1923 tại Ninh Thuận. Tốt nghiệp Khóa Bảo Đại (Khóa I) 1948 – 1949, Trường Sĩ Quan Đập Đá ở Huế (sau này chuyển thành trường Võ Bị Đà Lạt), với cấp bậc Thiếu Úy. Đại Tá Thiệu cũng đã được cho đi học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Command and General Staff College ở Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ, khóa 1957 – 1958 với Trần Thiện Khiêm. Nhiều người cũng tin rằng Đại Tá Thiệu đã được tuyển mộ làm nhân viên CIA và đã được huấn luyện tại đây như Đại Tá Khiêm (Bài viết “Trở lại chuyện ông Thiệu”, MỖI TUẦN MỘT CHUYỆN, ngày 2-11-2009).
Với cách trưng bằng cớ “nhiều người tin rằng”, ông Nguyễn Cần đã đương nhiên coi như ông Thiệu và ông Khiêm là những người làm việc ăn lương của CIA. Xong rồi ông vô tư viết tiếp: “Năm 1962, có lẽ do sự sắp xếp của CIA, Đại Tá Thiệu đã xin gia nhập Đảng Cần Lao để được ông Nhu tin tưởng hơn”, “Đại Tá Thiệu được ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu trao nhiệm vụ giải cứu thủ đô khi có đảo chánh. Ông Nhu không hề hay biết Đại Tá Thiệu là người của CIA”. Bắt đầu từ hàng chữ này, ông Nguyễn Cần coi như ông Thiệu hiển nhiên là nhân viên CIA.
Từ những bài viết như thế này, người ta có thể suy ra đã có nhiều người bị kết án oan trong thời gian ông Nguyễn Cần làm thẩm phán tại Sài Gòn. Ông cứ ngồi trên ghế ông tòa và phán: nhiều người tin rằng kẻ này có tội, có lẽ người kia đã giết người; rồi căn cứ vào đó mà ông phát cho người này vài cuốn lịch, người kia ra pháp trường. Cách chứng minh của ông Nguyễn Cần có quá nhiều
sơ hở cho nên ông không thể thuyết phục được dư luận và do đó không ai tin rằng ông Nguyễn Văn Thiệu là nhân viên CIA.
Thực ra không phải ông Nguyễn Cần tự nghĩ ra chuyện Tướng Khiêm là nhân viên của CIA, mà ông vin vào một bài viết của CSVN đăng trên website cand.com (Công An Nhân Dân) ngày 2-6-2008; nguyên văn như sau:
“Trần Thiện Khiêm sinh năm 1925, sớm tham gia lực lượng quân sự làm tay sai cho thực dân Pháp. Trong hai năm 1946-1947, ông ta là chuẩn uý hạ sĩ quan tại Trường Viễn Đông ở Đập Đá. Năm 1948, Khiêm đeo lon thiếu uý sĩ quan tập sự trong cái gọi là lực lượng vệ binh Nam Phần. Cứ thế dần dà viên sĩ quan ít nói nhưng tương đối đa mưu này thăng tiến dần lên. Tháng 7/1954, Trần Thiện Khiêm được thăng thiếu tá rồi trung tá” “Khi Ngô Đình Diệm được Mỹ bật đèn xanh cho trở thành tổng thống cái gọi là nền đệ nhất cộng hòa ở Sài Gòn, Trần Thiện Khiêm rất biết cách làm thượng cấp tin tưởng ở mình. Chính vì thế nên tháng 8/1958, ông ta đã là đại tá, giữ cương vị tương đối quan trọng tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn và được cho đi tu nghiệp về chỉ huy và tham mưu tại Command and General Staff College ở Fort Leavenworth, Kansas. Có nguồn tin cho rằng, chính ở đây Trần Thiện Khiêm đã được tuyển dụng và huấn luyện làm nhân viên CIA. Năm 1958, về Sài Gòn, Trần Thiện Khiêm đã được Ngô Đình Diệm cho giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 4 dã chiến. Tháng 2/1960, Trần Thiện Khiêm được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 2 bộ binh kiêm Tư lệnh Quân khu 5”.
Bài viết trên đây của một người ký tên là Văn Thư, một bài viết ẩu tả, có tích cách tuyên truyền bịp bợm của cơ quan Công an CSVN. Các chi tiết trong bài viết căn cứ vào hồi ký của ông Đỗ Mậu rồi thêu dệt thêm ra. Trong đó các chi tiết về trường Viễn Đông, trường Đập Đá , Tư lệnh Sư đoàn 4 dã chiến, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, Tư lệnh Quân khu 5 là hoàn toàn do tưởng tượng chứ không hề có trong thực tế.
( Theo tài liệu của Nha Quân sử VNCH (Quyển 4, trang 374 và 375) thì Trường sĩ quan Liên quân Viễn Đông chỉ mở một khóa duy nhất tại Đà Lạt, khai giảng ngày 15-7-1946, dành cho các sĩ quan dân tộc Việt Nam, Lào, Cao Miên và Malagasca, các sĩ quan tốt nghiệp sẽ phục vụ trong Quân đội Pháp. Khóa này có khoảng 10 khóa sinh Việt Nam nhưng chỉ có 1 ông sau này được lên tướng là ông Vĩnh Lộc. Còn ông Trần Thiện Khiêm theo học khóa đào tạo sĩ quan đầu tiên của Quốc gia Việt Nam vào năm 1948, do ông Tổng trấn Nam Kỳ là Trần Văn Hữu mượn trường Hạ sĩ quan Nước Ngọt của Pháp ở Bà Rịa thuộc tỉnh Biên Hòa (Sau thuộc tỉnh Phước Tuy) để đào tạo sĩ quan cho Quốc gia Việt Nam sau khi Pháp ký với Bảo Đại Thỏa ước Vịnh Hạ Long, vì vậy khóa này được tính là Khóa 1 Võ Bị Quốc Gia. Cùng được tính là Khóa 1 Võ Bị Quốc Gia còn có một khóa đào tạo sĩ quan khác do ông Tổng trấn Trung Kỳ là Phan Văn Giáo mượn trường Hạ sĩ quan Đập Đá của Pháp ở Huế để đào tạo sĩ quan cho quân đội Quốc gia tại Miền Trung, khóa này có ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có… theo học. Như vậy ông Thiệu và ông Khiêm cùng tốt nghiệp khóa 1 Võ Bị Quốc
Gia vào cuối năm 1948 nhưng ông Khiêm ra trường Nước Ngọt với cấp bậc chuẩn úy, còn ông Thiệu ra trường Đập Đá với cấp bậc thiếu úy.
Ngoài ra cuối năm 1958 Sư đoàn 4 Dã chiến đã cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh cho nên Trần Thiện Khiêm sau khi đi học ở Mỹ về không thể làm Tư lệnh Sư đoàn 4. Nhưng cũng không phải Trần Thiện Khiêm đi Mỹ về năm 1958, mà là đầu năm 1960. Hồi ký của Đại tá Phạm Văn Liễu (Quyển 1, trang 352) cho thấy Đại tá Khiêm vừa đi học ở Mỹ về được giao cho chức Tư lệnh sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Trung tá Trần Thanh Chiêu bị mất chức sau trận Trảng Sụp ở Tây Ninh vào ngày 26-1-1960. Sau đó giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 21 cho đến biến cố 11-11-1960. Chuyện làm tư lệnh Quân Khu 5 là không có. Vả lại năm 1960 không có Quân khu 5. Chỉ có Quân khu 4 do Huỳnh Văn Cao làm tư lệnh ).
Những khác biệt trong một đoạn văn ngắn nói trên đủ chứng tỏ bài viết của Văn Thư là một bài viết phịa vô tội vạ dành cho những tay chuyên ngồi nói dóc trên vĩa hè đựơc dùng để tung tin đồn nhảm trong dân chúng nhằm bôi xấu chế độ VNCH. Thế nhưng ông Nguyễn Cần thường trưng dẫn và gọi đó là “Tài liệu của CSVN”, ông coi đó là “chứng liệu lịch sử”. Đặc biệt cái gọi là “tài liệu của CSVN” cũng không có nói gì về chuyện ông Nguyễn Văn Thiệu là nhân viên của CIA, chuyện này hoàn toàn do ông Nguyễn Cần dựng đứng ra.
Có rất nhiều cách để chứng minh ông Thiệu không thể là nhân viên CIA: Một khi đã là nhân viên CIA thì lúc nào cũng bị “cấy sinh tử phù”, nghĩa là CIA luôn luôn thủ sẵn bằng cớ để tiêu diệt sự nghiệp của kẻ nào phản bội lại tổ chức. Nếu ông Thiệu không nghe lời, họ chỉ cần trưng cái giấy cam kết cọng tác với CIA hay cái sổ lương của CIA thì sự nghiệp ông Thiệu đi đời chứ không việc gì Tổng thống Nixon phải gần như phát điên đòi cắt cổ ông Thiệu khi ông này nhất định không chịu ký vào bản Hiệp định đình chiến với Hà Nội.
Nếu là nhân viên CIA thì không thể nào đọc bài diễn văn chống Mỹ đến nỗi ông Đại sứ Hoa Kỳ phải toát mồ hôi trước rừng ống kính truyền hình vào ngày 1-11-1968. Bài diễn văn kéo dài 27 phút và bị những tràng pháo tay làm gián đoạn tới 18 lần. Cuối bài diễn văn ông Thiệu nói : “Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình nhưng không muốn nô lệ, chúng ta sẽ không bao giờ nô lệ”. Ngày nay tại đất Mỹ có rất nhiều người nói về bài diễn văn này nhưng chớ hề có ai dám đăng lại nguyên văn bài diễn văn.
Nếu là nhân viên CIA thì không thể nào đọc bài diễn văn từ chức : “Người Mỹ đã bắt chúng ta làm một việc đội trời. Do đó tôi nói với họ: Các ông bắt chúng tôi làm một việc mà các ông không làm nổi, với nửa triệu binh hùng tướng mạnh và chi phí cả 300 tỷ Mỹ kim trong 6 năm trời. Nếu tôi không nói rằng các ông đã bị đánh bại tại Việt Nam thì tôi cũng xin thưa rằng các ông cũng không thắng được họ . Nhưng các ông đã tìm được một lối tháo lui trong danh dự. Và bây giờ, khi quân đội chúng tôi thiếu súng ống đạn dược, trực thăng và phi cơ B52 các ông lại bắt chúng tôi làm một việc như lấp cạn biển Đông...”.
“Các ông đã để chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Đó là một hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo. Đó là một lý do tại sao, khi phái đoàn Quốc hội Hoa Kỳ đến đây, tôi nói với họ rằng, đây không
phải là vấn đề 300 triệu nữa mà là vấn đề còn giữ lời hứa giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong cuộc bảo vệ tự do và độc lập của họ hay không. Chính vì lý tưởng tự do này mà người Hoa Kỳ đã chiến dấu sát cánh cùng chúng tôi và cũng vì đó mà 50 ngàn người Hoa Kỳ đã hy sinh xương máu ở đây…”.
“Hoa Kỳ hãnh diện là một quốc gia bảo vệ đến cùng chánh nghĩa và lý tưởng tự do trên thế giới và sẽ ăn mừng lễ độc lập thứ 200 vào năm tới đây. Tôi hỏi họ rằng: Lời nói của Hoa Kỳ có giá trị gì không? Ba trăm triệu không phải là một món tiền lớn đối với các ông. So sánh với món tiền khổng lồ các ông chi phí vào đây trong 10 năm qua, món tiền này chỉ đủ để các ông đánh trận trong 10 ngày. Từ chối món tiền này, các ông còn muốn chúng tôi thắng Cọng sản hay ngăn chận làn sóng xâm lăng của Cọng sản. Đó là công việc mà các ông không làm nổi trong suốt 6 năm trường và chi phí khổng lồ của Hoa Kỳ, thật là phi lý...”.
Đây là những lời khí phách của người đàn ông Việt Nam, vạch mặt gian trá của những kẻ nhân danh đại nghĩa, nhân danh chống lại cái ác để lừa phỉnh đồng minh của mình. Một khi phát lên những lời nguyển rủa Hoa Kỳ trước dư luận thế giới thì có nghĩa là lương tâm ông Thiệu hoàn toàn không có gì vướng mắc đối với tổ chức gián điệp CIA, rõ ràng là ông ta đứng ngoài tổ chức đó. Và cũng vì bài diễn văn này mà người ta không cho ông Thiệu nhập cư tị nạn tại Hoa Kỳ vào năm 1975; đồng thời người ta mở một chiến dịch đổ tội làm mất nước cho ông Thiệu và cho Quân đội VNCH. Ông Thiệu đã thử một lần lên tiếng vào năm 1990 nhưng các phương tiện truyền thông tiếng Việt do các tổ chức chính trị hoa Kỳ bảo trợ đã đồng loạt dập tắt cố gắng cuối cùng của ông.
Một sơ hở khác trong lập luận của ông Nguyễn Cần khi ông cho rằng tất cả những ai từng tham gia trong công cuộc hạ bệ chế độ Ngô Đình Diệm đều là những diễn viên do CIA trả tiền, và tất cả đều phục vụ cho ý đồ của CIA. Lập luận này không thể chấp nhận được vì những người đã làm hạ giá chế độ như Nguyễn Tường Tam, Phan Huy Quát, Hoàng Cơ Thụy, Phan Khắc Sửu, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh Thi, Phan Trọng Chinh, Văn Văn Của, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Chương, Cao Văn Luận, Thích Tịnh Khiết, Thích Quảng Đức, Thích Tâm Châu, Quách Thị Trang … không thể được đánh giá là những người làm việc cho CIA để lấy tiền. Nhất là những người như Nguyễn Tường Tam, Thích Quảng Đức và Quách Thị Trang đã nhận được bao nhiêu cho cái giá sinh mạng của họ?
Dĩ nhiên có thể trong số những người tham gia hạ bệ chế độ Ngô Đình Diệm phải có người làm việc cho CIA để ăn tiền, nghĩa là bán nước. Nhưng không thể nào gom tất cả những vị này thành một lũ bán nước. Đối với quân đội cũng vậy, không thể gom tất cả các sĩ quan và tướng lãnh tham gia đảo chính là những người làm đảo chính để ăn tiền. Ngược lại, họ buộc phải hoàn thành nhiệm vụ của một người cầm kiếm trong thời quốc gia bị loạn. Và họ biết cái giá phải trả nếu họ thất bại, trong khi nếu thành công thì họ chỉ được an ủi với lương tâm là mình đã làm đúng với tinh thần “TỔ QUỐC-DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM”. Họ không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những cảnh đàn áp đẫm máu
mà không biết ngày nào mới chấm dứt bởi vì càng đàn áp thì nhân dân nổi dậy càng đông.
Tại sao ông Nguyễn Văn Thiệu lại không thể là một trong những người tham gia đảo chánh chỉ vì muốn làm tròn bổn phận của một người quân nhân trước biến loạn của quốc gia? Khi còn làm chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia ông đã từng dạy sinh viên của mình rằng : “Khi bắt tay với người nào, các anh không được khom lưng, cho dù với Tổng thống (Hồi ký của Trung tá Đào Đức Châu). Ông đã dạy cho sinh viên của ông không được khom lưng trước Tổng thống Diệm thì cớ gì riêng cá nhân ông lại khom lưng trước chế độ của ông Diệm? Trong khi đó ông Đỗ Mậu lại bày cho các sĩ quan khi vào trình diện Tổng thống Diệm lúc trở ra phải vái chào và khom lưng bước lui cho tới cửa. Nội chuyện này cũng đủ thấy khí phách của Tướng Thiệu và Tướng Đỗ Mậu hoàn toàn khác nhau. Gom Tướng Thiệu vào cùng một rổ với Tướng Đỗ Mậu là không đúng.
Riêng ông Đỗ Mậu với quyển hồi ký dày hơn 1 ngàn trang đã hết lời nguyền rủa Nguyễn Văn Thiệu nhưng vẫn phải công nhận cá tính của ông Thiệu: “Trong bửa ăn cuối cùng tại câu lạc bộ sĩ quan để tiễn tôi lên đường về nhiệm sở mới, Trung úy Nguyễn Văn Thiệu mở chai champagne mời tôi và nói mấy lời rất cảm động. Dương Quý Phan nổi giận, nạt Thiệu tại sao lại dám ca ngợi một sĩ quan đang mang trọng tội trước mặt y. Cử chỉ vừa ưu ái, vừa khí phách của Thiệu càng làm tôi quý mến Thiệu hơn” ( Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, trang 83 ). Như vậy hình ảnh một tên mật thám làm việc cho CIA hoàn toàn không phù hợp với nhân cách của ông Thiệu.
Quyển sách “The Decent Interval” của trùm CIA Frank Snepp có mơ hồ đá động tới một nhân viên CIA giấu mặt có mặt trong buổi họp tại Cam Ranh ngày 14-3-1975. Nhân vật này là một trong các ông Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và Đặng Văn Quang. Nhưng riêng Quang thì chính Frank Snepp xác nhận là có cộng tác với CIA, chỉ còn lại ông Khiêm và ông Viên. Rồi đến năm 2009, một cựu nhân viên CIA là Thomas Ahern, được phép thâu tập các tài liệu mới được giải mã của cơ quan CIA viết thành cuốn sách “CIA And The Generls”, nói về giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam. Trong đó cho thấy Tướng Khiêm, Tướng Quang có cọng tác với CIA, nhận nhiệm vụ theo dõi Tướng Thiệu và báo cáo về cho CIA.
Tuy nhiên đối chiếu lại với sách của Frank Snepp thì Tướng Quang và Tướng Khiêm mặc dầu ăn tiền của CIA nhưng không hề báo cáo lại những gì mà Tướng Thiệu yêu cầu các ông đừng cho Hoa Kỳ biết, điển hình là kế hoạch rút lui khỏi Tây Nguyên trong cuộc họp tại Cam Ranh. Cơ quan CIA tại Sài Gòn biết được kế hoạch này quá trễ nhờ báo cáo của một nhân viên khác của họ nằm trong Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, đó là Đại tá Lê Khắc Lý. Như vậy, tuy cọng tác với CIA nhưng đối với quốc gia đại sự hai ông tướng cũng còn giữ được tiết tháo của mình, khác hẳn những người làm mật thám như ông Lý.
Cả hai quyển sách của hai nhân vật quan trọng của CIA thừa sức chứng minh ông Nguyễn Văn Thiệu không phải là người của CIA nhưng ông Nguyễn Cần cố tình không thừa nhận mặc dầu ông đã xem và trích dẫn cả hai quyển. Rốt cuộc ông Nguyễn Cần trở thành có tội với lịch sử, chỉ vì thương tiếc ông Ngô Đình
Diệm mà ông đã bôi đen tất cả những ai chống lại chế độ Ngô Đình Diệm. Và cũng vì muốn bảo thủ ý kiến của mình mà ông Nguyễn Cần đã gieo tiếng ác cho những nhân vật lịch sử. Vô tình ông Cần đã rơi vào trận đồ của các thầy phù thủy chính trị Hoa Kỳ. Họ muốn người Việt tin rằng nhân dân Miền Việt Nam mất nước là do ngu dốt không biết lựa chọn người lãnh đạo, còn các sĩ quan và tướng lãnh Nam Việt Nam, tức là những người đàn ông Việt Nam, đều là những kẻ đui mù và bất lực trước các hiểm nguy của thời cuộc.
Luận điệu của ông Nguyễn Cần trở thành nguy hiểm đối với sự đoàn kết của lực lượng chống cộng trong cộng đồng người Việt, bởi vì ông cũng nhân danh chống cộng để hạ nhục những người có trách nhiệm với quốc gia trong cuộc chiến vừa qua. Ông cũng chưởi rủa người Mỹ với lời lẽ đao to búa lớn nhưng cuối cùng đi tới kết luận rằng người Mỹ họ khôn, còn dân mình ngu quá cho nên mất nước là phải.
Rồi đây nhiều thế hệ Việt Nam sẽ dễ dàng tin vào lập luận của ông Nguyễn Cần với những trích dẫn méo mó của ông, họ sẽ lắc đầu ngao ngán cho cha anh của họ. Tuy nhiên lịch sử là lịch sử, là một chuổi sự thật đã xảy ra rồi, không ai có thể làm lại lịch sử bằng ý kiến mĩa mai cay độc của một người thường trưng cái mác luật gia để tạo uy tín cho các bài viết của mình. Căn cứ vào cách lý luận của ông, “nhiều người tin rằng có lẽ” ông chưa bao giờ là một luật gia; và ngược lại, nhiều người tin rằng có lẽ ông chỉ là một người tò mò, quan sát các biến cố chính trị bằng cảm tính cá nhân đôi khi đầy ác ý.
Bùi Anh Trinh
==================================

No comments:

Post a Comment

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================