CÁI CHẾT CỦA MỘT THIỀN SƯ
Nguyễn-Châu
Đức Phật được tôn là “Điều Ngự Trượng Phu” bởi Ngài đã làm chủ hoàn toàn thân tâm cùng hoàn cảnh một cách vững chãi và thường xuyên. Phật luôn luôn an trú trong chánh niệm, trong tỉnh thức trọn vẹn.
Thiền [Dhyàna] là một pháp môn nổi bật trong Phật Giáo, từ xưa Thiền Định đã trở thành một truyền thống tu tập rất linh hoạt của những ai muốn thoát khổ đến an vui. Tính linh động của pháp môn này đã đưa đến nhiều hình thức hành trì, tu tập khác nhau, nhưng cốt lõi và ý hướng của Thiền vẫn không biến đổi.
Từ bốn thập niên qua, pháp môn Thiền được truyền bá rộng rãi trong quần chúng và tại một số Tự viện, Tu viện Phật giáo, Thiền đóng vai trò then chốt trong tu tập. Pháp môn tu tịnh độ dần dần chỉ dành cho người cao niên tu tập.
Tại hải ngoại, nơi một số người, THIỀN dường như đã trở thành một cái “mode”, một loại thời trang tâm linh. Có nhiều trung tâm “tu Thiền”, “hành Thiền”, “tập Thiền” được thiết lập.
Từ “Thiền Vô Vi” đến “Thiền Đốn Ngộ”(1) [Đốn ngộ là giác ngộ ngay tức khắc, phân biệt với “tiệm ngộ” là giác ngộ từ từ qua huân tập]...
Những người tu thiền thường nói đến các công án tu tập, các phương pháp thiền hành, kể những chuyện về thiền, làm thơ thiền, tấu nhạc thiền, ngồi thiền, thực tập thiền quán, tĩnh tâm để soi tiền kiếp, để thăng tiến thần thông vân vân... Từ đó một số thiền sư mở lớp dạy thiền, tổ chức những buổi “Pháp đàm”, “Pháp thoại”, tổ chức những “khóa tu”, hoặc đi thuyết giảng đó đây...
Trong các thiền sư có tiếng tăm đi thuyết giảng nhiều nơi trên thế giới, có một thiền sư người Việt, đó là thiền sư Nhất Hạnh.
Hành Trạng Của Thiền Sư Nhất Hạnh
Xuất gia năm 16 tuổi (1942) tại chùa Báo Quốc (thường đọc là Bảo Quốc) thành phố Huế, miền trung của Việt Nam. Tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại làng Minh Hương, (Bao Vinh), huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Chú “điệu” Xuân Bảo học giáo lý sơ cấp tại trường Báo Quốc, sau đó qua chùa Từ Đàm (thường gọi là chùa Tỉnh Hội, cách chùa Báo Quốc khoảng một mile). Một thời gian sau, “điệu” Nguyễn Xuân Bảo được đưa lên chùa Từ Hiếu (cách chùa Từ Đàm khoảng 3 miles về phía Tây) để tiếp tục học về điển lệ tu tập và chính thức thọ giới, Hòa Thượng Thích Nhất Định đặt cho pháp danh là Nhất Hạnh.
[Theo “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Huệ Năng Lục Tổ thì căn bản của “tự ngộ tu hành” là pháp Thiền Định và Trí Huệ, thường nói tắt là Định Huệ. Thầy Huệ Năng bảo chúng đệ tử rằng: “Chư thiện trí thức, chuyên ròng một hạnh Chánh Định (tức Nhất Hạnh Tam Muội) nghĩa là trong cả thảy các chỗ đi, đứng, ngồi, nằm, thường giữ một lòng ngay thẳng. Cơ sở của Chánh định trong Nhất Hạnh Tam Muội là chánh niệm. Kinh “Tịnh Danh” nói: “Trực tâm thị Đạo tràng, trực tâm thị Tịnh độ”: Lòng ngay thẳng là Đạo tràng, lòng ngay thẳng là Tịnh độ. Có lẽ Hòa Thượng Nhất Định lấy pháp “Nhất Hạnh Tam Muội” đặt cho chú điệu Nguyễn Xuân Bảo].
- đầu thập niên 1950, Đại Đức Thích Nhất Hạnh học Trung học tại Huế.
- Năm 1956 Đại Đức vào Sài Gòn học Đại Học Văn Khoa. Đỗ Cử Nhân Văn Khoa khoảng 1959.
- 1960: Thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh và Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, Nhà Xuất bản Lá Bối.
Trong thời gian này, Đại Đức Thích Nhất Hạnh là một nhà sư trí thức, có uy tín trong Phật Giáo Ấn Quang của Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh. Đại Đức làm thơ, viết văn ca ngợi phong trào hòa bình, với chủ trương “nhìn nhận mọi người Việt đều là anh chị em, không xem bất cứ ai là kẻ thù”, nhưng đòi Mỹ chấm dứt can thiệp vào Việt Nam, tố cáo tội ác của “đế quốc Mỹ”, và không đội trời chung với chính phủ Ngô Đình Diệm, (và sau này với Thiệu Kỳ). Năm 1961, Viện Đại Học cử Đại Đức Thích Nhất Hạnh du học. Đại Đức học tại Đại Học Princeton, tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ, môn Tôn giáo đối chiếu. Thời gian này, Đại Đức Thích Nhất Hạnh thường thuyết giảng về Phật Giáo tại Đại Học Columbia, với tư cách một nhà sư gốc Á Châu.
Năm 1964, Thượng Tọa Trí Quang viết thư yêu cầu Đại Đức Nhất Hạnh mau trở về nước để hỗ trợ cho Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ (tiết lộ trong Bạch thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu).
Năm 1966, Thượng Tọa Trí Quang phái Đại Đức Thích Nhất Hạnh ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi quyền tự quyết, lập chính phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Đại Đức Nhất Hạnh đến Pháp, với tư cách Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại cuộc Hòa Đàm Paris về Việt Nam. Mục đích của phái đoàn Phật giáo do Đại Đức Nhất Hạnh là nói cho thế giới biết rằng: “dân Việt Nam không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết với nhau để đi tới một giải pháp hòa bình”. Đây là giai đoạn chiến tranh tại miền Nam đang trở nên khốc liệt vì quân đội Bắc Việt tăng cường xâm nhập qua “đường mòn Hồ Chí Minh” trong chiến dịch “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với hàng vạn bộ đội và thanh niên “Sinh Bắc Tử Nam” đi B (mật danh để chỉ miền Nam) để tiêu diệt Mỹ Ngụy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong các bài nói, Đại Đức Thích Nhất Hạnh không bao giờ kể đến các cuộc tàn sát dân miền Nam của bộ đội Bắc Việt và quân du kích “giải phóng” cả. Trong “Hoa Sen Trong Biển Lửa...” Đại Đức Thích Nhất Hạnh cho thế giới biết là những chết chóc đau thương của người dân đều do Mỹ và quân đội miền Nam gây ra. Đại Đức Thích Nhất Hạnh ca tụng Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc Việt Nam.
Đại Đức Thích Nhất Hạnh định cư tại Pháp từ tháng 5-1966.
Đầu tháng 6-1966, Tổ chức Phản chiến ở Mỹ Fellowship for Reconciliation và Đại Học Cornell ở New York mời ông qua thăm Hoa Kỳ. Ngày 1-6-1966, tại New York, trước các nhóm Phản chiến Mỹ, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh đã đưa ra một bản tuyên cáo 5 điểm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (phe Ấn Quang, đối kháng với phe Việt Nam Quốc Tự của Thích Tâm Châu), như sau:
1) Chính phủ Thiệu – Kỳ từ chức,
2) Quân đội Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam,
3) Ngưng oanh tạc Bắc Việt,
4) Ngưng các cuộc hành quân tại Nam Việt Nam,
5) Mỹ phải giúp lập chế độ dân chủ và tái thiết miền Nam vô điều kiện.
Ở đây có sự trùng hợp là 5 điểm của Phật Giáo Ấn Quang rất giống với “Lập trường 5 điểm của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”. Ngày hôm sau 2-6-1966, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh được đưa đến Thượng Viện Mỹ, tại đây, Thượng Tọa Nhất Hạnh đã tố cáo quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã gây ra các thảm họa, chết chóc tại Việt Nam và nói là đang bị nhân dân Việt Nam chống đối kịch liệt.
Trong thời gian du thuyết ở Hoa Kỳ, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh đã gặp Mục sư Martin Luther King Jr. chia sẻ chủ trương phản chiến và đã được mục sư King đề cử tham dự giải Nobel Hòa bình năm 1967. Dù đây chỉ là một cử chỉ ưu ái theo phéùp xã giao của người Mỹ mà thôi, nhưng qua sự “tiến cử” (recommendation) này, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh đã được khích lệ để hoạt động hăng say hơn cho phong trào Hòa Bình và Phản Chiến. Sau đó Martin Luther King bị giết và không còn ai nhắc đến ứng viên Nobel Hòa Bình Sư Thích Nhất Hạnh nữa.
Tác Phẩm “Vietnam, TheLotus in a Sea of Fire, a Buddist Proposal for Peace”
Thượng tọa Thích Nhất Hạnh được qua Mỹ du học. Trong thời gian này Thượng Tọa Nhất Hạnh tham gia phong trào phản chiến Mỹ và trở thành một người vận động của phong trào hòa bình, chống chiến tranh Việt Nam. Thích Nhất Hạnh là tác giả cuốn “Vietnam, The Lotus in a sea of Fire” (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa) tố cáo Mỹ gây chiến tranh xâm lược tại Nam Việt Nam, đòi Mỹ rút quân và đòi quân đội Việt Nam Cộng Hòa “phải ngưng chém giết, để nhân dân miền Nam có hòa bình và độc lập” – tuyệt nhiên, không đả động gì đến quân đội Cộng sản Bắc Việt xâm nhập phá hoại và chuyển quân theo cái gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” để tấn công chiếm miền Nam. Năm 1967, với cuốn “Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, Một giải pháp Hòa bình của Phật giáo”, Thượng Tọa Nhất Hạnh đã xuất hiện như một “sứ giả hòa bình” tại ngoại quốc. Nội dung toàn bộ cuốn sách mô tả các cuộc xuống đường của Phật Giáo chống tất cả các chính phủ tại miền Nam, Thượng Tọa Nhất Hạnh đã lý luận rằng: Mỹ đã gây ra chiến tranh tại miền Nam Việt Nam, đã phạm muôn ngàn tội ác đối với nhân dân miền Nam, và đó là lý do khiến Hà Nội đổ quân vào giải phóng miền Nam.
Thượng tọa Nhất Hạnh viết trong sách rằng chính mắt Thượng tọa đã thấy: “Tại một làng nhỏ, một chiếc xe bò đang đi trên con lộ. Trên xe một thiếu phụ VN ôm con, bên cạnh là bà mẹ già. Chiếc xe chất đầy những tài sản của họ... Từ trên trời cao, một chiếc trực thăng Mỹ sà xuống, tiếng máy nổ và tiếng cánh quạt đinh tai nhức óc. Những con bò kéo xe sợ hãi, nhảy chồm lên chạy tứ tán, hất hai người đàn bà và đồ đạc xuống đất. Mấy người lính Mỹ từ trực thăng bước xuống. Họ nói rõ họ muốn mang người thiếu phụ đi với họ. Hai người đàn bà khóc lóc van xin, nhưng vô ích. Cuối cùng, người thiếu phụ phải trao đứa con cho bà cụ già, rồi để cho mấy người lính Mỹ đẩy mình lên trực thăng bay đi mất”(sđd, Nxb Hill & Wang, NY, 1967, trang 66).
Thượng tọa Thích Nhất Hạnh không nói là cảnh mà ông chứng kiến xảy ra Ở ĐÂU? LÚC NÀO? NGÀY THÁNG NÀO?
Sách “Hoa sen trong biển lửa” ở trang 61, Thượng Tọa Nhất Hạnh viết: “MTDTGPMN được thành lập ngày 20-12-1960, nhằm liên kết những lực lượng chống đối Tổng Thống Diệm. Người ta không ngạc nhiên, khi thấy mặt trận đã nhanh chóng được sự ủng hộ của Bắc Việt. Trong phiên họp của đảng Lao Động Việt Nam kỳ 3, tổng bí thư Lê Duẫn đã loan báo sự thành lập của mặt trận và khoe rằng mặt trận đã do Đảng ta lãnh đạo, nhằm lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, thủ tiêu hiến pháp miền Nam và thực hiện thống nhất Nam Bắc”.
Ở trang 115, Thượng Tọa Nhất Hạnh giải thích thêm: “vì chiến tranh cứ tiếp diễn và vì người Mỹ đổ thêm quân và vũ khí vào Việt Nam, mặt trận sẽ nghiêng theo khối Cộng sản và càng ngày càng trở thành công cụ của khối Cộng sản” (sđd, tr. 115).
Trong sách nói trên, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh đã phạm giới Vọng Ngữ rất trầm trọng và tỏ ra rất thiếu sự tỉnh thức của một người tu hạnh Chánh Định. Về chuyện “chiếc xe bò và hai người đàn bà” là hoàn toàn bịa đặt để tuyên truyền vu khống; về Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì sai phạm về kiến thức, thành lập MTGPMN là thời Hồ Chí Minh chứ không phải Lê Duẫn, mặt trận này là công cụ của Bắc Việt chứ không phải do người quốc gia chống chính phủ Ngô Đình Diệm, vì sau khi chính phủ Diệm sụp đổ, MTGPMN vẫn tiếp tục tấn công các thành thị miền Nam, đặc biệt là cuộc “Tổng tiến công Tết Mậu Thân” thảm sát hàng ngàn đồng bào vô tội ở Huế.
Lập Làng Hồng Để Tu Học
Theo Tuyên cáo (1987) của Thành phố Berkeley, California, Hoa Kỳ, thì “Thiền sư Nhất Hạnh vì không được trở về quê hương Việt Nam, đã thiết lập làng Hồng tại Pháp để làm trung tâm tu học...” Tên lúc đầu là Làng Hồng, ai cũng nghĩ là chắc nơi đây trồng toàn hoa hồng nên mới gọi tên Làng Hồng, thực tế không phải vậy. Sau này, đổi là Làng Mai vì Mai có màu vàng, có lẽ để “tùy thuận chúng sanh” ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đều là người Việt tỵ nạn Cộng sản, thường dị ứng với “hồng kỳ” màu máu chăng?
Năm 1968, Thích Nhất Hạnh trở lại Pháp. Bà Fleurette Cao Ngọc Phượng (con của Kỹ sư Cao Văn Móc, Trưởng Ty Công Chánh Việt Nam Cộng Hòa tại tỉnh Bến Tre, cả gia đình đều là “dân Tây” tức mang quốc tịch Pháp) đã du học ở Pháp nhiều năm, quyết định xuất gia, quy y với Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, thọ giới “Tiếp Hiện” pháp danh Chân Không, từ 1966, đã làm việc rất đắc lực với Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Nhất Hạnh và Sư Chân Không
Từ năm 1968, sư cô Chân Không đã qua Pháp làm phụ tá cho Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, đã yểm trợ tất cả các công tác về hòa bình, về xã hội, về hướng dẫn các khóa tu được tổ chức khắp nơi trên thế giới và giúp xây dựng và quản trị Làng Hồng rồi Làng Mai...
Năm 1982, Thích Nhất Hạnh bắt đầu tìm mua đất để thiết lập Làng Hồng làm nơi tu học và mở các khóa tu cho thiền sinh khắp thế giới vì Am Phương Vân chỉ có thể chứa khoảng 50 người. Làng Hồng có tổng diện tích là 30 mẫu Tây, có hai Xóm Thượng và Hạ cách nhau khoảng 3 cây số. Có 1250 cây Prunier d’Agen (Việt Nam gọi là mận), thiền sinh ngoại quốc gọi Làng này là Village des Pruniers hoặc Plum Village. Plum cũng có nơi gọi là mai, cho nên làng Hồng mới có tên là Mai Thôn tức Làng Mai ngày nay. Mỗi năm có hàng trăm thiền sinh trên thế giới về đây tu học.
Lìa Bỏ Danh Xưng Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh
Từ năm 1966, Thầy Thích Nhất Hạnh bắt đầu hành xử như một thiền sư, ăn mặc nâu sòng, giản dị, mặc nhiên không còn ưa gọi là Thượng Tọa nữa, cả họ Thích của các bậc tu hành thọ từ 250 giới trở lên cũng không dính tới nữa. Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành Thiền Sư Nhất Hạnh, nổi tiếng khắp thế giới. Thiền sư Nhất Hạnh đã cùng với sư cô Chân Không đi thuyết giảng Thiền học tại hàng chục quốc gia, kể cả Nga và các nước Đông Âu cũ. Theo tường thuật của sư cô Chân Không về các chuyến đi của thiền sư Nhất Hạnh từ 1991 đến 1993, thì nơi nào “thầy” đến giảng, số người nghe cũng đông gấp năm mười lần Đức Đạt Lai Lạt Ma... Nhiều mục sư Tin Lành đã phát nguyện quy y với Thiền sư Nhất Hạnh, nhiều Trung Tâm Thiên Chúa Giáo cũng mời Thiền sư tới thuyết giảng. Sau các buổi thuyết giảng và thiền hành của Thiền sư, thường có hàng trăm người ghi tên xin quy y. Theo tường thuật của sư cô Chân Không trong cuốn “Kiều và Văn Nghệ Đứt Ruột” (từ trang 179 đến trang 297 = 118 trang) thì Thiền sư Nhất Hạnh đã chuyển hóa, cứu độ và đem lại an vui hạnh phúc cho hàng chục ngàn thiền sinh trên khắp năm châu. Thầy là một thiền sư nổi tiếng, được các thiền sinh tự hào về bậc thầy đã truyền đạt giáo lý Bụt cho mình. Nhiều người xem Thầy như Bồ Tát, như Phật tại thế theo vọng tâm của họ. Họ vinh danh thiền sư để bản ngã của học được sáng giá, vì được làm đệ tử của một thiền sư nổi danh quốc tế. Là người Việt Nam, dù không phải là môn sinh của thiền sư Nhất Hạnh, cũng cảm thấy chút tự hào khi nghe người ngoại quốc ca tụng trí huệ và tiên phong đạo cốt của thiền sư Nhất Hạnh.
Thiền sư Nhất Hạnh Đã Ra Đi...
Nhất Hạnh là một thiền sư có danh tiếng trong thuyết giảng và tập thiền, dạy cho nhiều người tu tập để được an vui và hạnh phúc. Thiền sư và sư cô Chân Không đã có một loạt 8 thiền viện tại Pháp và Hoa Kỳ. Năm nay thiền sư Nhất Hạnh đã 79 tuổi. Thiền sư làm một chuyến đi để thực hiện tâm nguyện chuyển hóa tuổi trẻ và đồng bào trong nước. “Bây giờ, sau mấy chục năm hoạt động, kinh nghiệm của tôi đã trở nên giàu có hơn. Tôi nghĩ rằng, nếu tôi có cơ hội về nước, thì công việc mà tôi muốn làm là tiếp xúc với tuổi trẻ và đồng bào, để tổ chức những ngày tu học, những khóa tu học, để người ta có dịp nhìn lại bản thân, tu tỉnh lại, chuyển hóa, hàn gắn những vết thương trong lòng mình, gây lại hạnh phúc trong gia đình mình...” (Nhất Hạnh, “Kiều và Văn Nghệ Đứt Ruột” trang 344 phụ lục).
Tâm Nguyện này chính là một vọng nghiệp lớn lao làm cho thiền sư Nhất Hạnh mất luôn chỗ đứng của mình trong mấy chục năm qua mà “thầy” tự nhận là “kinh nghiệm đã trở nên giàu có hơn”. Vọng nghiệp lớn lao là vì số kinh nghiệm giàu có mà thiền sư Nhất Hạnh tự thấy là đã có, lại không thể ứng dụng tại một nơi mà đại bộ phận dân tộc cơm không có ăn, áo không đủ mặc, nhà cửa tồi tàn rách nát, nơi mà người dân phải chạy ăn từng bữa toát mồ hôi nhưng chưa chắc có ăn, thì làm sao mà tập thiền? Căn cơ và hoàn cảnh nhân dân Việt Nam là sao có thể đem kinh nghiệm từ các quốc gia mà cái uống, cái ăn thừa mứa, sự đi lại tự do thoải mái, không có bóng dáng công an khu vực, của các nước Âu, Mỹ? Phật dạy phải tùy căn cơ mà độ. Độ không tùy duyên là “phi pháp” (Pháp của Phật). Chuyến đi Việt Nam của thiền sư Nhất Hạnh và hơn một trăm “tăng thân” Làng Mai, được chính phủ Cộng sản Việt Nam gọi một cách trân trọng là “Phái đoàn Phật giáo Quốc tế” thăm Việt Nam và Nhà nước đã đón tiếp phái đoàn này một cách trịnh trọng và rùm beng. Có lẽ họ muốn nói cho Mỹ và Tổ Chức Human Rights Watch biết là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không hề có chuyện đàn áp tự do tôn giáo, không hề chặn đường chặn sá Hòa Thượng nào cả. Phái đoàn đã đến Hà Nội trước, rồi từ từ mới xuôi Nam... Tại Hà Nội, thiền sư Nhất Hạnh sinh hoạt rất bình thường vì không cần phải “phô trương” quốc tế. Nhưng khi đến Huế, thiền sư Nhất Hạnh đã biến hóa thành một Sư ông, y bá nạp, với lọng vàng trang nghiêm. Sư cô gọi các Thượng tọa Huế lập phái đoàn ra sân bay Phú Bài đón tiếp, nhưng chẳng ai nghe theo. Bởi Huế là cái nôi của Phật giáo tranh đấu chống Nhà nước đàn áp, cô lập giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Làm sao thầy Thích Thiện Hạnh lại có thể đi đón phái đoàn Phật Giáo được Nhà nước o bế? Thích Nhất Hạnh và Tướng VC Võ Nguyên Giáp
Khi phái đoàn đến Sài Gòn, thì người ta không tìm thấy thiền sư Nhất Hạnh nữa. Tại chùa Già Lam, có sư ông Thích Nhất Hạnh, y bá nạp, dưới lọng vàng ngồi đợi trước cổng tam quan, chờ sư cô vào thương lượng với tăng chúng trong chùa về nghi vệ đón rước sư ông vào chùa. Sư cô Chân Không yêu cầu chùa cử chư tăng mang lư trầm, lẵng hoa, ra rước sư ông vào và đòi gióng chuông trống bát nhã khi sư ông bước qua cửa tam quan. Các nghi thức rước sư ông theo yêu cầu của sư cô Chân Không bị từ khước. Sư cô mặc cả: nếu không có chuông trống bát nhã, thì xin cho một bát nhang trầm và hoa bưng ra mà thôi, nhưng cái tối thiểu này cũng không được đáp ứng. Lý do, chùa không mời sư ông, sư cô và phái đoàn, nên không có bổn phận đón rước theo nghi lễ dành cho các vị chân tu. Sư ông đến thăm thầy cũ của sư ông là Hòa Thượng Trí Quang đang trú tại chùa, không có quyền đòi hỏi nghi thức gì cả. Cuối cùng, sư ông, sư cô đành vào chùa không chuông không trống và cũng không lễ Phật nữa. Sư ông đã “đòi” vào thăm Thượng Tọa Tuệ Sĩ (nguyên là tử tội của chính phủ Hà Nội), nhưng thị giả của thầy ngăn lại.
Ở đây, chỉ xin nêu ra các đòi hỏi làm cho sư ông Nhất Hạnh và sư cô Chân Không mất hết hạnh nguyện tu trì. Thật vậy, sư ông và sư cô khi đòi hỏi những lọng vàng, đắp y vàng, muốn có lư trầm, lẵng hoa và chuông trống bát nhã để vào chùa, thì đã không còn giữ đúng giới hạnh nữa, vì tâm đã “trụ vào pháp” và “tướng”.
Kinh Kim Cang nói: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như lai” (Nếu do sắc thấy ta, vì âm thanh mà tìm ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy được Phật). Sư ông đắp y vàng, che lọng vàng tức “chấp” sắc tướng, muốn có chuông trống bát nhã từng bước đi là trụ và hình danh. Sư cô năng nổ đòi đủ bốn thứ hình danh sắc tướng thì làm sao mà an trú trong bản thân, làm sao gọi là Chân Không?
Hành thiền là khi hành giả đang làm gì, nói gì và suy nghĩ gì, đều phải ý thức rõ về những gì mình đang làm, đang nói và đang suy nghĩ. Thực hành thiền quán trong từng giây phút hiện tại để trở về với bản thân mình một cách trọn vẹn, không để ngoại cảnh lôi kéo. Nếu để cho ngoại cảnh lôi kéo thì niệm không thể nào chánh được, tâm trí sẽ không còn tỉnh thức nữa. Kinh “Tịnh Danh” nhắc nhở người tu hành phải trực tâm, không nên lòng tưởng điều tà vạy mà miệng nói điều ngay thẳng. Nếu thực sự giữ lòng ngay thẳng, Chánh định, chánh niệm thì đối với tất cả các pháp, tâm đừng chấp trước (nghĩa là bám lấy hay vướng mắc vào các cảnh đời).
Tâm không trụ pháp thì đạo mới thông lưu. Tâm trụ vào pháp, ấy là mình tự trói mình không còn tự do, tự tại nữa.
Trong chuyến đi thăm Việt Nam lần này, sư ông Nhất Hạnh, sư cô Chân Không và các tăng thân làng Mai đã không giữ được sự tỉnh thức cần thiết của những hành giả, tâm của họ khởi nhiều vọng động, ít ai có thể an trú trong phép quán niệm thân thể nơi thân thể, cảm thọ nơi cảm thọ, tâm thức nơi tâm thức... một cách sáng suốt và tỉnh thức để loại trừ mọi lôi kéo của hoàn cảnh. Vì sao? Tại Việt Nam đâu phải như tại Hoa Kỳ và Âu Châu, muốn đi đâu thì bung ra mà đi, không xin phép ai, không có kẻ nào bên ngoài canh chừng... Do đó, mọi việc xảy ra đều không lường trước được. Chuyến đi này của sư ông Nhất Hạnh có thể xem như chuyến từ giã vị thế một thiền sư nâu sồng đạo hạnh. Uy tín và tiếng tăm của nhà sư này đã giảm sút từ lần vọng ngữ 25-9-2001 tại New York về thành phố Bến Tre với ba trăm ngàn người bị máy bay Mỹ ném bom tiêu diệt, nay qua chuyến đi Việt Nam và những việc làm của sư cô Chân Không bên đó làm cho suy yếu thêm. Chuyến đi không “khế cơ, khế thời” đã gây thêm hệ lụy cho tăng ni Phật Giáo chân chính trong nước. Đúng ra sư ông không nên ôm tham vọng thống nhất Phật Giáo quốc doanh với với Phật Giáo Ấn Quang, các vọng động chỉ tạo thêm tỳ vết trong cuộc đời mà thôi.
Trong cuốn Thiền Luận, Thầy Tuệ Sĩ có trích một đoạn của một tác giả Phật Giáo Sử, nói về hiện trạng của thiền: “Đọc kinh bây giờ ít thịnh hành hơn, còn học Thiền thì lại rất rầm rộ. Cái tệ hại của nó, quả thật, là những kẻ quê mùa dốt nát này, sau khi thăm viếng các Thiền viện và nghe các thiền sư giảng pháp, họ thích thú quá cỡ, và ít chịu suy nghĩ về tinh thần của giáo thuyết, tự cho mình là những bậc thầy, không những đã khinh miệt cỡ đức mà còn coi nhẹ kinh điển và nội dung của kinh điển với những phát ngôn bừa bãi của họ. Quần chúng ngây ngô bị lừa dối và những bậc trọng vọng, nhưng vốn ít học, lại vui thích với những lời rỗng tuếch của các môn đệ Thiền.” Tuy đây là nhận xét có tính cách phiến diện về thiền, nhưng nó cũng đem lại một vài cảnh giác đáng lưu tâm khi tìm hiểu Kinh Điển và áp dụng vào tu tập.
“Y kinh nhất tự, tam thế Phật oan
Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.”(Căn cứ từng chữ của kinh sẽ oan cho ba đời Phật
Nhưng xa kinh một chữ là cùng đi theo lời nói của Ma!).
Vậy thì phải tu tập cho bằng được sự tỉnh thức và coi chừng vị thầy truyền đạt pháp cho mình có thực sự tỉnh thức hay không. Bởi giữa “Mê và Ngộ”, chỉ cách nhau có một đường tơ!
NGUYỄN-CHÂU
No comments:
Post a Comment