Tôi
tên là Trần Văn Huỳnh, là thân phụ của Trần Huỳnh Duy Thức, người đã bị
kết án 16 năm tù giam và 5 năm quản chế về tội "Hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân" tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20/01/2010 và phiên tòa
phúc thẩm ngày 11/05/2010 tại Tp. HCM.
Gia
đình tôi nhận thấy rằng con tôi không có tội và là một người có lòng
yêu nước sâu sắc nên tôi đã nhiều lần gửi đơn các cấp thẩm quyền để kêu
oan và yêu cầu giám đốc thẩm cho con tôi.
Ngày
27/7 vừa qua, tôi đã tiếp tục gửi Thỉnh nguyện thư công dân đến tất cả
500 đại biểu Quốc hội toàn quốc để đề nghị Quốc hội và các Đại biểu Quốc
hội sử dụng quyền giám sát tối cao của mình để yêu cầu các cơ quan tư
pháp có trách nhiệm xem xét lại các Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm
đã kết án con tôi - Trần Huỳnh Duy Thức và anh Lê Thăng Long, anh Lê
Công Định và anh Nguyễn Tiến Trung, cũng như cần xem xét những vụ án
tương tự đã và đang diễn ra như trường hợp của luật sư Cù Huy Hà Vũ một
cách đúng với bản chất của pháp luật và bản chất của sự việc khách quan.
Tôi
xin gửi đến Quý Dân Làm Báo toàn bộ nội dung Thỉnh nguyện thư nêu trên
và các tài liệu đính kèm để biết và thông tin nhằm giúp gia đình tôi
giải oan cho con Trần Huỳnh Duy Thức của tôi.
Xin chân thành cám ơn và trân trọng kính chào.
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THỈNH NGUYỆN THƯ CÔNG DÂN
|
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
- Tất cả Đại biểu Quốc hội toàn quốc
|
|
|
|
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
|
Tôi
tên Trần Văn Huỳnh, 74 tuổi, nguyên là giáo viên Anh văn thuộc Sở Giáo
dục Tp.HCM, được chuyển về Sở Văn hóa Thông tin Tp.HCM công tác tại
Phòng Văn hóa Đối ngoại từ 1989 đến 2001 nghỉ hưu. Tôi là thân phụ của
anh Trần Huỳnh Duy Thức, sinh năm 1966 (dưới đây gọi là con tôi) - người
đã bị kết án 16 năm tù và 5 năm quản chế vì tội ''hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân'' theo điều 79 bộ luật hình sự (dưới đây gọi là
BLHS) vào năm 2010 bởi Toà án nhân dân Tp.HCM (bản án sơ thẩm số
19/2010/HSST tuyên ngày 20/1/2010, dưới đây gọi tắt là Bản án sơ thẩm)
và Tòa Phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân Tối cao tại Tp.HCM (bản án phúc
thẩm số 254/2010/HSPT tuyên ngày 11/5/2010, dưới đây gọi tắt là Bản án
phúc thẩm).
Thưa
các vị Đại biểu Quốc hội, tôi viết thư này đầu tiên xuất phát từ lòng
tin và tình yêu thương tôi dành cho con tôi. Nhưng sau đó nó được dẫn
dắt bởi động lực của một công dân chủ động sử dụng một cách có ý thức
tất cả các quyền làm chủ của người dân được pháp luật bảo vệ. Và cuối
cùng nó được kết thúc bằng một niềm tin và mong muốn sự tốt đẹp cho cả
đất nước, trong đó có Nhà nước, Đảng cầm quyền và có cả cho con tôi và
những người có hoàn cảnh tương tự.
Nó
cũng bắt đầu từ sự rụt rè, lo sợ vốn là tâm lý chung của đa số người
dân Việt Nam hiện nay khi đề cập đến các vấn đề chính trị của đất nước.
Nhưng nhờ động lực nói trên tôi dần hiểu ra rằng nó là một việc làm
không có gì sai trái hay vi phạm pháp luật cả, ngược lại nó còn được
pháp luật bảo hộ và khuyến khích vì đó chính là tinh thần cốt lõi của
Hiến pháp nước ta nhằm bảo vệ quyền làm chủ tối thượng của người dân,
nhờ đó mới có thể xây dựng được một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Chính vì vậy tôi đã đặt bút ký lên thỉnh nguyện thư này với một sự tự
tin tràn ngập vào tương lai tốt đẹp của đất nước, vào lý tưởng và mục
đích của Nhà nước ta và của Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền; và vào sự
chính đáng và hợp pháp của những việc làm của con tôi, cũng như của
những người đồng chí hướng, đều hướng đến những ước nguyện vì sự tốt đẹp
cho đất nước không khác gì lý tưởng và mục đích của Đảng và Nhà nước.
Tuy
nhiên, tôi cũng hiểu rằng những điều tốt đẹp như vậy sẽ không đến được
nếu như tôi - với tư cách là một công dân bình thường như hàng chục
triệu công dân khác - không dám mạnh dạn sử dụng đúng quyền làm chủ của
mình một cách chủ động và có ý thức để nói lên nguyện vọng của mình đến
cơ quan quyền lực tối cao đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân một
cách công khai mà pháp luật cho phép. Và những điều tốt đẹp đó cũng sẽ
không đến được nếu như tôi - với tư cách là một người cha, một cá nhân
trong một xã hội được khẳng định là tôn trọng trên hết những quyền căn
bản của con người theo chuẩn mực quốc tế được công ước Liên hiệp quốc về
quyền con người mà Việt Nam đã ký vào - không quyết liệt đòi hỏi các cơ
quan quyền lực nhà nước phải đảm bảo thực thi đúng trên thực tế những
quyền đó của người dân được pháp luật qui định nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình và của con mình mà tôi tin rằng đã bị kết án oan
sai.
Tôi
không phải là người bàng quan mà là người có nhiều suy nghĩ đến sự
nghiệp phát triển của đất nước. Nhưng đã từ rất lâu rồi những suy nghĩ
đó chỉ dừng lại ở chính tôi hoặc cùng lắm là trao đổi với một vài người
bạn thân. Cũng không biết tự bao giờ trong tôi hình thành một suy nghĩ
thụ động rằng những vấn đề tôi và bạn bè tôi nghĩ đến thì chắc hẳn các
vị đứng đầu đất nước cũng đã phải biết rõ rồi, mà không chịu nhìn nhận
thực tế rằng những vấn đề đó ngày một trầm trọng. Nguyên nhân có lẽ một
phần vì hiện tượng tăng trưởng kinh tế liên tục của đất nước, và một
phần vì chưa thấy những vấn đề đó tác hại đến chính mình và gia đình
mình. Nhưng giờ đây tôi đã thấy rất rõ rằng nếu mình không quan tâm đúng
mức đến những vấn đề chung của xã hội thì tác hại của nó sẽ không chỉ
xảy ra ở đâu đó mà còn đến với chính mình một cách nặng nề như tôi và
gia đình đang gặp phải. Và đồng thời, lợi ích chung của xã hội sẽ không
thể tốt đẹp nếu quyền lợi của mỗi cá nhân không được xã hội đó đảm bảo
một cách công bằng và trên hết. Mọi sự nhân danh lợi ích chung nhưng xâm
phạm đến quyền lợi của các cá nhân không những không hợp hiến mà còn
làm mất đi động lực lành mạnh của toàn xã hội được hình thành bởi động
cơ của mỗi cá nhân vì mưu cầu lợi ích chính đáng của mình mà tạo ra giá
trị chung cho toàn xã hội.
Vì
vậy tôi đã dằn vặt vì từng la trách con tôi gay gắt do đã bày tỏ sự phê
phán về những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nhưng giờ
đây tôi thấy quý trọng và yêu thương con tôi vô hạn, phải chịu cảnh tù
tội oan sai chỉ vì đã nặng lòng vì đất nước mà cảnh báo trước những nguy
cơ mà bây giờ đã trở thành hiện thực. Không chỉ cảnh báo, con tôi còn
dành trọn tâm huyết nghiên cứu, tìm ra và kiến nghị một con đường để
Đảng và Nhà nước phát triển đất nước tốt đẹp theo đúng lý tưởng mà xã
hội XHCN nước ta hướng đến - mà con tôi gọi là Con đường Việt Nam với
những chiến lược vận dụng quy luật khách quan để nhanh chóng đưa thực tế
của cuộc sống tiến dần đến danh nghĩa tốt đẹp mà lý tưởng trên mong
muốn. Chính thực tế trong việc thực thi pháp luật hiện nay đã và đang
làm cho khoảng cách giữa thực tế và danh nghĩa này ngày càng dãn rộng ra
và càng gây bất ổn cho đất nước.
Điều
này đặt ra một yêu cầu, mà tôi thấy cấp thiết hơn bao giờ hết, là Quốc
hội cần tập trung vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của mình
nhằm chấn chỉnh để đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
được Hiến pháp bảo vệ và các bộ luật của Quốc hội qui định phải được
tôn trọng và thực thi trong thực tế. Tôi đề nghị các vị Đại biểu Quốc
hội, với tư cách là người đại diện cho quyền và lợi ích của người dân
trong tổ chức của bộ máy Nhà nước, hãy thẳng thắn nhìn nhận một cách
thực tế sự nghiêm trọng của vấn đề này đang diễn ra trong hầu hết các
lĩnh vực của cuộc sống, và hãy sử dụng đầy đủ quyền lực tối cao của mình
để làm sao cho những giá trị tốt đẹp của luật pháp nước ta không chỉ
nằm trên danh nghĩa mà phải đi được vào thực tế của cuộc sống. Khi đó
thì Việt Nam mới có thể trở thành một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh được.
Tôi
tin vào sự cần thiết của đòi hỏi trên, còn con tôi, trong Con đường
Việt Nam, đã cho thấy đó là sự đòi hỏi tất yếu theo quy luật khách quan
mà nếu được đáp ứng tốt thì sẽ chắc chắn có sự phát triển ổn định, bền
vững cho đất nước. Tôi xin các vị Đại biểu Quốc hội dành chút thời gian
đọc phần giới thiệu Con đường Việt Nam (được đính kèm) mà con tôi viết
trước khi bị bắt để thấy được tâm huyết và trách nhiệm công dân của con
tôi là đáng trân trọng như thế nào. Nó thể hiện không chỉ thái độ khoa
học nghiêm túc của con tôi mà còn là ý thức công dân rất quan trọng và
cần thiết cho xã hội nhưng lại đang thiếu vắng trầm trọng ở nước ta. Thế
nhưng nó đã bị quy kết là ''một kế hoạch tổng thể nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân'' để kết tội con tôi ''hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân'' theo điều 79 bộ luật hình sự (BLHS).
Tôi
kính mong các vị Đại biểu Quốc hội dành thời gian đọc lá đơn yêu cầu
giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm (đính kèm) kết
án con tôi để thấy sự chủ quan và tùy tiện trong việc áp dụng luật như
thế nào trong các hoạt động tư pháp. Nó cho thấy không chỉ sự bất chấp
trước những sự thật khách quan và tính logic biện chứng của sự việc, mà
còn là sự không tôn trọng những bộ luật được Quốc hội cân nhắc ban hành
để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Điều đáng lo lắng
là nó không còn là vấn đề cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến đến mức hầu hết người dân tưởng rằng đó là bản chất của
hệ thống luật mà Quốc hội xây dựng. Đó là một thực tế mà tôi rất mong
các vị Đại biểu Quốc hội dũng cảm thừa nhận để có được những giải pháp
đúng đắn trước những vấn đề sống còn của đất nước.
Quốc
hội khóa XIII đang nhóm họp kỳ đầu tiên với chương trình nghị sự có xem
xét việc thay đổi bổ sung Hiến pháp theo đề xuất của Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Những gì được đề cập liên quan đến đề tài này trong thông báo của
hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng vừa rồi chưa cho thấy
được những mấu chốt thay đổi căn bản. Nhưng tôi hy vọng rằng Đảng sẽ
xuất phát từ nhu cầu thực tế của cuộc sống của người dân. Đồng thời tôi
cũng mong muốn Quốc hội xem xét việc này trên tinh thần làm sao để đảm
bảo được quyền và lợi ích của người dân hơn nữa trong thực tế, và phải
hết sức lưu ý để tránh được nguy cơ mà con tôi đã cảnh báo là sẽ có
những mong muốn thay đổi Hiến pháp để kéo những giá trị danh nghĩa xuống
gần với thực tế tồi tệ của sự quan liêu - tham nhũng - cơ hội vốn đang
khá phổ biến hiện nay trong cuộc sống nhằm hợp pháp hóa chúng để bảo vệ
cho cái xấu. Và nếu vì phải tập trung cho việc sửa đổi Hiến pháp mà xao
lãng trách nhiệm giám sát tối cao của Quốc hội để đảm bảo quyền lợi của
người dân trong thực tế vận dụng và thực thi pháp luật của các cơ quan
công quyền, thì thật là tai hại.
Thưa
các vị Đại biểu Quốc hội, qua sự việc sửa đổi Hiến pháp lần này, tôi
yêu cầu quý vị cũng cần làm rõ một vấn đề quan trọng. Đó chính là: liệu
một công dân bình thường có quyền mong muốn và đưa ra những kiến nghị
thay đổi những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp hay
không? Nếu không thì ai có quyền đó và nó được qui định ở đâu? Và những
điều luật nào nói rằng những mong muốn nhằm thay đổi những vấn đề thuộc
phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp là vi phạm pháp luật và phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự?
Tôi
đã nghiên cứu và thấy rõ rằng Hiến pháp cho phép và bảo vệ quyền của
bất kỳ công dân nào cũng được đưa ra các ý kiến của mình đối với các vấn
đề của đất nước, trong đó có những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh
của Hiến pháp. Hiến pháp không giao cho bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào
được độc quyền trong việc đưa ra ý kiến thay đổi hay điều chỉnh Hiến
pháp cả. Và không có một điều luật nào của BLHS qui định rằng những mong
muốn nhằm thay đổi các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp
là xâm phạm đến khách thể mà điều luật đó hướng đến bảo vệ cả.
Thế
nhưng con tôi và những người bạn trong cùng vụ án đã bị kết án chính vì
những mong muốn như vậy. Điều này đang ngày càng phổ biến đối với nhiều
vụ án bị cho là xâm phạm an ninh quốc gia đã và đang diễn ra. Và điều
này không chỉ xâm phạm đến những quyền lợi chính đáng và hợp pháp của
công dân, gây ra oan sai, mà còn đánh mất đi những động lực lành mạnh
thúc đẩy sự phát triển tốt đẹp cho xã hội, và còn làm cho những giá trị
tốt đẹp trên danh nghĩa của pháp luật ngày càng xa rời so với thực tế
của cuộc sống.
Thưa các vị Đại biểu Quốc hội,
Bằng
bức thỉnh nguyện thư công dân này, với sự ý thức về trách nhiệm của một
công dân đối với đất nước cũng như sự đòi hỏi chính đáng về quyền lợi
hợp pháp mà đất nước phải đảm bảo cho công dân, cùng với những lý lẽ
được trình bày như trên, tôi xin được chính thức đề nghị Quốc hội và
từng Đại biểu Quốc hội 2 vấn đề:
1)
Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội cần quan tâm, tập trung và có giải
pháp hữu hiệu trong việc sử dụng quyền giám sát tối cao của mình để đảm
bảo những giá trị tốt đẹp được Hiến pháp và Pháp luật qui định phải tạo
ra được những giá trị tốt đẹp trong thực tế của cuộc sống của người dân,
đặc biệt là phải đảm bảo để làm sao người dân có thể tự tin, chủ động
và ý thức sử dụng hết những quyền của mình mà Hiến pháp và Pháp luật bảo
vệ. Nhân đây tôi cũng xin biểu lộ sự đồng tình với ''Kiến nghị bảo vệ
và phát triển đất nước'' (ký ngày 10/7/2011) của một nhóm nhân sĩ trí
thức gửi đến Quốc hội và Bộ chính trị đề nghị: ''Tìm mọi cách thực hiện
đầy đủ mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp qui định,
nhằm giải phóng và phát huy ý chí và năng lực của nhân dân cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc...''
2)
Kính đề nghị Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội sử dụng quyền giám sát
tối cao của mình để yêu cầu các cơ quan tư pháp có trách nhiệm xem xét
lại các Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm đã kết án con tôi - Trần
Huỳnh Duy Thức và anh Lê Thăng Long, anh Lê Công Định và anh Nguyễn Tiến
Trung; cũng như cần xem xét những vụ án tương tự đã và đang diễn ra như
trường hợp của luật sư Cù Huy Hà Vũ một cách đúng với bản chất của pháp
luật và bản chất của sự việc khách quan. Tôi tin rằng điều này không
chỉ là những việc cụ thể cần giải quyết theo tinh thần đòi hỏi của kiến
nghị số 1 ở trên, mà còn là một việc chiến lược để tạo ra niềm tin và
những động lực lành mạnh mới cho xã hội, để tránh sự rạn nứt và chia rẽ.
Kính
mong Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội quan tâm đến thỉnh nguyện thư
công dân này của tôi với một tinh thần trách nhiệm cao nhất của một cơ
quan quyền lực cao nhất. Tôi xin cảm ơn và kính chào trân trọng.
Trần Văn Huỳnh
Địa chỉ liên lạc của tôi: 439F8 Phan Văn Trị, Phường 5, Quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh; điện thoại: 0903350117.
*
Phần giới thiệu Con đường Việt Nam:
Phần I – Giới thiệu
Làm
sao để Việt Nam phát triển bền vững, nhanh chóng thành một nước dân chủ
thịnh vượng? Làm sao lý tưởng “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”
trở thành thực tế? Làm sao để Việt Nam không bị biến thành một dạng nô
lệ kiểu mới trong thời đại toàn cầu hóa? Đây là những trăn trở từ 5 năm
trước dẫn đến sự ra đời của quyển sách Con đường Việt Nam này.
Việt Nam sẽ là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trở thành nước dân chủ và thịnh vượng trên thế giới là mục đích mà Con đường Việt Nam hướng đến.
Tinh
thần giải quyết vấn đề của Con đường Việt Nam là nhìn nhận một cách
khách quan và khoa học những yếu kém cốt tử cũng như những thế mạnh tiềm
năng của đất nước để phân tích và đưa ra những giải pháp dựa trên những
qui luật khách quan nhằm đạt được những mục tiêu theo nhân sinh quan xã
hội chủ nghĩa. Các giải pháp này sẽ đưa ra những chiến lược cho đất
nước nhằm không những tránh được nguy cơ nô lệ kiểu mới mà còn nhanh
chóng vượt lên thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ và thịnh vượng.
Con
đường Việt Nam kiến nghị một cách thức quản trị đất nước để xây dựng
một nền tảng chính trị cho Việt Nam trên những nguyên lý vận hành thuận
theo các qui luật khách quan. Do đó nền tảng chính trị này sẽ hỗ trợ
hiệu quả cho việc thực hiện các chiến lược được khuyến nghị nhằm đạt
được các mục tiêu về kinh tế, xã hội mà chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hướng tới một cách thực tế, nhanh chóng và ít tốn kém nguồn lực.
Vì
sao Việt Nam đã đổi mới và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục
trong hơn 23 năm qua nhưng vẫn còn là nước nghèo? Vì sao rất nhiều nước
đã có thể chế chính trị đa đảng hơn nữa thế kỷ rồi mà vẫn dậm chân ở mức
thu nhập trung bình trong hơn 20 năm qua, thậm chí nhiều nước vẫn còn
nghèo đói và đầy rẫy các vấn nạn tham nhũng cường quyền? Tại sao Trung
Quốc chỉ có một đảng cầm quyền lại có thể tạo ra sự phát triển nhanh
chóng liên tục hơn 30 năm qua, nhưng phải đến hơn 40 năm nữa (2050) mới
chỉ tới được giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Liệu nước này có
tránh được cái bẫy thu nhập trung bình nhiều nước đã bị mắc vào để tiếp
tục phát triển đạt được sự dân chủ và thịnh vượng, hay sẽ sụp đổ bất ngờ
như Liên Xô trong giai đoạn đầu phát triển đã có sự tăng trưởng nhanh
chóng và những thành tựu lớn hơn nhiều những gì Trung Quốc làm được 30
năm qua? Làm sao mà đảng Dân chủ tự do (LDP) tại Nhật và Hành động nhân
dân (PAP) tại Singapore là đảng duy nhất cầm quyền liên tục trong một
thời gian dài ở các nước này lại đưa đất nước họ phát triển bền vững,
nhanh chóng trở thành các nước thuộc thế giới thứ nhất trong thời gian
cầm quyền của những đảng đó? Vì sao mà nghèo đói, tham nhũng, cường
quyền có thể tồn tại phổ biến và hoành hành tại bất kỳ nước nào dù ở đó
có một hay nhiều đảng chính trị, bất chấp ý thức hệ chính trị khác nhau
dù ý thức hệ nào cũng đều hướng tới những mục đích tốt đẹp vì con người
và được khẳng định, bảo vệ bằng hiến pháp?
Một
nền dân chủ được hình thành chỉ bởi ý muốn chủ quan của con người hay
tồn tại những qui luật khách quan chi phối sự vận hành của xã hội loài
người trong quá trình vận động của nó để đạt đến một nền dân chủ? Và
liệu một xã hội dân chủ có tất yếu dẫn đến một xã hội thịnh vượng không?
Có hay không những qui luật khách quan chi phối sự vận hành của một thế
giới toàn cầu hóa tương tự như qui luật kinh tế thị trường đối với các
hoạt động kinh tế? Những đặc tính căn bản của toàn cầu hóa là gì, và có
những đặc tính nào từ bản sắc và văn hóa của dân tộc Việt Nam phát huy
được thế mạnh do phù hợp với đặc tính của toàn cầu hóa này hay không?
Liệu sự hình thành và phát triển của các hình thái xã hội loài người từ
lúc nguyên thủy đến phong kiến, tư bản,… là tất yếu theo một qui luật
khách quan nào đó bất chấp ý muốn chủ quan của con người, hay các hình
thái này chỉ là sản phẩm của nhân sinh quan? Mức độ tồn tại và ảnh hưởng
của các tính chất đối ngược nhau trong một xã hội (như lạc hậu và văn
minh, cường quyền và dân chủ, tham nhũng và công bằng) có tuân theo
những qui luật khách quan nào đó mà con người cần hiểu biết nếu muốn
thiết lập những cơ chế hiểu quả để giảm thiểu cái xấu và phát huuy cái
tốt không? Có những chỉ dấu nào của một xã hội mà có thể đo lường được
dễ dàng nhưng lại cho thấy và dự báo tốt mức độ ổn định/bất ổn, phát
triển bền vững/khủng hoảng sụp đổ của xã hội đó không?
Vì
sao chủ nghĩa Mác bị mất tính hấp dẫn trong khi lý tưởng mà chủ nghĩa
này hướng đến là rất cao đẹp, và Mác lại là người đầu tiên dự báo chính
xác được hình thái và bản chất của thế giới toàn cầu hóa ngày nay? Diễn
biến hòa bình là gì và vì sao Liên xô sụp đổ? Và đây là minh chứng cho
sự sai lầm của chủ nghĩa Mác hay đó là bài học quý giá để tránh sự giáo
điều, duy ý chí, áp đặt quan điểm chủ quan (của những người vận dụng chủ
nghĩa Mác) trở thành qui luật khách quan mà không hề đảm bảo tính logic
biện chứng của chính Mác đưa ra? Vì sao khá nhiều nước liên tục thay
đổi hiến pháp theo hướng tốt hơn nhưng vẫn bất ổn hoặc càng bất ổn,
không phát triển được nữa? Những động lực gì sẽ dẫn đến sự thay đổi và
phát triển xã hội một cách tốt đẹp và ngược lại? Làm sao để nghững động
lực này thuần túy kinh tế có thể thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển xã
hội một cách cân bằng và công bằng?
Những
câu hỏi trên là những vấn đề phải được phân tích sâu sắc vào bản chất
để giải đáp trong quá trình tìm lời giải của Con đường Việt Nam nhằm rút
ra được những nguyên lý, qui luật liên quan của chúng. Một phần của kết
quả nghiên cứu này cũng sẽ được trình bày trong Con đường Việt Nam.
Ngoài phần giới thiệu, Con đường Việt Nam còn 4 phần:
Phần
II – Những nhận thức tiền đề – sẽ trình bày những nguyên lý vận hành
của các qui luật khách quan trong các hoạt động kinh tế, chính trị, xã
hội của con người, bao gồm những qui luật đã được thừa nhận rộng rãi,
những qui luật được rút ra từ các học thuyết của Mác và cả những qui
luật mới được phát hiện trong quá trình nghiên cứu tìm lời giải cho Con
đường Việt Nam. Trong số những cái mới này có cái được thực chứng thông
qua số liệu thực ở nhiều nơi trên thế giới nhưng có nhiều cái được phát
biểu ở dạng tiền đề (không thể chứng minh được) để làm nền tảng lý
thuyết cho việc lý giải nhiều sự kiện phổ biến trên thế giới. Cũng giống
như Adam Smith đưa ra nguyên lý bàn tay vô hình tự điều tiết nhu cầu và
sản xuất trong một nền kinh tế tự do[1]thì ông không chứng minh được
nguyên lý này. Nhưng sự chấp nhận nó đã dẫn đến sự ra đời một lý thuyết
(kinh tế học còn gọi là mô hình) căn bản chỉ ra các nguyên lý của một
nền kinh tế theo nguyên tắc thị trường được vận hành thế nào, tác động
hệ quả ra sao dưới những quan điểm chuẩn tắc khác nhau một cách khách
quan theo qui luật. Lý thuyết của ông đã được thừa nhận rộng rãi và áp
dụng để xây dựng nên kinh tế thị trường ở nhiều nước khác nhau với quan
điểm xã hội khác nhau, chẳng hạn như nền kinh tế thị trường theo xu
hướng dân chủ xã hội rất thành công ở Bắc Âu, nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam gần đây. Các
tiền đề dù không chứng minh được nhưng đó là kết quả của một quá trình
quan sát kỹ các hiện tượng phổ biến trên thế giới, phân tích sâu vào bản
chất của chúng và suy luận rộng mối quan hệ của các bản chất này thành
những nguyên lý mang tính qui luật. Điều quan trọng là những nguyên lý
này phải lý giải được các hiện tượng tương tự một cách logic biện chứng.
Đây cũng là nguyên tắc nghiên cứu được Con đường Việt Nam áp dụng để
phát hiện các qui luật khách quan nhằm giải đáp những câu hỏi nêu trên
trong quá khứ và tìm lời giải cho những vấn đề của hiện tại và tương
lai.
Từ
những nguyên lý nền tảng như trên, phần II của Con Đường Việt Nam sẽ
phân tích cho thấy tăng trưởng kinh tế mà không đi kèm với gia tăng năng
suất lao động thì chỉ là sự vay mượn của quá khứ (như khai thác tài
nguyên) và tương lai (như vay vốn đầu tư, phá hủy môi trường). Đây là
nguyên nhân gốc của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay của Việt Nam và
được dự đoán sẽ dẫn đến một sự khủng hoảng trầm trọng cả về kinh tế, xã
hội lẫn chính trị trong những năm 2010, 2011, đặt đất nước vào rất nhiều
nguy cơ. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ ở Liên xô vì đã
giáo điều xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách phân phối công bằng tư
liệu sản xuất thông qua biện pháp công hữu hóa mà không chịu nhìn nhận
đánh giá thực chứng sực tác dụng gia tăng năng suất – một yếu tố then
chốt mà Mác đã xác định là tiên quyết để có thể “làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu” – của nó. Bất kỳ sự phát triển nào không dựa vào gia tăng
năng suất lao động đều không bền vững cho dù tài nguyên có lớn đến đâu
đi nữa. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc cần tập trung đạt được
mục đích then chốt bằng những cách thức thuận theo qui luật khách quan
và linh hoạt theo bối cảnh, chứ không phải là tập trung cứng nhắc vào
các giải pháp được cho là đặc trưng của ý thức hệ.
Phần
II cũng sẽ đưa ra nhận định và lý giải vì sao dân chủ vừa là sức mạnh
vừa là cơ chế tự điều chỉnh theo qui luật khách quan đối với các hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội trong một môi trường toàn cầu khác,
tương tự như nguyên lý bàn tay vô hình tự điều chỉnh một nền kinh tế thị
trường. Phần này cũng sẽ chứng minh rằng một nền kinh tế thị trường
nhưng thiếu một cơ chế dân chủ để quyết định các quan điểm kinh tế chuẩn
tắc thì chắc chắn sẽ dẫn đến một xã hội được gọi là chủ nghĩa tư bản
thân hữu thường thấy ở các nước bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình và
những nước nghèo.
Phần
II sẽ giới thiệu một pháp hiện được gọi tên là qui luật danh nghĩa và
thực tế, cho thấy sự cách biệt giữa những gì được qui định trên danh
nghĩa với những gì tồn tại trên thực tế của tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội của một đất nước sẽ quyết định sự ổn định và phát
triển bền vững hay là bất ổn, khủng hoảng và sụp đổ của đất nước đó.
Nguyên lý này được phát triển thành lý thuyết cho việc xây dựng các chỉ
số để đánh giá nhanh chóng các mức độ ổng định, bất ổn của một đất nước
nhằm cung cấp cho một công cụ hiệu quả trong việc hoạch định các chính
sách vĩ mô chuẩn tắc phù hợp với những quan điểm xã hội tiến bộ, công
bằng, vì số đông.
Phần
II có một chương dành riêng để nghiên cứu về vấn đề động lực của con
người và những qui luật khách quan liên quan đến nó tác động đến sự vận
hành của xã hội như thế nào. Từ đó đưa ra các cơ chế đơn giản nhưng hiệu
quả để giảm thiểu các tính xấu của xã hội mà thúc đẩy các cái tốt. Các
cơ chế càng phức tạp thì càng cồng kềnh và kém hiệu quả vì đòi hỏi sự
can thiệp nhiều của con người, nên càng là môi trường cho cái xấu phái
triển. Điều này lý giải vì sao nhiều chế độ chính trị dù thực sự mong
muốn những mục đích tốt đẹp cho xã hội nhưng lại gặt hái được kết quả
ngược lại. Chương này cũng sẽ chứng minh rằng do động lực con người nên
cuộc tấn công kinh tế trong môi trường toàn cầu hóa là tự nhiên như nước
đổ về trũng hay vi trùng tấn công bất kỳ cơ thể nào mất khả năng đề
kháng. Tương tự như vậy, cường quyền dẫn đến tham nhũng, nghèo đói lạc
hậu sẽ hình thành bất cứ nơi nào có môi trường thuận lợi cho nó bất chấp
ý thức hệ, không gian và thời gian. Từ đó sẽ cho thấy muốn thực hiện
được những lý tưởng tốt đẹp theo một quan điểm xã hội nào đó (tức nhân
sinh quan) thì phải tuân thủ các qui luật khách quan (túc vũ trụ quan).
Thứ không thể đi đến được lý tưởng bằng cách áp đặt các nhân sinh quan
đó thành chân lý tất yếu sẽ tới.
Phần
II sẽ dành 2 chương để nghiên cứu về dân chủ. Một chương tìm hiểu các
tính chất cơ bản của dân chủ và những qui luật khách quan tác động đến
sự vận động của nó. Một chương nghiên cứu tác động của dân chủ đến sự
vận động của xã hội và sự hình thành nên các tính chất và hình thái xã
hội. Từ đó cho thấy dân chủ chỉ có được một khi người dân ý thức được
quyền làm chủ của họ và tự tin sử dụng tối đa các quyền đó một cách có ý
thức và chủ động, mà đây chính là động lực lành mạnh và tự nhiên của
con người. Mức độ thiếu vắng động lực này sẽ quyết định mức độ tồn tại
và ảnh hưởng của cường quyền trong xã hội, vốn đối ngược với dân chủ và
tạo ra sự sợ hãi thay vì động lực để kiểm soát và khi tính dân chủ đủ
mạnh chi phối trong xã hội thì nó sẽ quyết định hình thức của xã hội
theo quan điểm của số đông – tính chất quyết định hình thức chứ không
phải ngược lại. Cho nên các hình thức như thể chế đa đảng hay lý tưởng
dân chủ của một đảng không đủ để đảm bảo có được nền dân chủ thực sự.
Hai chương này cũng sẽ cho thấy những con đường khác nhau để dẫn đến một
nền dân chủ bền vững và những con đường khác nhau để dẫn đến một nền
dân chủ bền vững và những mối liên hệ giữa dân chủ và thịnh vượng; đồng
thời cũng cho thấy hoàn toàn có thể xây dựng những xã hội dân chủ và
thịnh vượng theo những quan điểm và xã hội khác nhau như Dân chủ xã hội
phổ biến ở Bắc Âu hay xã hội chủ nghĩa, v.v…
Phần
II cũng sẽ dành một chương giới thiệu về một mô hình quản trị chiến
lược cho Con đường Việt Nam đưa ra dựa trên việc tận dụng các quy luật
khác quan làm sức mạnh. Nhờ vậy chỉ cần tập trung vào một số ít các mục
tiêu then chốt (hay đích nhắm chiến lược) để đạt được rất nhiều những
mục tiêu khác nhờ sự lan tỏa tất yếu theo quy luật. Điều này cho phép
tiêu tốn ít nguồn lực nhưng hiệu quả. Chương này cũng sẽ lý giải vì sao
những cách thức thuận theo qui luật như vậy sẽ đảm bảo hợp lòng dân.
Phần
II còn có một chương bàn về Hiến Pháp và chủ nghĩa Mác. Quan điểm của
Con đường Việt Nam là không nên cứng nhắc, giáo điều vào những giải pháp
Mác đưa ra vì nó chỉ có thể đúng cho bối cảnh lúc sinh thời của Mác.
Việc xem giải pháp này là đặc trưng của một hình thái xã hội XHCN sẽ dẫn
đến sai lầm và bế tắc. Thay vào đó, cần nhìn nhận những học thuyết của
Mác ở 3 giá trị cốt lõi: (i) phép biện chứng để lý giải thực tế khách
quan nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp với qui luật khách quan theo
từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau; (ii) các yếu tố then chốt mà Mác đã
nhìn ra được và chỉ ra rằng phải tập trung đạt được chúng nhằm tạo ra sự
thay đổi lớn tất yếu theo qui luật về bản chất cũng như hình thái xã
hội (chẳng hạn như sự gia tăng năng suất lao động sẽ dẫn đến việc tạo ra
lực lượng vật chất đủ mạnh để thay đổi các quan hệ xã hội…); (iii) lý
tưởng “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” làm định hướng cho các
quyết định chuẩn tắc thúc đẩy sự phát triển xã hội ngày càng cân bằng,
công bằng và tiến gần đến lý tưởng đó. Về Hiến pháp, Con đường Việt Nam
cho rằng cần nhìn nhận đúng để thực hiện nhiều điều Hiến pháp hiện hành
của Việt Nam qui định thì sẽ tạo ra rất nhiều thay đổi lớn có giá trị.
Chẳng hạn như điều 15 Hiến pháp nói rằng thành phần kinh tế nhà nước là
nền tảng của nền kinh tế quốc gia. Nhưng trên thực tế thành phần kinh tế
này không hề làm bệ đỡ hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác mà lại
trở thành những đối thủ mạnh chén ép các thành phần này bằng những quan
điểm như “giữ vai trò chủ đạo”. Ở chương này cũng sẽ lý giải và chứng
minh về sự bất ổn vẫn tiếp diễn ở nhiều nước sau mỗi lần thay đổi hiến
pháp theo hướng tốt hơn nhưng lại không có những biện pháp để thay đổi
thực tế cuộc sống tốt lên được theo hướng đó. Nguyên nhân là khi đó sự
cách biệt giữa danh nghĩa và thực tế càng lớn hơn nên sẽ càng bất ốn hơn
theo qui luật danh nghĩa và thực tế. Đồng thời nó cũng cho thấy rằng
nếu giữ nguyên cách nhìn và cách thực thi điều 4 Hiến pháp như hiện nay
thì không những không thể đưa đất nước đạt được lý tưởng tốt đẹp của
đảng Cộng sản Việt Nam như chủ nghĩa Mác mà còn sẽ không thể tránh được
một sự sụp đổ như Liên xô trước đây.
Tìm ra sức mạnh và cơ hội từ những gốc nhìn mới là mục tiêu của phần II – những nhận thức tiền đề – này .
Phần
III – Giải pháp và chiến lược – sẽ kiến nghị chi tiết một mô hình quản
lý nhà nước của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phương
thức lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tạo ra một cách thức quản
trị đất nước thuận theo các qui luật khách quan nên sẽ hiệu quả và hợp
lòng dân. Phần này sẽ lý giải và chứng minh cách thức như vậy sẽ tất yếu
tạo ra một nền tảng chính trị dân chủ. Con đường Việt Nam cũng sẽ đề
nghị sự thay đổi cho những người không phải đảng viện đảng Cộng sản Việt
Nam tham gia điều hành, lãnh đạo đất nước, giống như cách mà Hồ Chủ
tịch đã làm để tập hợp sức mạnh và đoàn kết dân tộc mà không phải phân
biệt thành phần, đảng phải hay không đảng phải vào Chính phủ non trẻ của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 để vượt qua được nhiều nguy cơ
và thách thức lớn của đất nước đó. Phần này cũng sẽ kiến nghị một chiến
lược phát triển được theo mô hình quản trị chiến lược thông qua việc xác
định 2 đích nhắm chiến lược đơn giản nhưng hiệu quả:
Phần
III sẽ trình bày chi tiết mô hình chiến lược này. Tăng trường năng suất
chắc chắn sẽ kéo theo tăng trưởng kinh tế một cách nhanh chóng và bền
vững, nhưng tăng trưởng kinh tế thì không chắc dẫn đến tăng trưởng năng
suất. Mặt trái lớn nhất của các nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
là các doanh nghiệp khổng lồ đi trước tìm mọi cách để cản trở sự tham
gia thị trường của những doanh nghiệp mới. Phần này sẽ đề nghị một cách
thức dùng các doanh nghiệp nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp khởi lập.
Khoa học quản trị và nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy việc
hướng các hành động trực tiếp đến các mục tiêu tối thượng đều dẫn đến
thất bại. Còn tồi tệ hơn nữa nếu chúng hướng thẳng đến lý tưởng.
Phần
IV – Các sách lược tập trung – sẽ đề cập đến 5 lĩnh vực: kinh tế, giáo
dục, cải cách hành chính và tư pháp (gọi tắt là pháp luật), biển Đông và
Tây Nguyên. Đây cũng là 5 vấn đề mà chắc chắn Việt Nam sẽ phải đối mặt
căng thẳng một khi khủng hoảng nổ ra trầm trọng trong 2010 – 20111.
Chúng được lựa chọn tập trung vì vừa mang tính cấp bách để đối phố với
khủng hoảng, vừa mang tính lâu dài để phát triển đất nước bền vững. Dựa
trên những nhận thức tiền đề ở phần II và giải pháp chiến lược ở phần
III, phần IV này cũng sẽ đưa ra các sách lược cụ thể cho 5 lĩnh vực/vấn
đề nêu trên nhằm không những để đất nước tránh được thảm họa mà còn
nhanh chóng phát triển bền vững sau đó. Sách lược kinh tế sẽ giới thiệu
một mô hình phát triển kinh tế dựa trên một chiến lược gọi là điểm cân
bằng: tận dụng các lợi thế và sức mạnh từ bản sắc văn hóa, lịch sử của
dân tộc và địa chính trị của đất nước để biến Việt Nam thành một trung
tâm giao lưu kinh tế, giao thoa văn hóa giữa các xu thế đông và tây. Con
đường Việt Nam sẽ lý giải vì sao những sự giao lưu và giao thoa như vậy
sẽ tự động hướng tới và hỗ trợ tạo ra sự cân bằng giữa các xu thế đó,
nhờ vậy mà Việt Nam hưởng lợi, đồng thời góp phần tạo ra sự ổn định, hòa
bình cho thế giới. Bốn sách lược còn lại cũng được xây dựng trên quan
điểm chung này.
Phần
V – Tóm tắt các kiến nghị – sẽ hệ thống hóa lại tất cả những đề nghị đã
nêu trong các phần II, III, IV, đồng thời cũng đưa ra lưu ý một số hành
động cần thực hiện ngay để hãm phanh tình trạng trầm trọng đang càng
xấu đi cũng như một số việc cần tránh vì có thể sẽ làm trầm trọng hơn
tình hình trong lúc xảy ra khủng hoảng.
reply share
No comments:
Post a Comment