TRÒ CHUYỆN VỚI CỰU CHUẨN TƯỚNG VŨ VĂN GIAI:
NĂM 1972: CHUYỂN QUÂN, KHÔNG RÚT LUI
Trong việc tìm kiếm tài
liệu để viết lại giai đoạn 1954-1975, tôi được bác sĩ Phạm Hữu Trác
(Montreal) và cựu đại tá Pháo binh Lê Văn Trang (California) giới thiệu
với cựu chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 3 Bộ binh
(SĐ3BB) Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong chuyến đến California
vào cuối tháng 7-2011, tôi gặp chuẩn tướng Giai tại nhà đại tá Trang.
Cuộc trò chuyện bắt đầu từ 01 giờ đến 05 giờ chiều Thứ Hai 25-7-2011.
Sau đây là nội dung cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, được trình bày với
sự đồng ý của chuẩn tướng Giai. Tôi không dám gọi đây là một cuộc phỏng
vấn, mà chỉ là một cuộc trò chuyện với một nhân vật đã tham dự vào những
biến cố quân sự ở Quân khu I vào đầu thập niên 70 vừa qua. Để cuộc trò
chuyện được thoải mái, thân mật, tôi đề nghị gọi chuẩn tướng Giai bằng
anh và được ông đồng ý.
1) Trước hết, thưa anh Giai, xin anh cho biết đôi chút về thân thế của anh?
- Thưa anh, tôi có thể
nói đơn giản thế nầy: Tôi sinh năm 1934 tại làng Duy Tắc, huyện Giao
Thủy, tỉnh Nam Định. Cha tôi mất sớm, mẹ tôi làm ruộng, tần tảo nuôi
con. Cha mẹ tôi có 4 người con, 1 gái và 3 trai. Tôi là con út trong gia
đình.
2) Thưa anh, hoàn cảnh nào đưa anh vào binh nghiệp, và xin anh trình bày các cấp bậc anh đã trải qua trước khi lên tướng.
- Năm 1953, tôi đang
theo học lớp Đệ nhị [tức lớp 11 ngày nay] trường Văn Hóa ở Hà Nội, thì
tôi nộp đơn thi vào Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Lý do thứ
nhất vì mẹ tôi không còn khả năng tiếp tế cho tôi. Làng tôi bị Việt Minh
cộng sản kiểm soát. Gia đình tôi bị coi là tư sản, theo văn hóa nô
dịch, nên Việt Minh bắt hai người anh của tôi đi tù, và tịch thu hết
ruộng đất, cho nên ngay từ thời thiếu niên, tôi không ưa gì cộng sản. Lý
do thứ hai là trước sau gì tôi cũng sẽ được gọi động viên dù tôi thi
đậu bằng Tú tài I vào cuối năm học ấy. Tôi nghĩ rằng sớm muộn gì tôi
cũng sẽ theo đường binh nghiệp, nên tôi tình nguyện đi sớm, trước hết là
để tiến thân, sau là để phục vụ quốc gia chống cộng sản.
Tôi ra Trường Võ Bị
Liên Quân Đà Lạt tháng 6-1954, cấp bậc thiếu uý hiện dịch. Tôi theo học
nhảy dù, và thuyên chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (ND) ở cạnh Hồ Tây, Hà
Nội, giữ chức trung đội trưởng.
Tháng 7-1954, đất nước
bị chia hai, quân đội Quốc Gia rút về Nam Việt Nam. Sau hai năm thiếu
uý, tôi được thăng cấp trung uý năm 1956, giữ chức đại đội trưởng Đại
đội 3 Tiểu đoàn 5 ND, cùng với trung uý Ngô Quang Trưởng (sau nầy là
trung tướng), coi Đại đội 1 TĐ5ND.
Năm 1961, sau trận đánh
quận Phú Đức, gần Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, tôi được đặc cách thăng đại
uý, rồi lên thiếu tá năm 1964 khi tôi đang làm trưởng phòng 2 Sư đoàn 1
Bộ Binh (SĐ1BB) ở Huế. Năm 1966, tôi thăng trung tá lúc đang giữ chức
trung đoàn trưỏng Trung Đoàn 2 SĐ1BB, trấn giữ vùng giới tuyến ở Đông
Hà, Quảng Trị. Sau trận Mậu Thân năm 1968, tôi lên đại tá và được đưa
giữ chức chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Tiền phương SĐ1BB tại Ái Tử, Đông Hà,
Quảng Trị. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 1971 ở Hạ Lào, tôi lên chuẩn
tướng. Đó là sơ lược sự thăng tiến trong cuộc đời binh nghiệp của tôi.
3)
Thưa anh, khi VNCH mở cuộc hành quân Hạ Lào (Lam Sơn 719), anh là Phó
tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (SĐ1BB), là sư đoàn chính trong cuộc tấn công
qua Lào. Xin anh vui lòng cho biết mục đích chính của cuộc hành quân
nầy?
- Mục đích chính của
cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 là: 1) Phá hủy con đường xâm nhập và
tiếp vận của Việt Cộng từ Bắc vào Nam thông qua con đường Trường Sơn
Tây trên đất Lào. 2) Tiêu diệt hết những lực lượng cộng sản trú ẩn trong
vùng. Đây là một cuộc hành quân quan trọng có tính cách chiến lược,
quyết định chiến tranh Việt Nam.
4) Thế thì diễn tiến cuộc hành quân như thế nào thưa anh?
-
Theo kế hoạch, cuộc hành quân chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Ba
cánh quân Biệt động quân ở phía bắc, Sư đoàn Nhảy dù và Lữ đoàn 1 Thiết
giáp cánh giữa dọc theo đường số 9 và sông Tchepone, SĐ1BB cánh nam sông
Tchepone, tiến chiếm các mục tiêu đến tuyến 1 Bản Đông. Giai đoạn 2:
Các cánh quân tiến chiếm các mục tiêu trên tuyến 2 tỉnh Tchepone. Giai
đoạn3: SĐ Nhảy Dù sẽ đổi hướng quét lên phía bắc tận biên giới miền Bắc
Việt Nam.
Trong giai đoạn 1 sau
khi các cánh quân tiến chiếm được các mục tiêu và lập các căn cứ hỏa lực
dọc tuyến 1 thì bắt đầu có giao tranh. Biệt động quân bị tấn công mạnh,
Lữ đoàn Dù ở căn cứ 31 bị thiết giáp Việt cộng tràn ngập. Đại tá Thọ,
lữ đoàn trưởng, bạn tôi, bị bắt. Vì vậy mà giai đoạn 2 không tiến hành
được.
Lệnh hành quân thay
đổi. SĐ1BB cánh Nam thay thế SĐND tiến chiếm Tchepone. Sau khi quét xong
Tchepone, SĐ1BB rút lên cao địa phía nam sông Tchepone thay vì bọc
thẳng về Khe Sanh theo như kế hoạch đã định. Quyết định nầy làm mất thêm
thời gian, nên Việt cộng có thời giờ điều động tấn công và bao vây quân
ta, làm chúng ta phải vất vả mới bốc được các đơn vị ra khỏi vùng hành
quân với nhiều thương vong! Thú thật, trông thấy cảnh binh sĩ phải bám
vào cần trực thăng, tôi không cầm được nước mắt.
5)
Theo anh, với tư cách là Phó tư lệnh SĐ1BB, lúc đó anh còn là đại tá,
anh nhận xét cuộc hành quân nầy thành công hay thất bại như thế nào? Vì
lý do gì thành công hay thất bại?
-
Theo tôi, cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971 không đạt được mục tiêu
đã định và có một số ảnh hưởng tinh thần không tốt cho Quân đội VNCH sau
đó. Tuy nhiên, quân đội VNCH cũng đã gây cho địch nhiều thiệt hại to
lớn về tiếp vận và nhân lực.
6)
Lúc đó, người Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh,
rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam, người Mỹ có tham gia hành quân nầy
không? Và người Mỹ có giúp đỡ cho quân đội VNCH không?
-
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, quân đội Mỹ đã yểm trợ tối đa bằng
Không quân, kể cả B52, trực thăng đổ quân và tiếp tế tải thương. Tuy
nhiên, cố vấn Mỹ không đi theo chúng ta sang Lào. Thông thường trong các
cuộc hành quân trước đây, có cố vấn Mỹ đi theo, chúng ta nhờ cố vấn Mỹ
gọi yểm trợ không kích. Trong cuộc hành quân Hạ Lào, do vấn đề ngoại
giao, Mỹ không theo chúng ta qua Hạ Lào. Không có cố vấn Mỹ, việc gọi
Không quân yểm trợ gặp một số trở ngại về chuyên môn kỹ thuật, nên việc
yểm trợ không hữu hiệu, nhưng thật sự là không thể phủ nhận là Không
quân Mỹ đã yểm trợ chúng ta trong cuộc hành quân nầy.
7)
Trong trường hợp nào, anh trở thành tư lệnh SĐ3BB? Đây là một sư đoàn
tân lập (thành lập tháng 10-1971), lấy quân từ đâu, huấn luyện như thế
nào và bộ chỉ huy ở đâu?
-
Có một điểm cần nêu rõ: Do nhu cầu chiến trường, bộ Tổng tham mưu Quân
đội VNCH quyết định thành lập một sư đoàn mới để trấn giữ vùng giới
tuyến phía Bắc vì SĐ1BB không đủ lực lượng. Tuy nhiên, có thể vì dự tính
rút quân theo kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, phía Mỹ không chịu yểm
trợ cho việc thành lập nầy. Mỹ đề nghị đưa một sư đoàn cơ hữu từ Nam
(VNCH) ra Bắc (VNCH), hoặc điều động Biệt Động Quân ra giữ vùng giới
tuyến.
Sau khi bàn bạc, Bộ TTM
quyết định lấy Trung đoàn 2 SĐ1BB làm nòng cốt và tăng cường thêm lao
công đào binh từ miền Nam ra. Ở đây tôi xin mở ngoặc: Thông thường, một
sư đoàn có 3 trung đoàn. Riêng Sư đoàn 1BB có 4 trung đoàn. Vì vậy, cắt
bớt Trung đoàn 2 SĐ1BB, thì SĐ1BB vẫn còn 3 trung đoàn. Đặc biệt nữa,
Trung đoàn 2SĐ1BB lại có 5 tiểu đoàn, mà mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội, nên
Trung đoàn 2SĐ1BB có 20 đại đội. Nếu theo cách tức cũ, mỗi sư đoàn có 3
trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội,
thì sư đoàn tân lập cần có số đại đội là: 3 X 3 X 3 = 27 đại đội. Trong
khi đó Trung đoàn 2 SĐ1BB có 20 đại đội, nên chỉ cần bổ sung thêm 7 đại
đội để thành lập sư đoàn mới. Sư đoàn mới nầy là Sư đoàn 3 BB. Về tiếp
liệu, SĐ3BB lấy tiếp liệu sẵn có chứ Mỹ không cung cấp đồ mới nữa.
Sư đoàn 3BB không được
tập trung huấn luyện mà chỉ tiếp nhận những đơn vị sẵn có và bổ sung
thêm quân số từ miền Nam ra. Bộ tư lệnh SĐ3BB và hậu cứ chính ở căn cứ
Ái Tử, Quảng Trị do Mỹ để lại. Đó là thực trạng SĐ3BB trước khi đụng
trận vào năm 1972.
8 ) Thưa anh, trong cuộc tấn công vào Mùa hè đỏ lửa, CSBV mở chiến dịch Trị Thiên ở Quân khu I. Sư đoàn 3 BB đóng ở tuyến đầu tại QKI. Lúc đó, tình hình địch như thế nào và tình hình quân đội VNCH như thế nào?
-
Trong cuộc tấn công Mùa hè đỏ lửa năm 1972, lực lượng địch gồm có: hai
sư đoàn Bộ binh 304 và 308, 5 trung đoàn BB biệt lập số 27, 31, 126, 220
và 246, 01 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp 203, 204 và 1
trung đoàn Xe lội nước PT 76. Lực lượng quân đội chúng ta gồm có: Giai
đoạn đầu SĐ 3BB, Lữ đoàn 147 TQLC, Thiết đoàn 18, Lực lượng diện địa
tỉnh Quảng Trị gồm địa phương quân và nghĩa quân. Giai đoạn sau tăng
phái thêm Lữ đoàn 258 TQLC, 2 Liên đoàn Biệt động quân, Lữ đoàn 1 Thiết
giáp.
Trong tương quan lực
lượng giữa hai bên thì rõ ràng lực lượng Việt cộng vượt trội hơn nhiều:
Thiết giáp Việt cộng trang bị T54 tối tân của Liên Xô, Bộ binh Việt cộng
gần 4 sư đoàn và Việt cộng chủ động tấn công trong khi chúng ta quân số
ít hơn, lại bị thụ động chống trả.
9) Xin anh vui lòng trình bày lại diễn tiến của trận đánh nầy.
-
Trận đánh nầy bắt đầu ngày 29-3-1972, thật bất ngờ với chúng tôi. Phía
VNCH, chúng tôi không được tin tức tình báo việc chuyển quân của địch.
Lúc đó hai trung đoàn của SĐ3BB chúng tôi đang đổi quân. Trung đoàn 2 và
Trung đoàn 26 hoán chuyển vị trí. Trong lúc chuyển quân thì chúng ta
phát giác Việt cộng cũng đang chuyển quân. Thế là chiến trận xảy ra. Kể
từ đó, Cộng quân tấn công liên tục trong vòng một tháng.
Về phía cố vấn Mỹ, ngay
từ đầu, do những tin tức tình báo về phía Mỹ, đại tá cố vấn Metcalf đã
cho tôi hay là: Đây không phải là cuộc tấn công bình thường như trước đã
xảy ra, mà là cuộc tổng tấn công tổng lực toàn diện, cho nên
không thể phòng thủ bằng cụm cứ điểm được. Việt cộng đưa quân vượt sông
Bến Hải rất đông, sẽ tấn công và tràn ngập các cứ điểm, và sau cùng sẽ
tấn công vào căn cứ cuối cùng.
Do đó, đại tá Metcalf đề nghị nên phòng thủ di động mới chống cự được.
Tôi cho rằng đây là kế hoạch tốt nhất để áp dụng và tôi đã tự mình soạn
thảo và vạch ra kế hoạch di chuyển từ tuyến 1 đến tuyến 3. (Tuyến 1 là
khúc sông Cam Lộ hay Đồng Hà. Tuyến 2 là khúc sông Thạch Hãn. Tuyến 3 là
sông Mỹ Chánh.)
10)
Lúc đó, do áp lực nặng nề của Cộng quân, SĐ3BB phải rút lui. Thưa anh
có thể cho biết cuộc rút quân đó do lệnh của ai hay do chính bộ Tư lệnh
Sư đoàn quyết định? Lúc đó, bộ Tư lệnh Quân đoàn I có ý kiến gì không?
- Tôi xin nói ngay là chúng tôi không rút lui mà chúng tôi chuyển quân chiến thuật.
Trước khi ra lệnh di chuyển về tuyến 3 (sông Mỹ Chánh), tôi đã trình
lên Bộ tư lệnh Quân đoàn I, đồng thời khi biết quyết định nầy, đại tá
Metcalf điện báo cho thượng cấp của ông là đại tướng Creighton Abrams,
thì tướng Abrams trả lời cho Metcalf như sau: “Tướng Giai có toàn quyền hành động”.
Phía Quân đoàn I, khi tôi trình kế hoạch chuyển quân, tư lệnh Quân đoàn
I là trung tướng Hoàng Xuân Lãm không trả lời, nhưng vì tình hình khẩn
cấp tôi đã ra lệnh chuyển quân, thì vào phút chót trung tướng Lãm ra
lệnh tử thủ Quảng Trị, nghĩa là không chấp thuận kế hoạch chuyển quân
của tôi, nhưng đã trễ vì lệnh chuyển quân đã bắt đầu thi hành rồi nên
không thể lấy lại lệnh. Vì vậy tôi đã bị cấp trên quy tội là “Bất tuân
thượng lệnh.”.
Tôi nhấn mạnh là chúng
tôi không rút lui. Chúng tôi chuyển quân theo chiến thuật cần thiết để
đối phó với tình hình lúc đó. Rút lui có nghĩa là mở cuộc hành quân, hay
tấn công một nơi nào đó, rồi sau đó rút lui. Đàng nầy, không phải chúng
tôi rút lui, tức bỏ đi, mà chúng tôi chỉ chuyển quân, bảo toàn lực
lượng và chờ đợi cơ hội phản công. SĐ3BB và các đơn vị tăng phái di
chuyển theo kế hoạch đã vạch ra.
Cuộc chuyển quân diễn
ra theo đúng kế hoạch. Chỉ có một cuộc chạm súng nhỏ và chúng tôi đã hạ
được 2 xe tăng PT76 của Việt cộng. Thương vong về phía chúng ta trong
cuộc rút quân rất thấp, vì tất cả đi về phía đông quốc lộ 1, nhưng bị
thổi phồng lên hàng ngàn người. Sự chết chóc trên quốc lộ 1 từ Quảng Trị
về Mỹ Chánh xảy ra không phải riêng trong cuộc chuyển quân của chúng
tôi mà trước đó đã xảy ra trong suốt tháng 4-1972 khi dân chúng di
chuyển từ Quảng Trị về Huế, lúc Việt cộng bắt đầu tấn công từ ngày
29-3-1972.
Cuộc chuyển quân của
SĐ3BB về tuyến phòng thủ 3 (sông Mỹ Chánh) coi như thành công chứ không
thất bại, nhưng tôi không có thời gian để chấn chỉnh đội ngũ SĐ3BB vì
sau ngày 30-4-1972, tôi được gọi về bộ Tổng tham mưu phúc trình sự việc.
Đại tá Ngô Văn Chung, tư lệnh phó SĐ3BB tạm thay tôi cho đến khi thiếu
tướng Nguyễn Duy Hinh được cử làm tân tư lệnh SĐ3BB.
11) Hậu quả đầu tiên của cuộc chuyển quân nầy là anh bị kỷ luật. Xin anh cho biết rõ những biện pháp kỷ luật đối với anh.
-
Về bộ Tổng tham mưu, tôi trình diện ở Phòng thanh tra và bị giữ tại Đại
đội Tổng hành dinh một tháng. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh truy
tố tôi. Tôi bị chuyển qua Khám Chí Hòa và bị đưa ra Tòa. Tòa án Quân sự
kết án tôi năm năm tù vị tội “bất tuân thượng lệnh”. Tôi bị giam giữ ở
Khám Chí Hòa. Đang thọ án, biến cố 30-4-1975 xảy ra. Khám Chí Hòa tự
động mở cửa cho mọi người ra ngoài. Tôi đi về nhà.
12) Đời sống trong khám Chí Hòa như thế nào, thưa anh?
-
Người ta cho tôi sống riêng trong một căn nhà nhỏ như cái thư viện. Sau
đó có thêm vài người nữa như chuẩn tướng Trần Quốc Lịch, ông Nguyễn Tấn
Đời. Đời sống thoải mái. Cơm nước do gia đình mang vào. Trong thời gian
nầy, vị tướng tư lệnh Mỹ ở Thái Lan vào thăm tôi trong Chí Hòa, đề nghị
đưa tôi ra cầm quân trở lại, nhưng tôi thấy khó làm việc trong hoàn
cảnh lúc đó nên tôi yêu cầu để tôi có thời giờ suy nghĩ.
13) Là
một quân nhân, anh im lặng chấp nhận kỷ luật, nhưng trong tận cùng suy
nghĩ của anh, anh có thấy mình bị oan ức không? Xin anh thành thật kể
ra.
-
Tôi nhận trách nhiệm những gì tôi làm. Tôi im lặng chịu đựng tất cả hậu
quả những gì tôi đã làm mà tôi cho là đúng với tình hình. Tôi ra lệnh
chuyển quân để lập tuyến phòng thủ mới như đã dự định nhằm tạo lại thế
phản công thay vì bị động, nhằm tránh thương vong trong sự co cụm, để
Việt cộng vào và chúng ta dùng phi pháo tiêu diệt, rồi sẽ tấn công trở
lại. Đúng như những gì sau đó xảy ra, cổ thành Quảng Trị là mồ chôn hàng
ngàn Việt cộng, sau khi SĐ3BB ra khỏi cổ thành.
Tôi nghĩ rằng tổng
thống Thiệu đã không hiểu được tình hình thực tế tại chiến trường mà chỉ
khăng khăng giữ từng tấc đất và rồi để mất tất cả. Đó là kết quả của
những vị tướng làm việc sau bàn giấy.
14) Sau ngày 30-4-1975, vì sao anh bị kẹt lại ở Việt Nam? Anh bị Cộng sản bắt giam ở đâu, trong bao lâu?
-
Sau ngày 30-4-1975, mới ra khỏi tù, tôi về ở nhà, không đi đâu nữa. Tôi
sống với gia đình cho đến khi đi “tập trung cải tạo” tức bị đi tù cộng
sản ngày 16-5-1975.
Tôi bị giam cùng với
các tướng lãnh khác ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung một năm. Trong
năm nầy, chúng tôi phải học 10 bài. Tôi nhớ bài thứ nhất là “Đế quốc Mỹ
xâm lược nước ta, là kẻ thù nhân dân ta”. Bài thứ hai là “Ngụy quân ngụy
quyền, tay sai của đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta”. Tôi quên đề
tài mấy bài giữa. Bài số 10, tức bài cuối cùng là “Lao động là vinh
quang”.
Sau bài số 10 nầy, Việt
cộng bảo rằng ở đây không có đất để chúng tôi thực tập lao động, nên
chuyển bọn tù chúng tôi ra Bắc, ở trại 5 Hoàng Liên Sơn. Ở tại đây cho
đến năm 1978, Trung cộng đe dọa vùng biên giới, chúng tôi bị di chuyển
về Hà Tây biệt giam. Năm 1983, tôi chuyển trại một lần nữa, đến trại tù
Nam Hà. Cuối năm 1987, tôi ra tù và được qua Mỹ theo chương trình H.O.
16 năm 1993. Trước khi ra đi, Việt cộng bắt tôi phải ký giấy cam kết
không được hoạt động chống đối chúng nó. Có lẽ không phải riêng tôi, mà
ai ra đi chúng nó cũng đều bắt buộc như vậy.
15) Là một sĩ quan cấp tướng, khi hỏi cung anh, CS chú trọng đến những vấn đề nào nhất?
-
Khi hỏi cung tôi, lúc đầu Việt cộng hỏi nhiều về âm mưu của Mỹ sau ngày
30-4-1975. Mục đích của Việt cộng là tìm bắt những ai còn hoạt động
chống cộng và tìm những ai là người do Mỹ cài lại Việt Nam. Việt cộng
cũng cho tôi là người của Mỹ, có lẽ là vì lúc tôi bị giữ ở Khám Chí Hòa,
có vị tướng Tư lệnh Lực lượng Mỹ ở Thái Lan vào thăm tôi. Có thể chúng
được ai đó báo cho biết việc nầy, nên chúng nó nghi ngờ tôi. Chúng cũng
hỏi tôi lúc ở Quảng Trị có được “cách mạng móc nối” không? Tôi trả lời
là không. Như thế là có thể Việt cộng đã sai người kiếm cách móc nối
tôi, nhưng chúng không móc được. Ngoài ra, Việt cộng bắt tôi viết tự
thuật lại toàn bộ đời tôi.
16) Cuối cùng, anh ra nước ngoài năm nào? Đời sống của anh hiện nay ra sao?
-
Tôi đến Mỹ ngày 3-3-1993, theo chương trình H.O. 16. Đời sống của tôi
nay đã ổn định, an dưỡng tuổi già, con cái đã trưởng thành. Thật là hạnh
phúc sau 77 năm cuộc sống phiêu bạt: 7 năm thời thơ ấu, 11 năm học
đường, 19 năm binh nghiệp, 3 năm tù thời VNCH, 12 năm rưỡi tù cộng sản, 5
năm chờ đợi ở Sài Gòn và 18 năm trên đất Mỹ…
KẾT LUẬN:
Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi khá lâu, khoảng 4 giờ đồng hồ, rất vui
vẻ, chân tình. Xin cảm ơn anh Giai. Kể lại chuyện xưa, cựu chuẩn tướng
Giai trình bày rất tự nhiên thoải mái, không có gì là bực bội hay hằn
học đối với các cấp lãnh đạo quân đội VNCH đã truy tố và bỏ tù ông.
Ngay sau trận Quảng Trị
tháng 4-1972, chuẩn tướng Vũ Văn Giai đã bị “hy sinh”, bị đưa ra tòa,
bị ghép tội “bất tuân thượng lệnh” và lãnh án 5 năm tù giam. Vụ án của
ông còn bị dư luận thổi phồng vì hai lý do: 1) Người dân chỉ thấy cuộc
chuyển quân thất bại và nhiều người chết trên con đường Quảng Trị-Huế,
mà không biết diễn tiến nội vụ chuyện chuyển quân, và quên chú ý rằng
người ta chết vì suốt một tháng giao tranh trong khi việc chuyển quân
chỉ diễn ra một ngày vào cuối tháng 4-1972. 2) Những lãnh đạo của tướng
Giai tìm cách tránh né trách nhiệm của chính các ông về những sai lầm
trong cuộc hành quân, và đổ hết tội lỗi lên hai vai của tướng Giai. Ông
gánh chịu dư luận quốc nội cũng như quốc tế thay cho các cấp lãnh đạo
trung ương và Quân đoàn I.
Tuy nhiên, dần dần theo
thời gian, những uẩn khúc về trận đánh nầy được làm sáng tỏ. Gần đây
nhất, trong cuộc hội thảo “Việt Nam, 35 năm nhìn lại” vào tháng 4-2010
tại Washington D.C., sử gia Dale Andrade, thuộc Trung Tâm Lịch Sử Quân
Đội Hoa Kỳ, đã nói như sau:
“Thấy được sự nghiêm
trọng của vấn đề, tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh, ra lệnh
lui quân về phía Nam để có thể tạo ra một đồn lũy vững chãi hơn. Các cố
vấn Hoa Kỳ cho rằng đây là một quyết định hợp lý, có cơ sở, có triển
vọng giữ lại được hàng ngũ của ông trong tình thế hiểm nghèo lúc đó.
Nhưng tiếc thay, ngay khi kế hoạch chuyển quân bắt đầu, thì nửa đêm hôm
đó, tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn I, gọi phôn ra, ra lệnh tử
thủ Quảng Trị…. Sau khi Quảng Trị thất thủ, tướng Giai bị đổ hết tội lỗi
lên đầu, và còn bị bỏ tù. Tướng Giai đã bị đối xử bất công. Tôi cho
rằng ông đã làm hết sức mình trong một hoàn cảnh rất khó khăn trước quân
thù, khi không được cả sự đồng thuận của đồng đội…” (Nhật báo NGƯỜI VIỆT, California, ngày Thứ Hai 26-4-2010, số 8906, tr. A6)
Một người đứng ngoài
cuộc chiến như Dale Andrade, với đầy đủ điều kiện nghiên cứu, sàng lọc
nhiều tài liệu trong văn khố quân sử Hoa Kỳ, nắm rõ diễn tiến các trận
đánh, hy vọng là khách quan và khả tín.
Tuy nhiên, có một điều
quan trọng đáng nói hơn hết: cựu chuẩn tướng Vũ Văn Giai, trong cương vị
tư lệnh SĐ3BB, năm 1972 đã tận lực chiến đấu với tất cả khả năng của
mình nhằm bảo vệ tuyến đầu đất nước. Ông là một tướng lãnh tận trung với
Tổ quốc, can đảm, tận tụy, nhưng kết quả không may mắn, ông đành im
lặng xuôi theo số phận vào cuối đời binh nghiệp, mà vẫn không thẹn với
lương tâm, với đồng đội và với dân tộc.
No comments:
Post a Comment