Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Bây giờ là những ngày cuối năm; chỉ còn chưa đầy hai tuần nữa là Xuân Mậu
Tý lại trở về trên đất nước. Nhìn vào các trang báo, nhất là trên mạng
lưới toàn cầu đã xuất hiện rất nhiều những bài viết về Tết Mậu Thân, 1968.
Tại quốc nội, đã có rất nhiều những bài viết để ca tụng cuộc thảm sát là:
"Kỷ Niệm Bốn Mươi Năm Chiến Thắng Mậu Thân"; hoặc "Kỷ Niêm Bốn Mươi Năm
Cuộc Tổng Công Kích và Nổi Dậy của Đồng bào Miền Nam". Qua những bài viết
ấy, các tác giả đã viết trong niềm vui và kiêu hãnh được gọi là "chiến
thắng".
Nhưng, đối với những người dân của Miền Nam Tự Do cái mà CSVN gọi là "Cuộc
Tổng Công Kích… Tổng Nổi Dậy … " là một cuộc thảm sát, là nỗi đau đớn khôn
cùng và mãi mãi không bao giờ có thể quên được; khi nhìn lại những hình
ảnh, qua những đoạn phim với những bộ xương trắng lạnh vừa được quật lên
từ những hố, hầm tập thể, những vành khăn tang phủ trắng mái đầu, những
tiếng nấc nghẹn, những dòng huyết lệ chảy dài trên má của những người mẹ,
người vợ, khóc chồng, khóc con; những tiếng khóc làm đau xé đến tận tâm
can, những tiếng khóc như thấu đến Trời cao! Những nỗi đau mà ngôn ngữ của
nhân loại không thể nào diễn đạt!!!
Trong những đớn đau trùng trùng chất ngất ấy, kể từ Tết Mậu Thân: 1968-
2008, suốt bốn mươi năm qua, đáng lẽ chính những người đã gây ra, đã gieo
rắc tang thương trên khắp mọi miền của đất nước; chính họ phải nói lên
những lời tạ tội. Nhưng không, bởi mù lòa tận trong tâm trí, nên họ đã
không biết được những hành vi tội ác của chính họ đã gây ra. Chẳng những
thế, mà họ còn công khai viết lại những hành vi tàn ác, bất nhân của bốn
mươi năm về trước.
Nhân dịp tưởng niệm bốn mươi năm cuộc thảm sát Mậu Thân. Trước khi viết
lại những tội ác của những kẻ đã nhúng tay vào máu của đồng bào vô tội;
tôi xin phép các bậc phụ huynh, để xin được có lời thành kính chia xẻ muộn
màng đến các gia đình và các nạn nhân trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân,
1968, kể cả những gia đình và cũng là nạn nhân của miền Bắc Việt Nam; bởi
chính họ hay người thân cũng đã là nạn nhân của cái gọi là "Sinh Bắc tử
Nam" đã bị Hà Nội đẩy vào Nam, để rồi đã phải bỏ mình hoặc trở thành tàn
phế trong trận chiến Mậu Thân. Một trận chiến đáng lẽ không nên để xảy
ra, nếu Cộng sản Hà Nội không có một quyết định sai lầm để rồi nó đã trở
thành một đại tội đối với dân tộc, mà đời đời khó xóa nhòa trong tâm khảm
của người dân Việt.
Người Cộng sản Việt Nam thường biện minh rằng: "Quyết định cuộc Tổng công
kích Mậu Thân của chúng ta cũng như quyết định của vua Quang Trung … ".
Tôi không biết cái đầu của những người Cộng Sản Việt Nam nó chứa những thứ
gì mà họ lại đem so sánh như vậy. Bởi, ngày xưa vua Quang Trung đánh quân
nhà Thanh, quân Tàu, là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc; vì thế, người Việt
Nam có quyền tận dụng tất cả những thủ đoạn hầu để chiến thắng quân thù,
vì giặc Tàu là đội quân xâm lăng. Còn "Cuộc tổng công kích tết Mậu Thân"
là CSVN đã quyết định xuống tay giết hại đồng bào miền Nam trong những
ngày thiêng liêng là Tết cổ truyền của dân tộc, chưa nói đến chuyện vi
phạm Hưu Chiến trong ba ngày tết.
Những kẻ đã nhúng tay vào máu của đồng bào trong cuộc thảm
sát Tết Mậu Thân, 1968:
Tại Sài Gòn - Hòa Thượng Thích Trí Dũng:
Và bây giờ, tôi xin phép quý độc giả để trở lại với những tên đồ tể trong
cuộc thảm sát kinh hoàng này:
Trước hết, phải kể rõ cho mọi người cùng biết đến những hành vi làm giặc
của một "Vị Cao Tăng" của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (Ấn
Quang) đó là "Hòa thượng" Thích Trí Dũng, hiện đương còn sống tại Việt
Nam, qua những lời kể của chính "Hòa thượng" Thích Trí Dũng về những công
lao từng nuôi giấu Lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định, thuộc Lữ đoàn
316, trong đó có Thiếu tướng Việt Cộng Trần Hải Phụng và một số lượng vũ
khí lớn lao được chính Thích Trí Dũng đã cạy nắp mộ của ông Ngô Đình Cẩn,
một người yêu nước và chống cộng, rồi đem bỏ tất cả súng đạn vào, để bắt
cái xác chết của ông Ngô Đình Cẩn phải giữ súng đạn của Việt cộng từ năm
1964 cho đến ngày 30-4-1975. Đặc biệt, trong cuộc thảm sát tết Mậu Thân,
Thích Trí Dũng đã là một tên đồ tể, đã từng xuống tay sát hại dân lành.
Tôi xin mời quý vị cùng đọc những lời giới thiệu của "nhà báo" Việt Nhân
cùng lời kể của chính Thích Trí Dũng bằng giấy trắng mực đen trên tờ Thế
Giới Mới số 220, xuất bản ngày thứ hai 20-1-1997 tại Sài Gòn, nơi trang
66-67 và 68. Sau đó in thành sách: "Tài Trí Việt Nam: Người Dựng Chùa Một
Cột ở Miền Nam". Tôi xin trích lại nguyên văn như sau:
* "Hòa Thượng Thích Trí Dũng đã đóng góp cho cách mạng rất nhiều, ông là
nhà sư được Hồ Chủ Tịch viếng thăm và mời cơm… Tên tuổi ông được gắn liền
với quá trình xây dựng Chùa Một Cột (Nam Thiên Nhất Trụ) ở miền Nam ….
Chùa Nam Thiên Nhất Trụ (NTNT) hiện tọa lạc tại số 1/90 đường Nguyễn Du,
thị Trấn Thủ Đức, (TP Hồ Chí Minh), được khởi công xây dựng theo mẫu chùa
Một Cột tức chùa Diên Hựu- một công trình văn hóa nỗi tiếng có từ thời Lý,
ở thủ đô Hà Nội".
Hòa Thượng" Thích Trí Dũng kể lại:
"Khi xây dựng chùa Nam Thiên nhất Trụ (Chùa Một Cột tại miền Nam) chính
quyền Ngô Đình Diệm đã nhiều lần ngăn cản vì sợ chùa sẽ khơi dậy
trong lòng người dân đang sống ở nửa miền đất nước bị người Mỹ chiếm
đóng, ý thức dân tộc, sự mong muốn đấu tranh cho nước nhà thống nhất, độc
lập và tự do. Lúc đó, đại diện văn phòng phủ Tổng Thống Sài Gòn bảo rằng:
Hòa thượng muốn làm gì thì làm nhưng không được xây Chùa Một Cột. Tôi hỏi
tại sao, họ trả lời: "Nếu Chùa Một Cột được xây dựng thì sau này cộng sản
Bắc Việt sẽ vào cư ngụ ở đây". (Ôi! Tổng Thống Ngô Đình Diệm là vị đã Tiên
Tri được tất cả mọi sự, lời người viết). Nhưng bất chấp tất cả, chùa Nam
Thiên Nhất Trụ vẫn được xây dựng. Chính trong quá trình đào hồ Long Nhẫn
để định móng xây chùa, những người thợ đã phát hiện ra tảng đá lớn dài
1,3m, dày 0,2m. Nhờ mãnh vỡ, mọi người mới biết đây không phải là đá, khi
đập ra, họ thấy bên trong có một cổ vật bằng bạch kim, hình tròn, đường
kính 0,38m, dày hơn 1cm, nặng 6,2kg, trên mặt khắc 4 chữ Hán "Ngũ Tử Đăng
Khoa" và 21 hoa văn đặc sắc, cổ vật này được nhà tư sản người Hoa là Lý
Long Thân đòi mua với giá 4 triệu đồng (bốn triệu đồng) và 200 lượng vàng
(hai trăm lượng vàng) thời giá lúc đó. Người Mỹ khi khảo sát cổ vật cũng
đã ngỏ ý được đổi bằng một bệnh viện 3 tầng với 600 giường,
có đầy đủ dụng cụ Y khoa. Cả Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi biết cũng đã cử
người xuống thương lượng xin được lấy cổ vật ấy, hứa sẽ đáp ứng mọi yêu
cầu, nhưng tôi (HT Thích Trí Dũng) là người chủ trì việc xây cất chùa vẫn
một mực chối từ và đem giấu cổ vật đi. Cho đến khi nước nhà thống nhất tôi
đã tình nguyện hiến cổ vật cho nhà nước: Ngày 25-8-1988, Phó Thủ tướng
Phan Văn Khải, Thượng tướng Trần Văn Trà, Thiếu tướng Trần Hải Phụng, giáo
sư Trần Văn Giàu cùng các nhà nghiên cứu khảo cổ đã đến tiếp nhận cổ vật
đem vế trưng bày ở phòng "Sài Gòn xưa" của Bảo tàng cách mạng TP. Hồ Chí
Minh.
* Hòa Thượng Thích Trí Dũng kể về những thành tích cách mạng:
"Năm 1947, hơn 2000 nhân sĩ, trí thức yêu nước bị phái Công Giáo phản động
bắt giam ở nhà hầm Phát Diệm. Lúc đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ông Hồ
Tử Du với lá thư riêng của Hồ Chủ Tịch đã đến Đồng Đắc ủy nhiệm cho tôi -
trên cương vị Đại diện Phật giáo Cứu quốc Trung ương - bằng mọi cách phải
giải thoát. Nhờ sự hậu thuẫn của cách mạng, việc giải thoát đã thành công.
Với thành tích này, tôi được Hồ Chủ Tịch khen thưởng và được tướng Nguyễn
Sơn mời làm cố vấn. Sau khi giải thoát cho 2000 nhân sĩ, trí thức, tôi bị
bọn Công Giáo phản động tuyên án tử hình. Để tránh sự trả thù và thể theo
yêu cầu của một số Phật tử Nam Kỳ, năm 1953 tôi vào miền Nam.
Từ khi vào Nam tôi đã xây chùa Linh Giác ở Đà Lạt, chùa Phổ Chiếu, Phổ
Minh ở Gò Vấp, chùa Phổ Quang ở Tân Bình, tôi quyết đinh xây dựng Chùa Một
Cột tại làng Đại Học Thủ Đức, phỏng theo mô hình Chùa Diên Hựu (Một Cột) ở
Hà Nội. Bị chính quyền Ngô Đình Diệm cản ngăn, tôi về mướn người rào kín
khu đất định xây chùa lại, thuê thợ đến làm từ 4 giờ chiều đến 11 giờ đêm.
Biết được sự kiện tôi lén xây dựng chùa, chính quyền Diệm sai người đến
yêu cầu tôi phá ngay vì lý do chính trị. Tôi nói với họ: Tôi chỉ biết xây
chứ không biết phá. Cản ngăn không được, họ lại đưa tiền cho tôi để tôi
xây dựng chùa khác, nhưng tôi không chịu. Thế là họ đành để tôi xây dựng
chùa mà không lấy tiền lại.
Năm 1964, tại Chùa Một Cột (Nam Thiên Nhất Trụ) Thủ Đức qua trung gian là
anh Bùi Kỳ Vân, anh Nguyễn Đức Lộc là Chính trị viên đội Biệt động Thủ
Đức, tôi gặp anh Nguyễn Văn Bá, ông Nguyễn Văn Thăng hiện đều là anh hùng
Quân đội Nhân dân Việt Nam và đều ở Đội Biệt động Sài Gòn-Gia Định ngày
ấy. Họ đã nhờ tôi tạo điều kiện cho Lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định
thuộc Lữ đoàn 316 xây dựng cơ sở bí mật tại Chùa Một Cột và Chùa Phổ Quang
ở gần sân bay Tân Sơn Nhất-là hai ngôi chùa do tôi kiến tạo và trụ trì.
Tôi đồng ý, thế là hai ngôi chùa này trở thành hai cơ sở hoạt động bí mật
của Biệt động Sài Gòn-Gia Định cho đến ngày 30-4-1975.
Trong cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968,
Chùa Phổ Quang là điểm khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất; ở đây tôi đã
qua mắt
địch, để che giấu một số lượng lớn vũ khí và Lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia
Định thuộc Lữ đoàn 316. Chùa Phổ Quang cũng là nơi ở của Thiếu tướng Trần
Hải Phụng và anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Bá, chùa thường xuyên
bị địch để ý. Để che mắt địch, chúng tôi đã cạy nắp mồ Ngô Đình Cẩn em
ruột Ngô Đình Diệm, chôn trong chùa Phổ Quang để giấu vũ khí. Chính vì
vậy, địch không ngờ tới. Còn sự di chuyển của các chiến sĩ Lực lượng Biệt
động thì đích thân tôi đã lái xe hơi chở họ nên địch không thể ngờ được.
Vì thế, vũ khí và con người được giữ gìn cho đến giờ chót".
Quý vị vừa đọc qua những lời kể của chính "Hòa Thượng" Thích Trí Dũng,
từng là thành viên lãnh đạo Trung ương Phật giáo cứu quốc từ năm 1946; với
những thành tích thâm niên làm cộng sản.
Đặc biệt trong cuộc thảm sát Mậu Thân 1968, như đã trích ở trên, là một
bằng chứng không thể chối cãi, tôi nghĩ rằng không cần phải viết thêm điều
gì nữa cả.
Tuy nhiên, có một điều đáng nói là trước đây vào tháng 4 năm 1998, Thích
Trí Dũng sang Hoa Kỳ để làm công tác ngoại vận, khi đến các chùa Thích Trí
Dũng đã bị đông đão Phật tử phản đối thì tất cả các hàng tăng lữ có mặt
tại Hoa Kỳ đã ra "Thông bạch-Bạch thư" gồm có nhiều chữ ký của các sư sãi
Ấ Quang nội dung nguyên văn như sau:
"Thông Bạch của hàng Giáo Phẩm Phật Giáo Việt Nam tại Hoa
Kỳ".
"Chúng tôi ký tên dưới đây là hàng giáo phẩm đứng đầu các tổ chức Phật
giáo Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ minh định rằng:
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Dũng, là một bậc đạo hạnh chân tu, ấu niên
xuất gia, đã đi hành đạo tại miền Nam Việt Nam từ năm 1954. Đại lão Hòa
thượng luôn luôn hướng về Phật sự, từ thiện, xã hội, lập chùa mở cảnh.
Ngài đã tạo một ngôi chùa Nam Thiên Nhất Trụ tại làng Đại Học Thủ Đức từ
năm 1972. Hiện nay ngôi chùa này là một danh lam mang sắc diện Văn Hóa
Lịch Sử Phật Giáo hưng thịnh từ thời nhà Lý. Đại lão Hòa thượng Thích Trí
Dũng trong chuyến viếng thăm Phật Giáo các nước Á Châu do cộng đồng Phật
Giáo thỉnh mời; Ngài có ghé thăm các Pháp hữu Sơn Môn tại các tu viện,
Phật cảnh Già Lam tại Hoa Kỳ. Ngài không hề tham gia bất cứ tổ chức chính
trị nào từ năm 1954. Chúng tôi luôn luôn tôn kính Ngài là bậc Trưởng
Thượng Cao Tăng.
Ngày 27 tháng 5 năm 1998.
Đồng ký tên:
Hòa Thượng Thích Thanh Cát: Tăng thống Giáo hội Liên Tông Phật Giáo
Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Hòa Thượng Thích Mãn Giác: Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa
Kỳ.
Hòa Thượng Thích Hộ Giác: Tăng Thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt
Nam hải ngoại- Chủ tịch Hội đồng điều hành Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ.
Hòa Thượng Thích Giác Nhiên: Pháp chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế
Giới.
Hòa Thượng Thích Minh Thông: Tổng thư ký Hội đồng Phật giáo Á Châu tại
Hoa Kỳ.
Một lần nữa quý độc giả lại đọc thêm những lời lẽ của các "cao tăng" trong
cái "Thông Bạch của hàng giáo phẩm đứng đầu các tổ chức Phật giáo Việt Nam
đang hành đạo tại Hoa Kỳ minh định" như trên đây; tôi nghĩ rằng quý độc
giả đã thấy mọi vấn đề đều chẳng có một tí nào minh bạch cả. Bởi thế, nên
tôi thấy không cần phải viết thêm điều gì mà xin dành sự phán xét cho quý
vị. Ngoài ra, Thích Trí Dũng cũng cho biết: Cả Tổng Thống Ngô Đình Diệm
khi biết cũng đã cử người xuống thương lượng xin được lấy cổ vật ấy, hứa
sẽ đáp ứng mọi yêu cầu, sau khi không ngăn cản được việc xây chùa, nên
đành phải đưa tiền cho Thích Trí Dũng xây chùa Nam Thiên Nhất Trụ. Như
vậy, ngay từ đầu Thích Trí Dũng đã ngang nhiên chiếm đất rồi tự ý làm chùa
và Nam Thiên Nhất Trụ đã do chính tiền bạc của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà
có. Nhưng không riêng chùa Nam Thiên Nhất Trụ mà tất cả các chùa từ ba
miền Nam-Trung-Bắc, kể từ thưở xa xưa là do các Triều đình, các Chúa
Nguyễn … các quan, đến hàng lý trưởng, trùm trưởng đã xây dựng. Rồi đến
hai nền Cộng Hòa Việt Nam cũng đã do tiền bạc của chính phủ, của các Tỉnh
trưởng, Thị trưởng, Quận trưởng, xă trưởng… cung cấp để xây dựng và Phật
giáo cũng đã ngang nhiên chiếm dụng đất làm chùa, chứ chẳng có một tờ giấy
gì để làm bằng chứng là chủ quyền-sỡ hữu. Như thế, những ngôi chùa tại
Việt Nam hết thảy đều vĩnh viễn thuộc về di sản của Quốc Gia. Vì vậy,
không một phe phái nào có thể tranh giành được cả.
Riêng Hòa thượng Thích Tâm Châu không ký vào cái "Thông Bạch" này mà chỉ
nói: "Chỉ biết trước kia Hòa thượng Thích Trí Dũng có tham gia vào Hội
đồng Liên tôn và Trung ương Phật giáo cứu quốc" ngoài ra không nói gì
thêm. Mặc dù vậy, nhưng nhiều người đã nói rằng Hòa thượng Thích Tâm Châu
biết rõ nhưng không chịu nói.
Nhưng, bất cứ kẻ nào ngoại cuộc muốn nói bất kể điều gì, cũng không bằng
những lời của chính "Hòa thượng" Thích Trí Dũng bằng giấy trắng mực đen
công khai trên sách - báo với cái tựa đề: "Tài Trí Việt Nam: Người dựng
Chùa Một Cột ở Miền Nam".
Khi nhắc đến "Thượng tọa" Thích Trí Quang, là nói đến một "nhà sư" đã vi
phạm hết tất cả những điều mà trong "Ngũ Giới" của nhà Phật đã nghiêm cấm.
Thích Trí Quang đã từng gieo máu lửa trong các cuộc bạo loạn trên khắp
Miền Nam Tự Do; nhưng kinh hoàng nhất vẫn là cuộc "đấu tranh bàn thờ Phật
xuống đường" tại miền Trung. Đã có quá nhiều những bài viết về Thích Trí
Quang. Song có nhiều điều tôi không thấy vị nào nhắc đến, tôi có nhiều tài
liệu chứng minh. Vì thế, nhân đây tôi chỉ nói đến một điều như sau:
Khi hay tin Hồ Chí Minh chết, "Thượng tọa" Thích Trí Quang đã tổ chức lễ
cầu siêu-lễ truy điệu ngay tại chùa Ấn Quang, có nhiều "Phật tử" tham dự.
Trong buổi lễ truy điệu này Thích Trí Quang đã sử dụng những bông hoa màu
đỏ, và bông hoa màu vàng đặt ở giữa, tượng trưng cho cờ đỏ sao vàng của
đảng cộng sản, làm thành một vòng hoa, hai bên treo đôi câu đối:
"Nam-Bắc toàn dân quy thượng chính;
Á-Âu thế giới kính tu mi".
Hai chữ cuối của hai câu đối là chữ "Chính" và chữ "Mi", đọc lái hay ngược
lại là Chí Minh. Và trong bài điếu văn Thích Trí Quang đã đọc trong lễ
truy điệu có đoạn như sau:
"Nhớ đến Bác càng thương càng khóc, thấy bọn giặc thêm hận thêm thù.
Khóc là khóc đấng thiên tài lỗi lạc, đuổi xâm lăng đòi độc lập tự do, trọn
đời mãi âu lo cho dân tộc, quê hương đó, nước non còn đó, uất hận thay,
vật đổi sao dời. Thương tiếc bấy! Hoa trôi nước chảy. Nghĩ mấy đoạn lệ
tràn chan chứa, nhớ công ơn cảm động can tràng … Thù là thù bọn tàn bạo dã
man, mong cướp nước hại người, làm những việc bất lương vô nghĩa … "
Trên đây, chỉ là một trong những việc làm của Thích Trí Quang. Chỉ chừng
ấy thôi, mọi người chắc không một ai kể cả Thích Trí Quang có thể chối cãi
được. Vì không thể ghi chép hết, nên tôi đành phải xin gác lại để viết
tiếp về những "cao tăng" khác.
Cuộc Thảm Sát Tại Huế và Hòa Thượng Thích Đôn
Hậu:
Trước đây, tôi đã nói qua về Thích Đôn Hậu, bởi những hành vi cộng sản,
đăc biệt là trong cuộc bạo loạn bàn Phật xuống đường tại thành phố Đà
Nẵng; vì thế, dân Đà Nẵng đã thường gọi là "Thích Đâm Hậu-Thích Đoản Hậu".
Tại miền Trung, đặc biệt là tại Đà Nẵng, từ trước ngày 30/4/1975, đã có
rất nhiều sư sãi Ấn Quang từng gieo rắc tang thương, máu lửa cho đồng bào
vô tội; song có lẽ ít ai biết được những “tăng sĩ” đó gần hết là người
Quảng Trị- Huế, đã được Thích Đôn Hậu đưa vào Đà Nẵng để “xây dựng cơ sở”,
đã tìm mọi cách để nắm giữ những chức vụ quan trọng để chuẩn bị cho những
cuộc nổi loạn cướp chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, trong số này có những
tên nổi tiếng sắt máu quen thuộc như: Thích Minh Chiếu, Thiếu tá Trưởng
phòng Tuyên úy Vùng 1, Quân khu 1.Kiêm Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo
Đà Nẵng… Tôi sẽ viết đầy đủ về những hành vi độc ác của những sư sãi cộng
sản này ở một bài khác. Riêng Thích Minh Chiếu hiện nay đương là chủ:
“Chùa Phật GiáoViệt Nam” tại 1651 S. King St. Seattle, WA. 98144, USA.
Điện thoại số: (206) 323-2269.
(Địa chỉ và số điện thoại này cho đến nay vẫn không thay đổi).
Thích Minh Chiếu đã đứng đầu hầu hết các cuộc thảm sát tại Đà Nẵng; từ
cuộc thảm sát tại Thanh bồ-Đức Lợi- 24/8/1964- Cuộc “đấu tranh” bàn Phật
xuống đường mùa hè 1966 và Tết Mậu Thân, 1968, trong cuộc tấn công của
cộng quân vào thành phố Đà Nẵng ... Sau ngày 30/4/1975, Thích Minh Chiếu
sang Hoa Kỳ cũng liên tục được “suy cử” vào “Viện Hóa Đạo II ”. Ngoài ra
còn nhiều “tăng sĩ” nữa như : Thích Minh Tuấn: Hiệu trưởng trường Trung
học Bồ Đề, Đà Nẵng, Phó Đại diện Tỉnh hội Đà Nẵng. Ngày 30/4/1975, Thích
Minh Tuấn đã cùng một số sư sãi Phật giáo Ấn Quang đã đưa từng đoàn xe ra
tận núi rừng để rước bộ đội Bắc Việt vào thành phố Đà Nẵng như tôi đã từng
viết và sẽ tiếp tục viết thêm vì chưa đầy đủ.
Nói đến cuộc thảm sát tại Huế, tôi không biết có nhiều vị nào còn lưu giữ
được những tài liệu về Huế. Riêng tôi, hiện vẫn có trong tay những tài
liệu và hình ảnh chính xác về những tên đồ tể trong cuộc thảm sát này.
Đứng đầu là một "cao tăng" của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất: Hòa
thượng Thích Đôn Hậu, người nắm giữ nhiều chức tước trong hàng giáo phẩm
của Ấn Quang và là người nắm tất cả quyền sinh sát trong trận chiến Mậu
Thân tại Huế; đồng thời HT Thích Đôn Hậu còn có một số đông đồ đệ nổii
tiếng có máu lạnh, giết người không biết gớm tay; những kẻ đó gần hết là
dân Quảng Trị-Huế, sống tại Huế, hoặc gốc Quảng Trị-Huế nhưng đã được
Thích Đôn Hậu đưa vào Thành phố Đà Nẵng để hoạt động cộng sản và xây dựng
cơ sở, đa số hiện vẫn còn đương sống ở trong và ngoài nước.
Trước đây, tôi đã có viết qua về Thích Đôn Hậu; song đây là một bài viết
để tưởng niệm bốn mươi năm cuộc thảm sát Mậu Thân, 1968-2008. Vì vậy, một
lần nữa, tôi tự thấy cần phải nêu lên tất cả những chứng tích và cũng là
những tội ác của Thích Đôn Hậu như sau đây:
Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tên thật là Diệp Trương Thuần, sinh năm Ất Tỵ
(16/2/1905) tại làng Xuân An, xã Thiện Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị.
Năm 1945: Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc Trung Bộ, kiêm Chủ tịch Hội Phật
giáo tỉnh Thừa Thiên, trụ trì chùa Thiên Mụ (Huế).
Năm 1947: Cố vấn Đạo hạnh Hội Phật giáo Trung phần.
Năm 1949: Chánh Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật giáo Trung Việt.
Năm 1952: Tại Đại hội giáo hội Tăng già toàn quốc được "suy cử" làm Giám
luật Giáo hội Tăng già toàn quốc.
Năm 1963: "Cố vấn Phong trào đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chế độ độc tài
Ngô Đình Diệm".
Năm 1968 ( Tết Mậu Thân ): Với những chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam - Ủy
viên Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam- Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Miền Vạn Hạnh (
tức miền Trung) Thích Đôn Hậu đã ra lệnh cho những đồ đệ như: Lê Văn Hảo,
hiện có mặt tại Paris ( Pháp quốc), Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc
Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Xuân Huy … và cả lũ cộng sản nằm vùng tại Huế
đã mở "Tòa án nhân dân" ở trong "chùa" Tường Vân và "chùa" Quang Tự, để
lần lượt bắt hàng trăm người ra "xử tội" bằng cách chém, giết vô cùng dã
man và tàn ác, rồi chôn xác của đồng bào ngay tại sân chùa. Sau đó, đã
tiếp tục mở thêm những phiên tòa khác để chỉ tuyên án tử hình hàng ngàn
đồng bào vô tội ở nhiều nơi khác, trong đó có bốn vị giáo sư ngoại quốc,
Linh Mục Bửu Đồng cùng đông đảo giáo dân; nhưng tuyệt đối không hề có một
sư sãi nào của Phật giáo Ấn Quang bị trầy sướt một tí gì cả. Khi Quân đội
VNCH tái chiếm thành phố Huế, Thích Đôn Hậu đã cùng Việt công chạy ra
chiến khu. Sau đó, Thích Đôn Hậu ra Bắc và đã được và "lấy làm vinh dự vì
đã được gặp, được ngồi ăn chung và chụp hình chung với Chủ tịch Hồ Chí
Minh" (chúng tôi đang có trong tay những tấm hình đó, chúng tôi sẽ lần
lượt đưa những tấm hình của những tên thầy chùa đầu trọc, mặc áo cà sa,
nhưng trên ngực lại đeo lủng lẳng những tấm Huân chương, Huy chuong do
cộng sản Hà Nội trao gắn). Trở lại với Thích Đôn Hậu, mặc dù ra chiến khu;
nhưng Thích đôn Hậu đã để lại hai "nhà sư" thân cận vì nghĩ rẵng chính phủ
không biết, hoặc không thể nghi ngờ gì về họ; bởi đã nhiều năm hai "nhà
sư" này là người được Đức Từ Cung vì không biết họ là cộng sản, nên đã
giao cho công việc hàng ngày lo chăm sóc các lăng mộ của Hoàng tộc, đó là
Hòa thượng Thích Như Ý, tọa chủ chùa Trà Am và là Phụ tá Pháp sự Chánh Đại
diện miền Vạn Hạnh; và Thượng tọa Thích Quảng Lợi là Tùy viên của Chánh
Đại diện miền Vạn Hạnh ( Thích Đôn Hậu) cùng hơn hai trăm cơ sở nằm vùng;
mục đích để hoạt động cộng sản hợp pháp. Nhưng, chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa đã bắt được quả tang và tịch thu rất nhiều tài liệu quan trọng. Vì
vậy, cả hai người này đã bị bắt giam. Sau đó, được Đức Từ Cung vì nghĩ
đến công lao của hai "vị sư" đã nhiều năm chăm sóc các lăng mộ của Hoàng
tộc, nên đã nhờ đến một người lãnh đạo chính trị tại miền Trung can thiệp
với Đại tá Lê Văn Thân tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế.
Vì vậy, hai "vị sư" này không bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt trận mà chỉ bị
xử phạt hành chánh.
Tuy nhiên, vì những bằng chứng làm cộng sản quá lớn nên chính quyền
không thể tha bổng được; vì thế, sau những lần truy xét, Ủy ban An ninh
tỉnh Thừa Thiên-Huế đã kết án "Thượng tọa" Thích Quảng Lợi: "An trí và
lưu đày Côn Đảo"; khi ra Côn Đảo Thích Quảng Lợi đã ở chung với "Hòa
thượng" Thích Minh Nguyệt tại chùa Sơn Hòa Tự. Thích Minh Nguyệt sau năm
1975, trở về Sài Gòn là một nhân vật sát cánh, kề vai với Hòa thượng
Thích Đức Nhuận trong "Giáo hội Phật giáo Việt Nam", nhìn vào tấm hình của
"Hòa thượng" Thích Thiện Hào mặc áo cà sa, đầu trọc lóc, với những tấm
Huân chương-Huy chương đỏ chói đã được Hà Nội trao gắn trên ngực, ai mà
không khiếp đảm trước những "vị cao tăng" ngày nay!!!
Năm 1973, Thích Quảng Lợi được trao trả nhân viên dân sự tại Lộc Ninh;
song Thích Quảng Lợi đã xin ở lại trên lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa theo
thủ tục Chiêu Hồi.
Riêng "Hòa thượng" Thích Như Ý, chỉ bị xử phạt 10 năm đồ lưu; không bị
ngồi tù nhưng phải ra khỏi Thừa Thiên-Huế và ngược lại không được trở lại
Thừa Thiên-Huế. Trong thời gian chịu án đồ lưu Thích Như Ý khi thì vào Sài
Gòn ở chùa Già Lam cùng Hòa thượng Thích Trí Thủ, lúc ra Đà Nẵng thì ở
trong chùa Pháp Lâm với Hòa thượng Thích Quang Thể. Cho đến năm 1974, cả
hai "vị sư" Thích Như Ý và Thích Quảng Lợi đã được sự vận động của vị ân
nhân đã nói ở trên để cả hai được về chùa Khuôn hội Phật giáo Sơn Trà,
phường Thọ Quang, quận 3, Đà Nẵng. Tại đây, Thích Quảng Lợi là Trụ trì,
Thích Như Ý là cố vấn pháp sự.
Trở lại với những "công lao" của Thích Đôn Hậu cả đạo lẫn đời như đã kể,
Thích Đôn Hậu đã từng nắm giữ những chức vụ quan trọng như nhiều người đã
biết, nên ngày 28/2/1969: Thích Đôn Hậu đã nhân danh "Đại biểu Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam" ra Bắc gặp Hồ Chí Minh và Tôn Đức
Thắng, nhìn vào những tấm hình chụp trong buổi "tiếp kiến" này cho thấy
Thích Đôn Hậu ngồi đối diện Hồ Chí Minh, bên cạnh là Tôn Đức Thắng, tất cả
có mặt 12 người, trong đó có Phùng Văn Cung.
Do những "công lao" to lớn đối với "cách mạng" Thích Đôn Hậu đã được Hà
Nội đưa đi thăm nhiều nước như: Nga, Tiệp Khắc, Mông Cổ … và đi dự nhiều
hội nghị quốc tế cộng sản.
Năm 1975: Như một hung thần, Thích Đôn Hậu đã ra lệnh cho đồ đệ khắp nơi
đưa xe ra tận núi rừng để rước bộ đội miền Bắc vào miền Nam. Tại Đà Nẵng
ngày 18/5/1975, Thích Đôn Hậu đã ra lệnh cho Phật tử và đồng bào: "Mỗi gia
đình phải có ít nhất một người đi diễn hành, khi đi mọi người phải cầm đèn
gió trên tay để đốt sáng trong đêm cho thêm hồ hởi, phấn khởi và vừa đi
vừa hô khẩu hiệu,đến sáng ngày 19/5/1975, tất cả phải tập trung về chùa
Pháp Lâm tức chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng để mừng lễ
sinh nhật của Hồ chủ tịch vĩ đại". Tôi sẽ viết về cuộc diễn hành tại Đà
Nẵng trong một bài khác; và Thích Đôn Hậu đã chủ trì lễ sinh nhật của Hồ
Chí Minh tại "chùa" Pháp Lâm ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng.
Năm 1976: Đắc cử đại biểu Quốc hội cộng sản khóa VI đơn vị Bình-Trị-Thiên,
và là "Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".
Năm 1981: Tại Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam, dưới sự chứng minh
của Hòa thượng Thích Trí Thủ, Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Hòa thượng Thích
Trí Tịnh, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa
thượng Thích Minh Nguyệt, Hòa thượng Thích Thiện Hào … Thích Đôn Hậu đã
được "suy cử" vào Hội đồng chứng minh và giữ chức Phó pháp chủ kiêm giám
luật. Đã được Hà Nội trao tặng những phần thưởng như sau:
Huân chương Hồ Chí Minh- Huân chương Độc lập- Huy chương vì sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân …
Ngày 23/4/1992, lúc 19 giờ 55 phút (nhằm ngày 21-3 âm lịch) Thích Đôn Hậu
đã chết tại chùa Thiên Mụ, Huế. Chấm dứt một kiếp người chỉ biết gieo tai
họa, đau thương, tang tóc cho đồng bào vô tội.
Tại Đà Nẵng:
Theo như các bài viết trên các trang báo ở trong nước như tờ An ninh Thế
giới thì "… Cuộc tổng công kích tết Mậu Thân 1968 là phải đánh chiếm các
thành phố Sài Gòn-Đà Nẵng-Huế … "; nhưng lại không cho biết tại sao khi
đánh vào Đà Nẵng thì quân Bắc Việt đã phải thất bại ngay từ đầu, không
chiếm nỗi thành phố Đà Nẵng, dù chỉ một giờ. Mặc dù, Thích Minh Chiếu đã
trang bị vũ khí cho "Phật tử" sẵn sàng tiếp ứng tại "chùa" Phổ Đà ở số 340
đường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Nhưng rồi cả thầy trò Thích Minh Chiếu
không thể hành động được vì Quân Đội đã bám sát chùa Phổ Đà cũng như các
chùa khác. Vì thế, sau một trận giao tranh thì một số tàn quân đã phải bỏ
chạy, một số đông cán binh Bắc Việt đã chết nằm dọc theo cầu Trình Minh
Thế và phía Đồ Xu; hai cánh quân này đã tấn công vào Trại Nguyễn Tri
Phương: Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Quân Khu 1.
Tuy nhiên, dù cộng quân đã thất bại, nhưng cũng gây thương vong cho một số
đồng bào vô tội, như tôi đã nói là trên đường chạy loạn, bà chị dâu tôi đã
bảo tôi "phải chạy vào chùa Phổ Đà vì gần và an toàn nhất".Nhưng khi vào
đến sân chùa Phổ Đà chị em tôi đã thấy Thích Minh Chiếu mang súng, nên quá
hoảng sợ phải quay trở về nhà. Trên đường về tôi đã nhìn thấy những xác bé
thơ nằm rải rác bên cầu Trình Minh Thế, dù đã chết, nhưng trên tay vẫn còn
đôi viên pháo chưa kịp đốt!!!
Trở
lại với các bài báo trong nước, theo tôi, không phải khi người ta không
nói có nghĩa là không biết, mà vì không muốn nói hay không được nói. Chính
vì vậy, nên nhân đây tôi xin nói giúp về những nguyên nhân đã khiến cho
cuộc tấn công của cộng quân vào thành phố Đà Nẵng đã phải thất bại một
cách thê thảm:
Tại sao Cộng Sản không chiếm nỗi thành phố Đà Nẵng dù chỉ
một giờ ?.
Sau khi Nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, ấp chiến lược bị phá bỏ. Vì thế, cộng
quân dễ dàng đánh chiếm những quận miền núi, cũng như dễ dàng xâm nhập vào
những thôn làng đã có sẵn những cán bộ cộng sản nằm vùng hoạt động hợp
pháp. Tại Quảng Nam- Đà Nẵng trên tuyến đường Tam Kỳ-Đã Nẵng hàng ngày các
loại xe chở khách chạy ngang qua Duy Xuyên và Điện Bàn là hai quận bị mất
an ninh, và cũng là hang ổ của Việt cộng nằm vùng. Đặc công cộng sản
thường xuyên đặt mìn, làm nỗ tung các loại xe chở khách, hoặc núp ở hai
bên đường để nhắm bắn vào những chiếc xe chạy trên đường, gây thương vong
cho rất nhiều hành khách. Vì vậy, chính quyền đã có lệnh các loại xe chỉ
được chạy từ 9 giờ sáng sau khi quân đội đồng minh đã rà mìn và có cảnh
sát kiểm soát; và đến 4 giờ chiều các loại xe phải ngưng không được chạy
nữa để bảo toàn sinh mạng cho đồng bào. Nhưng, những biện pháp ấy vẫn
không có hiệu quả; bởi cảnh sát không bao giờ dám kiểm soát những chiếc xe
của các ông "nghị viên" và "tăng sĩ". Đặc biệt tại thôn Thanh Quýt,
quận Điện Bàn (quê hương của Nguyễn Văn Trỗi), tại đấy có một vùng đất
rộng lớn là nghĩa địa của chùa Khuôn hội Phật giáo Thanh Quýt, thường được
gọi là "Gò Phật", nằm sát phía trái Quốc lộ 1. Nhưng vô cùng ác hại là cái
nghĩa địa này không phải chỉ chôn những người chết mà lại còn được "chôn"
những "người sống". Nhưng những người sống này "bị chôn" mà không chết. Vì
họ không phải là dân thường mà là những đặc công- du kích Việt Cộng đã tự
đào những hầm, hố, rồi tự "chôn" mình để ôm mìn, chất nổ TNT nằm chờ cơ
hội thuận tiện là đem đặt xuống mặt đường để làm nổ tung tan xác cả xe lẫn
người.
Tôi xin nhắc lại để các vị mà ngày xưa từng biết đến một vụ ám sát tại Gò
Phật hồi tưởng về một cái chết vô cùng thương tâm. Tôi không nhớ được ngày
tháng; nhưng tôi nhớ vào cuối năm 1967, và biết nạn nhân đó là Trung tá Lê
Bá Trừng, Trưởng ty An ninh Quân đội Đà Nẵng. Trong lúc về thăm quê tại
làng Bảo An, Điện Bàn, Quảng Nam. Trên đường trở về Đà Nẵng trước 4 giờ
chiều nhưng ông đã bị VC bắn bể bánh xe rồi dùng dao găm đâm nát bấy cả
thân thể, Trung tá Lê Bá Trừng đã chết ngay giữa Gò Phật. Sau đó,
chính cuộc hành quân để lấy xác của Trung tá Lê Bá Trừng mà quân đội VNCH
đã khám phá ra Gò Phật là sào huyệt của đăc công-du kích Việt cộng và
đã bắt sống nhiều "Phật tử" đang nằm dưới những hầm, hố để chờ cơ hội giết
người.
Ấy thế mà có một ông "Nghị viên" tại Đà Nẵng, hàng ngày cứ ra vào Gò Phật
rồi về Đà Nẵng có nhiều đêm ngủ luôn tại Thanh Quýt mà vẫn bình an vô sự.
Đó là "Nghị viên" Nguyễn Hiếu "ông" này có lai lịch và những thành tích
như sau:
Nguyễn Hiếu có một người em ruột tên Nguyễn Để, người Huế, đệ tử của Thích
Đôn Hậu, mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tái giá, vào Đà Nẵng lúc còn thiếu niên học
nghề may. Sau đó lập gia đình, rồi chẳng biết làm sao cả hai anh em trở
nên giàu to, cả hai mỗi người làm chủ một nhà may lớn nỗi tiếng tại Đà
Nẵng. Nguyễn Hiếu làm chủ nhà may Đồng Tân, đường Độc Lập, đối diện chùa
Long Thơ, sinh hoạt tại chùa, rồi làm Ủy viên trong Ban đại điện Tỉnh hội
Đà Nẵng, được Phật giáo đưa ra tranh cử Nghị viên và đắc cử, còn Nguyễn Để
làm chủ nhà may Bảo Toàn tại đường Đồng Khánh, cả hai đều là Phật tử đều
làm công việc "Phật sự" rất đắc lực tại "chùa" Pháp Lâm ở số 500 đường Ông
Ích Khiêm, tức chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Quảng
Nam-Đà Nẵng.
Được sự sắp xếp của đồng hương là Thượng tọa Thích Minh Chiếu, Thiếu tá
Trưởng phòng Tuyên úy Phật giáo Vùng 1- Quân khu 1. Kiêm Chánh Đại điện
tỉnh Giáo hội Phật giáo Đà Nẵng. Nghị viên Nguyễn Hiếu trở thành người
tình của Nguyễn Thị Thùy Trang là chủ nhà may Thùy Trang, chuyên may áo
dài nỗi tiếng tại đường Khải Định. Thùy Trang quê quán ở Thanh Quýt là
chị họ của Nguyễn Văn Trỗi, sinh hoạt tại chùa Pháp Lâm. Có điều lạ là ai
cũng biết Thùy Trang là nhân tình của Thích Minh Chiếu lại bỗng nhiên trở
thành tình nhân của Nguyễn Hiếu. Điều này dân Đà Nẵng thường suy luận như
sau:
"Cái con Thùy Trang là bồ của Thích Minh Chiếu, nó chỉ đóng vai bồ thằng
Hiếu theo sự chỉ đạo của Minh Chiếu, chứ thằng Hiếu không dám đụng cái
lông chân của con Thùy Trang đâu".
Nhưng có người lại nói: "Cho dù có đóng vai bồ của thằng Hiếu đi nữa, thì
bắt buộc con Thùy Trang cũng phải cho thằng Hiếu "tí xíu" chứ, thì thằng
Hiếu nó mới chịu tự tay lái xe chở súng đạn cho con Thùy Trang một thời
gian dài, rồi những đêm chúng nó chở nhau về ngủ lại ở gia đình con Thùy
Trang ở Gò Phật, chẳng lẽ thằng Hiếu nó chịu "ngủ chay" hay sao? Có thằng
nào ngu mà chịu vậy".
Song ai cũng biết về vụ án nổi
tiếng này. Sau khi Hiếu được trả tự do, và cho đến năm 1975, Thùy Trang đã
ở tù được 8 nãm mới được ra tù, trở về Đà Nẵng làm "Chủ tịch Ủy ban Chấp
hành Phụ nữ Thành phố Đà Nẵng", lúc này Thích Minh Chiếu thì đã sang Hoa
Kỳ, mà Thùy Trang vẫn không "nối lại tình xưa" với Hiếu. Chuyện Hiếu- Thùy
Trang có "tí xíu" hay không, có lẽ Thích Minh Chiếu cũng không biết được,
chỉ có hai người là Thùy Trang tại Đà Nẵng, và Nguyễn Hiếu đương có mặt
tại Hoa Kỳ mới biết được mà thôi.
Trở lại với vụ án trên, tôi xin thuật lại vụ án Nguyễn Hiếu-Thùy Trang, để
quý độc giả cùng suy gẫm. Tôi không nhớ chính xác ngày giờ; song nhớ thời
gian này là vào cuối năm 1967, cận Tết Mậu Thân 1968, bởi thời gian này
tình hình an ninh trên tuyến đường Đà Nẵng-Tam Kỳ mỗi ngày càng bất an. Vì
thế, nên nút chặn tại ngã ba Huế, ở đấy giữa tuyến đường Tam Kỳ-Đà nẵng
lại giáp với tuyến đường chạy ra đèo Hải Vân để đi Huế; nút chặn sinh tử
này đã được giao cho Liên Đoàn Biệt Động Quân, Bộ chỉ huy đặt tại Phú Lộc,
Đà Nẵng kiểm soát thay cho cảnh sát, nhưng Nguyễn Hiếu không hề hay biết
nên vẫn an nhiên như thường lệ, cứ hàng ngày Hiếu chở Thùy Trang trên xe
của Hiếu về quê Thùy Trang ở Gò Phật, Thanh Quýt có khi ngủ lại hôm sau
mới về Đà Nẵng để chở thuốc lá cho Thùy Trang. Một điều ít có là chủ một
nhà may áo dài lớn nỗi tiếng lại có nhan sắc, giàu có mà đi buôn thuốc lá,
(loại thuốc lá chỉ mới vừa thu hoạch, bó lại từng bó, còn nguyên cả cuống
và lá, có mùi hôi nồng nặc) chẳng biết Hiếu có hiểu được chuyện ngược đời
này đã khiến cả hai sa vào lưới hay không?
Thực ra, Nguyễn Hiếu và Thùy Trang đã ỷ vào ba lá bùa hộ mệnh đã có trong
tay đó là: Sự vụ lệnh của Thích Minh Chiếu, Thiếu tá Trưởng phòng Tuyên úy
Phật giáo Vùng 1- Quân khu 1- Kiêm Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống Nhất tại Đà Nẵng; Sự vụ lệnh thứ hai là của ông Ngô Đức Đường,
Chủ tịch Hội đồng Thành phố Đà Nẵng cấp cho Nghị viên Nguyễn Hiếu để đi
lại và sự vụ lệnh thứ ba là của Đại tá Lê Chí Cường, Thị trưởng Đà Nẵng.
Bởi vậy, nên mỗi lần có cảnh sát chặn xe thì Hiếu cứ đưa ba cái Sự vụ
lệnh đó ra, thì chẳng có cảnh sát nào dám kiểm soát xe của Hiếu cả. Nhưng
"đi đêm có ngày gặp ma". Hiếu đã không dè cái nút chặn ngã ba Huế đã thuộc
quyền kiểm soát của Biệt Động Quân, để rồi một chiều cuối năm 1967, khi
ông nghị viên Nguyễn Hiếu đang cùng Thùy Trang trên một chiếc xe tải chạy
về Đà Nẵng, lúc xe vừa trờ đến ngã ba Huế thì bất ngờ có một Trung đội
Biệt Động Quân, trong Quân phục chỉnh tề, súng gươm lấp lánh với tiếng hô:
"Dừng xe lại". Không còn cách nào khác hơn là theo lệnh của Quân đội;song
Hiếu vẫn xuất trình ba cái sự vụ lệnh đã nói ở trên. Nhưng, "Biệt Động
Quân- Sát" mà. Vì vậy, Hiếu và Thùy Trang đã hồn vía lên mây khi nghe các
chiến sĩ Biệt Động Quân hét:
"Chúng tôi không cần xem giấy tờ gì cả, chỉ cần lục xét tất cả những gì
đang có trên chiếc xe này mà thôi".
Có lẽ đây là lần đầu tiên Hiếu và Thùy Trang biết thế nào là Quân lệnh;
nên cả hai chỉ biết bước xuống xe để cho các chiến sĩ thi hành nhiệm vụ,
và các chiến sĩ đã mở xét từng bao thuốc lá được bỏ trong những chiếc bao
gạo loại sọc xanh 100 ký. Sau khi dỡ những bao thuốc lá xuổng khỏi xe, thì
trước mắt các chiến sĩ Biệt Động Quân là cả trăm cây súng đủ loại đang nằm
phía dưới. Bị bắt quả tang chở súng cho Việt cộng, cả hai không còn chạy
chối vào đâu được nữa.
Sau khi thẩm cung, cả hai bị giam tại nhà giam Kho Đạn, chợ Cồn, Đà Nẵng.
Nguyễn Thị Thùy Trang bị đưa ra Tòa Án Quân Sự Mặt Trận, và đã bị kết án
10 năm tù ở, thụ án tại nhà giam Thủ Đức, cho đến 30/4/1975, Thùy Trang
mới được trở về làm "Chủ tịch Ủy ban Chấp hành Phụ nữ Thành phố Đà Nẵng".
Riêng
"nghị viên" Nguyễn Hiếu chỉ ở nhà giam Kho đạn, Đà Nẵng, chưa đầy 6 tháng
thì được trả tự do, không bị đưa ra tòa, không bị kết tội chánh hay tòng
phạm, không hiểu vì lý do gì? Nhưng người dân Đà Nẵng thì thường nói với
nhau rằng:
"Vì thằng cha Hiếu nó giàu, có nhiều tiền nó chạy cho những ông- bà
lớn mới khỏi ra tòa, nên không bị ở tù".
Bởi tại Đà Nẵng khi nghe đến Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng 1, thì ai cũng
biết hai vị nỗi tiếng Thanh - Liêm, khiến cho người dân Đà Nẵng rất quý
trọng. Hai vị không bao giờ nhận tiền hối lộ, tôi nhớ đó là Luật sư Võ
Nhất Minh. Chánh án Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I; và Thiếu tá Hồ
Minh, Ủy viên Chính Phủ (Công tố ủy viên Tòa Quân Sự Mặt Trận) Hai vị này
chẳng những không bao giờ nhận tiền mà còn không bao giờ tha thứ cho bất
cứ ai làm cộng sản, hễ đưa ra tòa thì chắc chắn bản án không bao giờ dưới
mười năm tù ở. Vì thế, nhiều người nghĩ là phải có việc chạy tiền, bởi ai
cũng biết Biệt Động Quân đã bắt quả tang Nguyễn Hiếu lái xe chở Thùy Trang
trên xe chứa đầy cả trăm súng đạn của Việt cộng vào Đà Nẵng, mà tại sao
Nguyễn Hiếu không bị đưa ra tòa, bởi dù không phải chánh phạm thì cũng là
tòng phạm ?
Ngoài ra, cũng có nhiều người cho rằng chính quyền sợ Thích Đôn Hậu nên
không đưa Hiếu ra tòa, mà cũng chẳng dám đụng đến chính kẻ dẫn lối đưa
đường mà ai cũng biết là Thích Minh Chiếu. Điều đáng nói là bởi chính phủ
đã ban cho Thích Minh Chiếu cái chức Thiếu tá Trưởng phòng Tuyên úy Phật
giáo Vùng 1, Quân khu 1; là tạo cơ hội cho Thích Minh Chiếu ra tay thảm
sát đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi vào ngày 24/08/1964, rồi đến cuộc bạo loạn
bàn Phật xuống đường, mùa hè 1966, tại Đà Nẵng và làm giặc trong Tết Mậu
Thân, 1968. Nhưng chính phủ càng khiếp nhược hơn nữa là sau khi biết rõ
những hành vi của Thích Minh Chiếu rồi, trong khi Thích Minh Chiếu đang
mang lon Thiếu tá, mà chỉ cách chức chứ không dám đưa Y ra Tòa án Quân sự
Mặt trận, để Thích Minh Chiếu được sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Sau
1975, Thích Minh Chiếu lại sang Hoa Kỳ để làm chủ "Chùa Việt Nam". Riêng
Nguyễn Văn Để em ruột Nguyễn Văn Hiếu chủ nhà may Bảo Toàn, sau 1975, Để
có bị giam tại Hội An, Quảng Nam, vì tội vượt biển cũng chưa đầy 6 tháng
thì được trả tự do. Hiện cả Hiếu và Để đều đương định cư tại Hoa Kỳ để
cùng Thích Minh Chiếu làm công việc "Phật sự".
Nhà Chùa chứa súng đạn dưới hầm ngay dưới Chánh điện, tượng Phật tổ ngụy
trang nắp hầm bí mật:
Và cũng qua điều tra bởi vụ án này mà chính quyền đã huy động một lực
lượng gồm An Ninh Quân Đội-Ban II Đặc Khu Quân Trấn- Biệt Động Quân, đột
nhập vào ngôi chùa của Khuôn hội Nại Hiên Tây, (vì cảnh sát không bao giờ
dám khám xét chùa) sau lưng Cổ Viện Chàm, trước trường Trung học Sao Mai,
phía trái có nhiều kho chứa xăng, bên cạnh có cầu tàu thuộc Quân Cảng dùng
để tiếp nhận chiến cụ, thường được gọi là Cầu Đạn, phía trên là cầu Trình
Minh Thế, nối liền một quãng đường ngắn khoảng hơn 100 mét là Trại Nguyễn
Tri Phương, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Quân Khu 1. Và đã khám phá ra được một
căn hầm bí mật ngay dưới Chánh điện thờ Phật, phía trên được ngụy trang
bằng một pho tượng Phật to lớn là nắp hầm để che giấu hơn hai trăm khẩu
súng đạn đủ loại và chất nỗ TNT. Người quản nhiệm ngôi chùa này là một
Khuôn hội trưởng- Giáo sư Nguyễn Đình Liệu dạy tại trường Trung học Bồ Đề
do "Thượng tọa" Thích Minh Tuấn làm Hiệu trưởng; (ngày 29/3/1975, Thích
Minh Tuấn đã công khai đưa cả đoàn xe ra tận núi rừng để rước bộ đội Bắc
Việt vào thành phố Đà nẵng). Sau đó ông Nguyễn Đình Liệu bị đưa ra Tòa Án
Quân Sự Mặt Trận và bị kết án 10 năm tù ở, thụ án tại Chí Hòa. Năm 1973,
ông Liệu được trao trả nhân viên dân sự tại Lộc Ninh.
Cũng theo đấu vết của hai vụ án trên, các chiến sĩ cũng đã tiếp tục khám
xét ngôi chùa của Khuôn hội Tân Ninh nằm gần Đặc Khu Quân Trấn, Đà Nẵng;
tại ngôi "chùa" này cũng giống như "chùa" Nại Hiên Tây, cũng hơn hai trăm
khẩu súng đạn đủ loại và chất nổ TNT, nằm dưới hầm bí mật ngay dưới chánh
điện; phía trên cũng ngụy trang bằng một pho tượng Phật to lớn. Nhưng may
mắn hơn là bắt được hai tên đặc công Việt cộng người Quảng Trị đang ở
trong chùa này. Khi thẩm cung hai tên này đã khai là đệ tử của Thích Đôn
Hậu từ Quảng Trị vào Đà Nẵng bởi được Lê Thanh Bình là chủ của một chiếc
xe vận tải, vợ chết, ngoại hình không được dễ coi, tuổi đời đã già (nhưng
cái đầu không già) có ba người con đã lớn, giàu có, nhà ở tại ngã tư
đường Thống Nhất-Khải Định, Đà Nẵng. Lê Thanh Bình lại cũng có trong tay
hai lá bùa hộ mệnh, đó là: Sự vụ lệnh của Thích Minh Chiếu, Thiếu tá
Trưởng phòng Tuyên úy Phật giáo Vùng I, Quân Khu I; và một «Lộ Trình
Thư » của Thích Đôn Hậu, Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo miền Vạn Hạnh
cấp, để trên danh nghĩa là chuyên chở thực phẩm cho Ban Đại diện Phật giáo
miền Vạn Hạnh; nhưng thực ra là chuyên chở súng đạn cho Việt cộng, mà đã
nhiều năm tháng do Lê Thanh Bình và Lê Thị Dưa, một cô gái trẻ, nhan sắc
mặn mà, cả hai đều là người Triệu Phong, Quảng Trị, đệ tử của Thích Đôn
Hậu và cũng trên danh nghĩa là tình nhân, nên thường xuyên đi với nhau
cùng xe, giống như cặp Hiếu-Thùy Trang và đều là Phật tử sinh hoạt tại
chùa Pháp Lâm với Hiếu-Thùy Trang; song khác hơn là Lê Thị Dưa sống chung
nhà với Lê Thanh Bình. Và cũng bởi chính lời khai của hai đặc công mà An
Ninh Quân Đội- Ban II Đặc Khu Quân Trấn và các chiến sĩ Biệt Động Quân đã
vào tận nhà của Lê Thanh bình để lục soát; sau một hồi soát xét, các
chiến sĩ đã khám phá ra một căn hầm cũng chứa đầy những súng đạn, nằm ngay
dưới giường ngủ của Lê Thanh Bình và Lê Thị Dưa; và đến khi mở tủ áo dài
của Lê Thị Dưa thì các chiến sĩ đã phát giác thêm phía sau một lớp áo dài
chật ních là những khẩu B.40 được dựng khít dựa vào thành tủ đứng. Trong
khi các chiến sĩ lôi những khẩu súng ra thì Lê Thanh Bình bỏ chạy, nhưng
không thoát nổi vòng vây của các chiến sĩ. Cuối cùng, Lê Thanh Bình phải
chịu đầu hàng, bị bắt, bị đưa ra Tòa Án Quân Sự Mặt Trận và đã bị kết án
chung thân. Nhưng chẳng hiểu tại sao Lê Thanh Bình không bị đưa đi Chí Hòa
hoặc Côn Đảo, như những trường hợp khác bị kết án nhiều năm? Khi thẩm
cung cũng như lúc ra tòa nhờ có ông quân tử Tàu Lê Thanh Bình khai nhận
hết tội: "Mọi việc làm này do một mình tôi làm, một mình tôi chịu, cô Lê
thị Dưa không hề dính dáng, không hề hay biết". Bởi thế, nên Dưa đã được
tha bổng. Có điều tội nghiệp cho Lê Thanh Bình là khi bị tuyên án chung
thân phải ở tù tại nhà giam Kho Đạn, Đà Nẵng; mặc dù từng chung sống với
nhau, cùng chở súng cho Việt cộng, nhưng suốt thời gian Lê Thanh Bình ở
tù, chỉ có các con của Bình đi thăm cha, còn Dưa không một lần vào nhà
giam thăm viếng. Cho đến năm 1975, Lê Thanh Bình được trả tự do, còn Lê
Thị Dưa được làm Phó Chủ tịch Ủy ban Chấp hành Phụ nữ Thành phố Đà Nẵng
bên cạnh Chủ tịch Nguyễn Thị Thùy Trang; lúc này ông quân tử Tàu Lê Thanh
Bình vẫn nhớ đến "tiền cũ vàng xưa" nên có tìm đến với Lê Thị Dưa, song
"bà" phó chủ tịch đã ca bài "Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi". Và Lê Thanh
Bình đã âm thầm, xót xa trở về cùng với các con; bởi "Thấp cơ (nên) thua
trí đàn bà".
Qua những vụ án đã kể ở trên. Theo tôi, không phải chỉ có ở chuyện ngày
xưa, mà hiện nay và cả sau này nữa; các "thầy" luôn luôn có rất nhiều
những chiếc bẫy Nguyễn Thị Thùy Trang- Lê Thị Dưa; và chắc chắn cũng có vô
số những con nai "già" Nguyễn Hiếu –Lê Thanh Bình, hầu để thực hiện cho
bằng được cái cuồng vọng tái lập Lý triều. Song tôi nghĩ có rất nhiều
người đã hiểu, đã biết cái cuồng vọng này của Phật Giáo Ấn Quang mà tại
sao tất cả đều im lặng?; nên tôi, bởi không muốn đất nước phải hứng chịu
thêm những cảnh đau thương, tang tóc nào nữa. Vì thế, mười mấy năm về
trước, dù chỉ là một phụ nữ bất tài,; nhưng được sự khuyến khích của ông
Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, Chủ nhiệm Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong,
tôi đã nhiều lần lên tiếng và tôi sẽ còn tiếp tục viết lại tất cả những gì
tôi đã biết với những tài liệu vô cùng chính xác, để mong được góp một
phần nhỏ bé vào trong công cuộc ngăn chặn những thảm họa đừng xảy ra cho
đồng bào yêu quý của tôi.
Đọc qua những vụ án tại Đà Nẵng vào những ngày cuối cùng của năm 1967, cận
Tết Mậu Thân 1968. Chắc quý vị đã hiểu: Bởi vì mấy ngày cận Tết Mậu Thân
các Lực lượng an ninh và quân đội đã tịch thu hàng ngàn khẩu súng và bắt
giam hơn một ngàn Đặc công, Biệt động thành và Quân báo của Việt Cộng,
trong đó có Hà Kỳ Ngộ và Bác sĩ Lê Minh Triết ông này làm việc tại Bệnh
Viện Giải Phẩu ở đường Nguyễn Hoàng Đà Nẵng. Sau khi bị bắt, trong thời
gian thẩm cung BS lê Minh Triết đã khai nhận chính ông ta là "Chủ Tịch Ủy
Ban Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng" của Việt Cộng; nếu cuộc tổng tấn công Tết
Mậu Thân, 1968, thành công thì ông ta sẽ công khai ra làm việc với chức
vụ này. Ngoài ra, còn một số cán bộ trực thuộc, đám này hoạt động hợp
pháp; tất cả những tên Việt cộng này đều trú ngụ ở trong các « chùa » của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Ấn Quang), đồng thời cũng đã khám
phá và tịch thu nhiều súng đạn ở trong nhiều nhà của "Phật tử" là đồng
hương với Thích Đôn Hậu tại Đà Nẵng; vì quá nhiều vụ án làm cộng sản, nên
tôi sẽ viết về những tên thuộc hạ của Hà Kỳ Ngộ và những "Phật tử" này
trong một bài khác. Vì giới hạn của một bài viết, nên tôi chỉ nói về Hà Kỳ
Ngộ tức Lê Thanh, quê ở Điện Bàn, Quảng Nam là Bí thư Thành ủy Đảng cộng
sản tại Đà Nẵng, là người trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công thành phố Đà
Nẵng; và Bác Sĩ Lê Minh Triết người Duy Xuyên, Quảng Nam là "Chủ Tịch Ủy
Ban Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng". Sau đó Hà Kỳ Ngộ và BS Lê Minh Triết đều
bị đưa ra Tòa Án Quân Sự Mặt Trận. Hà Kỳ Ngộ bị kết án chung thân. Bác sĩ
Lê Minh Triết bị kết án 10 năm. Sau đó, Hà Kỳ Ngộ thọ hình tại Trại An
Dưỡng, Côn Sơn, còn ông Ác sĩ Lê Minh Triết thì được làm việc tại Bệnh
Viện tại Côn Sơn.
Với những chiến công to lớn của các Chiến Sĩ Biệt Động Quân đã bắt cả ngàn
tên Đặc công, Biệt Động Thành và Quân báo của Việt Cộng; vì thế cộng quân
mất liên lạc, nên vào đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân, khi tấn công vào Đà
Nẵng, ngay từ lúc đầu, Việt cộng đã lãnh nhận một thất bại quá nặng nề; và
như đã nói là cộng quân không thể chiếm nổi thành phố Đà Nẵng dù chỉ một
giờ. Tôi thiển nghĩ, tại Huế, vào trước Tết Mậu Thân, nếu cũng được sự kết
hợp chặt chẽ của các lực lượng An Ninh và Quân Đội để theo dõi và kiểm
soát mọi sự di chuyển của các loại xe, vì là thời chiến; và cũng đưa quân
đội vào lục xét các chùa như ở Thành phố Đà Nẵng, thì biết đâu mọi sự có
thể đã khác.
Tạm thay Lời Kết:
Viết đến đây, tôi bỗng hồi tưởng lại những cuộc thảm sát tại Việt Nam từ
bao nhiêu năm qua: Cứ mỗi lần có một biến cố nào đó xãy ra bất cứ ở nơi
đâu, là cũng đều có những bàn tay của sư sãi Ấn Quang nhúng vào. Một bằng
chứng không thể chối cãi là trong cuộc tấn công của cộng quân vào Tết Mậu
Thân, 1968. Tại Sài Gòn thì Thích Trí Dũng đã nuôi giấu "Lực lượng Biệt
động thành Sài Gòn-Gia Định thuộc Lữ đoàn 316 của Việt cộng trong hai ngôi
"chùa" Nam Thiên Nhất Trụ -Phổ Quang; và "chùa Phổ Quang đã là nơi khai
hỏa để đánh sân bay Tân Sơn Nhất" như lời kể công khai của
chính Thích Trí Dũng; rồi đến trước và sau ngày 30/4/1975, Phật Giáo Ấn
Quang đã từng đưa xe ra tận núi rừng để rước bộ đội Bắc Việt vào các thành
phố trên khắp lãnh thổ của miền Nam tự do. Rồi sau đó, Ấn Quang lại
cũng lập "Tòa án nhân dân" ở các chùa tại Đà Nẵng cũng giống như
những cái "Tòa án nhân dân" ở chùa Tường Vân và chùa Quang Tự tại
Huế vào Tết Mậu Thân,1968, để chỉ xử tử tất cả những
Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa.
Nên biết, là trong đám bộ đội Bắc Việt, có tên miệng còn hôi sữa, khi vào
các thành phố của miền Nam, nhìn thấy cảnh giàu sang, đẹp đẽ với những
tiện nghi mà chúng chưa hề thấy bao giờ, chúng như từ trên cung trăng lạc
xuống cõi trần, chúng không biết đường nào mà đi cả; nhưng chúng đã được
chính các "thầy" đưa đường, dẫn lối và các "chùa" là những nơi trú đóng
của cộng quân. Bởi thế, đám bộ đội Bắc Việt chúng không hề biết ai là
Quân-Cán-Chính của Việt Nam Cộng Hòa. Chỉ có Thích Đôn Hậu và những tên đồ
đệ đã tưởng rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ tái chiếm nỗi
thành phố Huế; nên đã công khai làm cộng sản trước mặt đồng bào, trong đó
có trẻ em đã nhìn thấy những hành vi cộng sản của Thích Đôn Hậu và những
tên đệ tử. Cho đến lúc Việt cộng và Thích Đôn Hậu biết chắc sẽ thua trận,
bắt buộc phải rút lui, nên trước khi cùng Việt cộng chạy ra chiến khu,
Thích Đôn Hậu đã ra lệnh cho những tên đồ đệ phải ra tay chặt đầu, cắt cổ
những chứng nhân này; nhằm để diệt khẩu, để trả thù và để lập công với
đảng cộng sản.
Chính vì thế, cuộc thảm sát Tết Mậu Thân, 1968, tại Huế, với gần 7000
người đã bị giết chết; với những cách hành quyết vô cùng dã man và tàn ác,
cộng thêm với không biết bao nhiêu người đã bị chết oan uổng trong trận
chiến này trên khắp mọi miền của đất nước. Vì vậy, đối với cuộc sát hại
thảm khốc, kinh hoàng này, dù là bốn mươi năm, bốn trăm năm, hay bốn nghìn
năm nữa và cho đến ngày tận thế; thì những tội ác ngập Trời này cũng phải
được chia đều cho Phật Giáo Ấn Quang và Đảng Cộng Sản Việt Nam.
26-01-2008
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
------------------------------------------------------
No comments:
Post a Comment