Chào Mùa Xuân - Sonny Phan
(Viết nhân dịp chờ đón xuân Canh Dần 2010)
Năm hết Tết đến , ngược dòng thời gian để nhớ về chuyện xưa tích cũ . Ngày xửa ngày xưa đã lâu lắm rồi , vào buổi hồng hoang , thuở mới khai thiên lập địa , đất trời còn hỗn mang , dân chúng khắp thế giới còn man rợ lắm , chưa biết đến đời sống văn minh là gì cả. Nhưng đó là chuyện ngày xưa . Ngày nay hơn một nửa trái đất này cũng chưa văn minh gì cho lắm . Vậy văn minh là gì nhỉ ?
Giản dị lắm , cứ nói đến chiến tranh thì người ta nghĩ ngay đến phản nghĩa của nó là hòa bình, nói đến đời sống man di mọi rợ thì nguời ta liền nghĩ đến phản nghĩa của nó là phải sống văn minh hơn. Văn minh đã có hàng vài chục ngàn năm nay rồi , thế mà cho đến nay ở châu Phi chẳng hạn , con người vẫn chém cứ mải chém giết , cứ giành giựt nhau . Vũ khí của họ rất thô sơ như thuở hồng hoang , vẫn còn dùng cung tên , giáo mác , gậy gộc để đâm chém nhau , nghĩa là thời nào đi nữa thì suy nghĩ và hành động của loài người ấy vẫn cứ là lấy thịt đè người , cá lớn nuốt cá bé , vẫn muốn gây hấn và nuôi dưỡng chiến tranh , khao khát chiếm đoạt . Cứ mạnh lên một chút là nghĩ đến việc phải chiếm ngay nước khác làm của mình . Chưa chiếm được cả nước thì họ chiếm tạm mấy ngàn hòn đảo ngoài khơi trước . Mất đảo thì mất kiểm soát đất liền . Mất kiểm soát đất liền như ở VN hiện nay người ta gọi là " mất nước" . Chiến tranh là man rợ . Nhiều nơi trên thế giới nào đã biết đến văn minh là gì !
Mới đây thôi ở Somalia có một cháu bé gái 13 tuổi bị một bọn côn đồ gần một chục tên cưỡng hiếp . Cháu bé gái đó chiếu theo luật của Hồi giáo là chưa chồng mà đã mất trinh thì phải bị xử tử. Xử tử cách nào ? Thưa là cháu bị trói gò tay chân lại vào một cây cột giữa sân cho người ta xúm lại dùng đá nào cục lớn , nào cục nhỏ hết sức ném như mưa như bão vào thân thể cháu y như người tiền sử vẫn thường dùng cách này để giết chết loài ma-mút to lớn khổng lồ mà ăn thịt vậy. Loài voi khổng lồ ấy đến nay đã bị ăn thịt hết nên hoàn toàn tuyệt chủng. Không ai còn thấy chúng nữa. Cháu bé gái tuy không bị giết để ăn thịt , nhưng cuối cùng thân thể bé bỏng của cháu là một cây cột máu đỏ lòm be bét nấc lên từng hồi lâu , đầu cúi gục xuống mà vẫn chưa chết ngay được , bên tai vẫn còn nghe đâu đây văng vẳng những tiếng reo hò chiến thắng rất hoan hỉ của đám mặt người dạ thú . Man rợ Thổ nhĩ Kỳ vừa mới khám phá vụ một cháu gái 16 tuổi bị gia đình chôn sống hồi cuối năm này . Cháu bị chôn trong tư thế hai tay bị trói chặt đặt ngồi dưới hố sâu 2 mét ngay trong sân nhà của cháu . Khám nghiệm tử thi cho thấy dạ dày và phổi của xác chết chứa đầy đất chứng tỏ cháu bị chôn sống . Người nhà cho rằng cháu chuyện trò với nam giới và đó là một sự sỉ nhục . Giết người để cứu vớt danh dự được cư dân vùng này chấp nhận . Man rợ !
Mọi rợ là như thế đó . Câu hỏi nhỏ là có cần phải sống văn minh không ? Ở một chân trời xa xôi nào đó có một dân tộc thưa là CÓ !
Thế nhưng có một dân tộc khác to lớn hơn gấp bội ở phương bắc dân ấy lại thưa rằng KHÔNG. Trăm lần KHÔNG . Vạn lần KHÔNG ! Dân ấy nhiều người gọi tên là Đại hán (Han-china). Giống dân này từ ngàn xưa là một giống dân ô hợp gồm nhiều chủng tộc (hơn 1.000 nước nhỏ gộp lại do bị xâm lăng) lai tạo với sắc dân mông cổ mà hình thành . Đám dân ấy sống bằng nghề du mục rày đây mai đó . Nói tới chữ du mục thì trong tiếng Việt có chữ đồng âm đồng nghĩa là du thủ du thực , tức là đi ăn cướp để kiếm sống . Không hẳn họ muốn thế đâu . Tổ tiên cha ông họ sanh ra ở đó như thế thì họ phải sống như thế mà thôi . Con trai từ lúc lên 3 đã phải học ăn , học ngủ , học sống , học bắn tên múa kiếm trên lưng ngựa rồi . Đàn bà con nít thì đi tới đâu cắm lều nơi đó để ở . Quê hương của họ là vùng đất Siberia vô tận lởm chởm đá bàn , đá tảng , quanh năm tuyết phủ rất hoang lạnh và vắng ngắt . Trái đất vốn dĩ là một mảng nham thạch khổng lồ nóng cháy bỏng đã nguội dần đi và trở nên cứng ngắc như một khối sắt khổng lồ . Những bề mặt cứng nhắc đó gọi là đá bàn hay đá phiến. Những vùng gần xích đạo như châu Phi chẳng hạn , ban ngày trời nóng ran có thể lên đến 70 - 80 ° Celcius . Ban đêm lạnh có khi gần với nhiệt độ đông đá . Sự thay đổi nhiệt độ rất đột ngột lập đi lập lại lâu ngày chầy tháng như thế cộng với khí hậu ẩm ướt đã khiến cho đá cứng nhanh chóng mủn ra thành đất mùn , cây cối nhờ đó mới mọc được , rừng gìa mới phát sinh . Ở bắc cực quanh năm tuyết phủ , thời tiết nóng lạnh thay đổi không nhiều như ở các vùng xích đạo cho nên đất mùn không sản sinh ra được . Nơi này ngàn đời " đá " vẫn trơ gan cùng Tuế Nguyệt . Vùng đất ấy chai sạn cằn cỗi lắm , đất mùn khắp nơi dày chưa tới năm phân nên không có nhiều cỏ hoang và hoàn toàn không có "cây rừng" !!! Rừng cây chỉ mọc được ở nơi đất có độ dày 5, 10 mét trở lên . Người chết tất nhiên không có đất để chôn ( gọi là địa táng ) . Ai đào đá mà chôn được ? Vả lại khi chưa có kim loại thì cũng chưa có dụng cụ đào xới ! Những thứ cuốc xẻng chỉ có rất gần đây . Không lẽ lấy đá để đào đá ? Và không có rừng thì cũng không có ván để đóng hòm , cũng không có củi để thiêu ( hỏa táng ) . Vùng cao nguyên này càng không có sông nước , không có biển sâu để quăng xác xuống ( thủy táng ) . Người Hán không rành bơi lội và không biết gì về nghề biển là thế . Suốt đời có lẽ họ không bao giờ tắm . Khi nói một người còn trẻ tuổi lắm , chúng thường nói là người chưa khô máu đầu . Nghĩa là đứa bé sơ sanh chỉ được lau và chờ khô đó mà . Vì đời sống khắc nghiệt như thế nên con người Hán trở nên rất tàn nhẫn , hung bạo . Cho nên ở đó có tập tục thiên táng người chết , nghĩa là mổ bụng xác chết rồi chặt nhỏ ra hoặc treo lên , hoặc quăng xác chết cho kên kên mổ thịt ăn . Thiên táng xác chết cách này cũng còn được gọi là điểu táng . Những điều này vô cùng quan trọng trong việc tìm hiểu tâm lý và lịch sử " rất man rợ " của người Hán . Lịch sử này sẽ xác quyết được sự thật lịch sử dân tộc Việt , đồng thời cho thấy người Việt xứng đáng được phép đòi lại tác quyền Kinh Dịch là nền tảng của văn minh siêu hình tức Đ ạ o h ọ c ( văn minh tinh thần ) rực rỡ nhiều ngàn năm trước.Xin đừng vội bỉu môi cho rằng văn minh nông nghiệp có gì mà rực rỡ đến thế mà đem khoe ! Xin nhớ cho rằng khoa học ngày nay còn đang bó tay đó. Văn minh tinh thần khác với văn minh vật chất ở chỗ nó không để các di tích vật chất rất đồ sộ như Tháp Chàm, Đế Thiên , Đế Thích , Kim Tự Tháp , siêu xa lộ , …. nhưng học thuyết của ta về âm dương ngũ hành cho đến nay vẫn khiến cho cả nhân loại phải vò đầu bứt tai không thể nào hiểu nổi bằng cách nào mà cha ông ta biết được có ngũ hành tức là 5 hành tinh có 5 màu sắc khác nhau như Kim, Mộc, Thủy , Hỏa , Thổ dù ta chưa bao giờ dùng phi thuyền hay vệ tinh nhân tạo để bay ra khỏi trái đất và dùng viễn vọng kính tối tân như Huble trị giá hàng trăm triệu đô la được đặt trên thượng tầng khí quyển để quan sát và nhiều chòm sao mà mãi cho tới 200 năm trước được các khoa học gia khẳng định là qủa thực trước đây 7.000 năm có chùm sao đó và chỉ đến nay mới khám phá ra nhờ các dụng cụ như viễn vọng kính tối tân . Qua quan sát này mà ta có được triết thuyết đa năng đa dụng trong cuộc sống mà “chỗ dụng” chính của nó được ứng dụng rộng rãi trong thiên văn , khí tượng, địa lý, y lý, tử vi , phong thủy ,v.v… v à làm ra lịch cũng như tiên đoán chính xác được đến từng giờ !!!
o0O0o
Vậy người rợ Hán đã sinh sống bằng nghề gì nơi đồng không mông quạnh như vậy ? Họ săn bắt thú rừng và chăn nuôi dê cừu . Họ phải luôn du canh du cư để tìm nguồn thức ăn mới . Nhiều bộ tộc miền Thượng du bắc Việt hiện nay vẫn còn giữ lại tập quán này , có "rất ít" bộ tộc theo chế độ mẫu hệ , tuyệt đại đa số có chế độ phụ hệ . Từ chuyện có chế độ mẫu hệ này đã có một vài người liên tưởng rằng tổ tiên ta cũng theo chế độ mẫu hệ . Ta nên nghĩ rằng người dân tộc thiểu số có cuộc sống gần giống với người Hán hơn là người Việt , vì người Việt sống bằng nghề nông từ mấy chục ngàn năm trước đó rồi chứ không sống bằng nghề du mục như người Hán !! Người Việt sống thành quần thể , có tổ chức xã hội làng xã hẳn hoi thì làm sao có thể có đặc tánh của kẻ "sống bộ tộc lông bông" như Hán được ? Vai trò người cha trong một làng xã ổn định là rất lớn . Họ phải chăm , nuôi , dạy , dỗ con cái . Họ sống hàng ngày gắn bó gần gũi với gia đình . Chế độ mẫu hệ chỉ phù hợp ở bộ tộc nhỏ sống bằng nghề săn bắt . Đàn bà phải cáng đáng việc nhà nhiều hơn . Người cha phải lăn lộn bên ngoài kiếm ăn , săn bắt có khi cả tháng mới về nhà . Việc này sẽ chứng minh thêm sau . Xưa kia ta quen gọi người thượng du là người "Mọi" , ý nói ít văn minh , nhưng họ chính là hình dáng thật của cái bọn không văn minh Hán tộc kia . Nếu không di chuyển thì lấy cỏ đâu ra mà chăn nuôi dê cừu ? Vì thế mỗi ngày họ phải di chuyển hàng chục cây số để tìm cỏ xanh để nuôi súc vật . Phương tiện di chuyển của họ do đó phải là ngựa . Phải có nhiều sức khoẻ để có thể phóng lên lưng ngựa được và phải chai lỳ lắm mới khống chế được ngựa và không có sức khoẻ thì cũng không cưỡi ngựa được . Muốn hiểu việc này thì cứ mở phim cowboy Texas mà xem sẽ rõ. Trong hoàn cảnh sống như vậy tất nhiên họ phải chia nhỏ ra thành từng nhóm rất nhỏ mới có thể tìm ra đất sống . Lối sống ấy gọi là sống đời bộ tộc . Từng nhóm từng nhóm rải rác chứ không hề biết đến làng mạc hay thị trấn . Nhiều khi các nhóm ấy còn tấn công lẫn nhau để chiếm đoạt của cải là các bầy súc vật nên họ phải biết võ nghệ để còn tự vệ .
Tuy nhiên , ở cái xứ chó ăn đá gà ăn sỏi như vậy mà gặp dịch bệnh thì sẽ thiếu ăn là việc không tránh khỏi . Lúc này họ sẽ phải kết bè kết đảng để đi ăn cướp . Thế là dòng máu thảo khấu đã ăn sâu vào huyết quản họ từ muôn đời rồi . Không ăn cướp không phải là người Hán .
Cái lối sống bộ tộc từng nhóm năm ba gia đình hoặc từng gia đình riêng lẻ như thế hẳn nhiên không cần đến ngôn ngữ , không cần đến chữ viết , vì họ không có nhu cầu để trao đổi , học hỏi hay dạy dỗ . Nhu cầu ấy chỉ trở nên cấp bách khi con người sống thành quần thể lớn mà thôi . Các chuyên gia ước tính rằng vào thời nhà Hán năm 200 BC, chữ Hán mới chỉ có khoảng 2.000 từ mà thôi . Nếu ngược dòng thời gian vào thời lập quốc cách đó 2 đến 3.000 năm nữa thì họ có bao nhiêu từ ? Hẳn số từ vựng còn ít hơn rất nhiều . Để hiểu việc này ta hãy quan sát vốn ngữ vựng của người Eskimo hiện nay : Chưa qúa 200 từ !!! Ai học thông dịch nên chọn ngôn ngữ này . Rất có thể chữ Hán là thứ chữ đã vay mượn của một dân tộc nào đó . Với số vốn từ ngữ ít ỏi như vậy thử hỏi làm sao chúng sáng tạo ra kinh sách như Kinh Dịch cho được ?! Muốn sống thành bầy đàn lớn thì phải tự túc được lương thực . Muốn tự túc được lương thực thì phải biết định canh , định cư , phải biết nuôi gia súc , thuần hóa trâu bò , cày cấy và trồng trọt . Con người phải nương tựa lẫn nhau mà sống , để vừa bảo vệ lẫn nhau tránh thú rừng hung dữ , vừa trợ giúp nhau trong công việc trồng tỉa , thu hoạch mùa màng . Con người phải trao đổi tư tưởng nên ngôn ngữ phải phong phú . Muốn lưu truyền những hiểu biết cho con cháu lâu dài về sau thì phải có chữ viết . Thế mà người nước Nam đã biết định canh , định cư , đã biết chăn nuôi và trồng trọt tự bao giờ rồi , trong lúc dân Hán vẫn chỉ là những nhóm nhỏ không khác chi những bộ lạc thiểu số người Việt sống sâu trong rừng già . Ai là mọi ? Ai man rợ ? Ai văn minh ?
Thế nhưng cướp ai và cướp ở đâu ? Hàng năm họ lân la về phía các làng mạc người Việt để giao du gặp gỡ người dân phương Nam và trao đổi hàng hóa . Họ bán cho dân Việt sữa , thịt và da thú .... Họ mua của dân Nam bột mì , khoai, sắn , bắp hạt , ngũ cốc các loại , trái cây , vải vóc và đồ trang sức bằng kim loại như vòng kiềng , bông tai , cũng như ngọc trai , xâu chuỗi làm bằng vỏ sò ốc hến .v.v.... Lâu dần họ quen đường đi nước bước vào những làng mạc dân Việt và khi đói ăn họ đã tấn công dân chúng nơi đây để cướp đi lương thực , gia súc , ngũ cốc mà họ cần . Chính vì quen chinh chiến và sẵn sàng giao đấu như những chiến binh nhà nghề chuyên nghiệp nên họ luôn thắng thế trong trận mạc khi phải tấn công dân tộc hiền hòa không quen chinh chiến ở phía nam . Nhờ đi bằng ngựa nên họ không bị mất sức khi phải truy đuổi địch quân . Khi giao đấu họ ngồi trên lưng ngựa tấn công từ trên cao nên họ dễ chiếm được thế thượng phong . Họ di chuyển lẹ làng nên đối phương rất khó đối phó xoay sở . Dân làm việc trong văn phòng làm sao địch lại được dân cao bồi Texas ? Đó là lý do họ đã đẩy được dân Việt lùi về phía Hoa Nam . Khoảng 4000 năm trở lại đây họ thắng thế và chiếm cứ vùng đất quanh lưu vực Hoàng Hà để lập ra cái nhà Hạ rất mơ hồ vì họ chưa biết cách gây dựng làng thôn , cấu trúc xã hội như dân Việt . Phải mất 500 năm nữa họ mới học được cách tổ chức xã thôn của người Việt và lập ra nhà Thương . Cách đây chưa đầy 2000 năm , cụ thể là vào những năm 40 - 43 sau Công Nguyên binh sĩ của Hai Bà Trưng vẫn còn tung hoành ngang dọc trên vùng đất Hoa Nam , nghĩa là phân nửa phía Nam nước Tàu ngày nay thuộc về đất Việt . Vùng đất này được mẹ Âu Cơ một mình xoay sở nuôi bầy con trăm đứa suốt từ ngày lập quốc . Cha Lạc Long Quân đã tử trận tại Trác Lộc , rất gần Bắc Kinh ngày nay . \
Tô Đông Pha chép rằng : ... Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống , không đời nào dẹp yên cả . Đời Tần (246-207 BC) tuy có đạt quan chức cai trị , xong rồi lại trở lại tình trạng man dị Bì Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận . Nhưng đến đời Đông Hán lại có người con gái là Trưng Trắc khởi binh rung động hơn 60 thành . Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ , thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh , bèn đóng cửa Ngọc Quan từ Tây Vực . Phương chi Nam Việt là chỗ hoang vắng , không đáng phiền luỵ đến quân đội nhà vua , nếu không phải Tuân Tức Hầu ( Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ !!
Điều này cho thấy người Việt suốt từ thời dựng nước trước đây khoảng 4.900 năm vẫn là một quốc gia độc lập , tự trị , không liên can gì tới người Hán từ khi mẹ Âu Cơ đưa con về phương Nam , rồi trải qua suốt mấy chục đời vua Hùng con cháu của mẹ . Đế Lai vua cha của mẹ Âu Cơ mà người Hán gọi ngài xách mé là Si Vưu cũng tử trận nơi đây . Nơi này rất gần với Cao Ly nên hậu duệ của ngài bôn ba lưu lạc sang Cao Ly ( Triều Tiên ) lánh nạn. Phân tách bằng phương pháp di truyền học qua DNA cho thấy hai chủng tộc Việt và Hàn rất giống nhau , nhưng lại khác xa các chủng phương bắc như Bắc Trung Quốc, Nhật và Mông Cổ ! Vậy là rõ . Việt và Hàn đích thực là con cháu Thần Nông như trong truyền thuyết .
Xưa kia người Hán chỉ ăn cướp xong rồi bỏ đi , họ vẫn để lại nhà cửa đất đai cho dân ta vì họ chưa có nhu cầu chiếm lĩnh ấy . Chỉ khi dân số tăng trưởng dần lên , thức ăn cạn dần , phải tập sống định canh định cư , lúc đó đời sống xã hội quần thể trở thành bắt buộc và nhu cầu chiếm lĩnh để thống trị mới trở nên cần thiết . Cụ thể là khi học lóm được bí quyết bí mật quân sự của ta thời Thục Vương tức là nghề đúc đồng , chế dao găm , kiếm và cung tên ,... mà ta quen gọi là bí mật "nỏ thần" thì chúng mới chiếm được vùng đất châu thổ Hoàng Hà của nước ta . Trên thực tế Triệu đà đã bị đồng hóa thành người Việt và phải đợi đến sau công nguyên , chúng đánh thắng Hai Bà Trưng thì chúng mới sát nhập vùng đất Hoa Nam vào nước Hán ( khoảng năm 43 sau Tây Lịch ). Quân và dân của Hai Bà có lẽ chạy về miền Bắc VN lánh nạn vào khoảng thời gian này . Tại sao dân chúng cũng phải tỵ nạn ? Các cuộc di cư lớn nhỏ đã luôn xảy ra trước chiến tranh , trong chiến tranh và cả sau chiến tranh nữa. Vì binh lính phương Bắc rất bạo tàn , đi đến đâu chúng chém giết bằng sạch nơi đó . Thứ nhất để tránh sự nổi dậy của dân chúng về sau hoặc sẽ không bị cản đường khi phải rút quân , thứ nhì những vùng đất chiếm đóng được sẽ được sát nhập vào đất của chúng như một chiến lợi phẩm . Chiếm lấy những làng mạc đã được người bản địa canh tác là những chiến lợi phẩm to lớn , chứ chiếm đóng những vùng hoang địa đâu có lợi ích gì !
Cha chết thì mẹ nuôi con . Lý thuyết dân Việt ta trước kia theo chế độ mẫu hệ đứng không vững lắm . Không thể chỉ căn cứ vào việc mẹ Âu Cơ nuôi con một mình và cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng , của bà Triệu Thị Trinh để có thể quyết đoán như vậy được . Nước Việt có lịch sử chiến tranh mấy ngàn năm như thế mà không kiếm ra lấy vài nữ tướng mới là chuyện lạ . Hai bà Trưng vốn con dòng cháu dõi , văn võ song toàn . Hai bà chỉ tiếp nối con đường phục quốc dở dang của anh rể và chồng bị bại lộ và đã bị giết chết . Quân đội đã có sẵn , mọi việc đều chuẩn bị . Đội quân ấy rất tinh nhuệ , thiện chiến , đã từng gây điêu đứng quân Hán bắc Phương nhiều phen . Chỉ trong 3 tháng mà đánh chiếm được 64 thành là 1 thành tích kinh hồn , chưa thấy đạo quân nào so sánh được , cho dù vũ khí tối tân với máy bay siêu tốc như hiện nay trong trận đánh “Bão táp sa mạc” của Hoa Kỳ tại Iraq. Xin nói thêm là lúc ấy nước ta vẫn độc lập . Hai Bà chỉ đánh đuổi sự tấn công quấy rầy của bắc quân mà thôi . Bắc quân ấy nhiều lần còn liên minh với quân của Hai Bà để tấn công nước khác kia mà . Sau khi thanh toán được các nước ấy , đạo quân ấy mới tấn công quân của Hai Bà . Bà Triệu cũng là gia đình con nhà võ . Ở VN võ gia truyền khá phổ biến . Hiện nay ở miền nam VN có cụ bà đã 105 hay 106 tuổi rồi mà vẫn còn dạy võ cho giới trẻ . Qua đó ta có thể mặc nhiên thừa nhận rằng , người Việt luôn dễ dãi chấp nhận chứ không câu nệ hình thức , không kỳ thị gái trai như người Hán hay nhiều dân tộc khác . Muốn chứng minh dân Việt có chế độ phụ hệ khá đơn giản . Quay ngược về qúa khứ , ta thấy lịch sử kể rằng dân Việt là con cháu vua Thần Nông. Kế đến là Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân . Con cháu đều mang họ cha . Không thấy nhắc gì đến Nữ Vương nào cả . Bà Âu Cơ cũng là con Vua Đế Lai , cháu vua Đế Nghi , chắt vua Đế Minh . Đó cũng chính là vua cha của Kinh Dương Vương . Có thể suy rộng ra rằng chúng ta dù theo họ nội hay ngoại cũng đều là hoàng thân quốc thích cả . Trải qua 18 dòng họ Hùng Vương về sau cũng không hề có nữ vương . Bà Nữ Oa chẳng qua chỉ là nhà bác học mà thôi . Bà không hề làm vua . Thực ra Nữ Oa chỉ là tên gọi , nghĩa là không hề có người này , việc này sẽ giải thích sau . Việc phong thánh cho Trưng Vương và Bà Triệu không ngoài mục đích cổ súy tinh thần nữ giới mà thôi .
Xin chép ra đây 1 bài báo “lệnh ông thua cồng bà “ để ta cùng suy gẫm :
Với thành ngữ này, việc nhận biết ý nghĩa và khả năng vận dụng không khó khăn gì. Về mặt ngữ nghĩa, chỉ có chữ “lệnh” là điều băn khoăn duy nhất. Nên hiểu “lệnh” là “mệnh lệnh” hay là “cái lệnh”, một dụng cụ thường dùng ở các nhà thờ, đền chùa? Trong thế đối ứng với “cồng” người ta dễ chấp nhận “lệnh” là dụng cụ phát ra âm thanh. Cái đáng quan tâm nhất thành ngữ là tại sao lệnh ông lại không bằng cồng bà. Trong dân gian có hai cách hiểu vấn đề này.
Theo nhiều người, thành ngữ này gắn liền với việc chiêu mộ binh lính của anh em Triệu Thị Trinh. Trong khi Triệu Quốc Đạt phát lệnh chiêu tập binh lính kết quả không được bao lăm, thì bằng tiếng cồng vang vọng, Triệu Thị Trinh đã tập hợp quanh mình rất nhiều nghĩa sĩ.
Nhiều người khác lại khẳng định xuất xứ của thành ngữ này gắn liền với tục cưới xin ở một số dân tộc ít người. Số là, khi làm lễ cưới, bên nhà trai phải phát lệnh trước để xin dâu, nếu đồng ý thì bên nhà gái đánh cồng đáp lại. Trong trường hợp, không nghe thấy tiếng cồng đáp lại tức là chưa được rước dâu. Rõ là, tiếng cồng nhà gái (cồng bà) có quyền quyết định tối hậu.
ại sao ta lại qủa quyết được rằng , Hán tộc không những chỉ cướp nhà , cướp đất dân ta mà còn cướp luôn cả lịch sử , tổ tiên của ta cũng như cướp luôn tài sản văn hóa , tinh thần mà cha ông ta tác tạo ra như vậy ? Người Hán đã cướp của ta cả của cải vật chất lẫn linh thần . Không bóc mẽ chúng , ta không thể nào đòi lại tài sản tổ tiên ta , ít nhất là về mặt tinh thần . Loài thảo khấu , ăn cướp ấy nói gì ?
Sử Hán cho rằng tổ tiên chúng là ông Bàn Cổ . Nhưng Ông Bàn Cổ là ai ? Sử Hán viết : Bàn Cổ từ trong trứng nhảy ra đầu đội trời chân đạp đất, đến 18 ngàn năm, rồi chết. Thân thể và tứ chi, lông tóc, mắt mũi của Bàn Cổ biến thành muôn vật trong vũ trụ, với trung tâm là nước...Tàu !!! Sau Bàn Cổ ít lâu đến thời Tam Hoàng và Ngũ Đế. Có nhiều giả thiết khác nhau về tên của 3 vị Hoàng với 5 vị Đế đó. Tam Hoàng thường kể đến nhất gồm có: Hoàng Đế, Phục Hi, và Thần Nông. Còn những vị Ngũ Đế quen thuộc nhất bao gồm: bà Nữ Oa (đội đá vá trời), vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun). Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn. Thuấn truyền ngôi cho Yũ (Vũ). Yũ thiết lập nên nhà Hạ, triều đại đầu tiên của Trung Hoa. Nhà Hạ truyền đến 18 đời thì bị mất về tay Thành Thang, dựng nên nhà Thương (Shang), cũng còn gọi Ân (Yin). Theo thứ tự từ đầu, chỉ có Nghiêu và Thuấn là có vẻ bán huyền thoại , tức có thể là ‘người’ có thật. Cũng có thể không phải người. Còn mấy vị Tam Hoàng, Ngũ Đế thì hoàn toàn mang đầy tính huyền thoại, dùng làm biểu tượng cho thời đại, cho nền văn minh, có vẻ đúng hơn. Nhà Hạ có thật hay không, cũng không chắc. Nhưng nhà Thương đã được chứng minh là có thật, bằng các tài liệu khai quật của ngành khảo cổ. Tuy nhiên các niên đại cho đến nay vẫn chưa có thống nhất.
Vậy ta thấy ngay rằng Bàn cổ hay Bành tổ hoặc Thái Tổ hay Thủy Tổ chỉ là một tên gọi một khái niệm của một thể trạng mà thôi không hơn không kém , cũng như tên gọi của đất , trời , sông , núi , Penicilline, ..... Đó chính là khái niệm về Thái Cực trong Dịch học , là Nhất Nguyên , là Nguyên Ủy , là cái đầu tiên trên hết mọi thứ , mọi sự , là đầu mối căn nguyên của mọi việc . Cái tên đó không phải là tên gọi của một nhân vật sống thực trên đời . Ta quan niệm rằng từ "Cái tiên khởi" ấy đã phát sinh ra Lưỡng Nghi và từ Lưỡng Nghi để có Tứ Tượng , có Bát Quái .v.v.... Ông Bàn Cổ là cha đẻ ra muôn loài . Nói cách khác : Đó là ông Trời . Trời sanh ra âm dương và âm dương sanh vạn vật . Ông Bàn Cổ là sản phẩm tinh thần của Việt Nam , giống như Penicillin là tên gọi sản phẩm thuốc kháng sinh do BS. Alexander Fleming tìm ra vậy thôi . Của César phải trả lại César , của người Việt hãy trả lại dân Việt !!
Khái niệm này dân Do Thái đã chép “cóp” lại và được mô tả trong sách sáng thế vào khoảng năm 1.500 BC . Họ nói rằng : từ thuở khai thiên lập địa đã có Đức Chúa ( Thái-Cực) bay lượn rồi sanh ra ánh sáng (dương) soi sáng bóng đêm (âm), phân biệt ngày ( Dương ) và đêm ( Âm) . Đoạn sanh ra trên là trời (dương) , dưới là đất (âm) , rồi từ đây mới có hoa trái , cỏ cây, muông thú và loài người . Thủy tổ loài người cũng là một âm ( Eva) và một dương ( Adam). Âm và dương nguyên thủy này bắt đầu sản sinh ra con cháu. Đây chính là phiên bản của cặp Phục Hy và Nữ Oa của Việt tộc !
Thế còn cái ông Hữu Sào là cái ông dạy dân chúng làm tổ trên cây để ở hòng tránh thú dữ đêm đêm mò về làng ăn thịt dân thì sao ? Hỏi là đã trả lời : Thứ nhất chúng làm gì có làng mạc mà mò về làng ? Thứ nhì đất Trung nguyên làm gì cây mọc được mà trèo lên cây để làm tổ vậy ? Rừng ở đâu ra ? Chúng chôn cất ra sao thì ta đã biết . Đây là trò kể chuyện xạo như cách nói cà rem phơi đầy đường mà thôi .
Còn cái ông vua Thần Nông dạy dân cấy cày và trồng trọt , tức là ông vua ngành trồng trọt ? Dân Hán trồng trọt được trên đá bàn từ thuở nào ? Dân Hán cày đá được từ bao giờ ? Chúng lấy gì để cày ? Chúng lấy hạt gì để gieo trên đá cứng ngập tuyết ? Chúng tưới cây bằng chất lỏng nào ? Hơ tuyết cho tan rồi đem tưới ? Chúng lấy củi ở đâu ra để nấu tuyết ? Muốn trồng trọt phải chuẩn bị đất đai hàng nhiều tháng , nhiều năm , những năm , tháng đó chúng ăn cái gì ? Có phải là chúng phải mò về phía nam để mua ngũ cốc của dân chúng nước Nam hoặc đi ăn cướp hay không?
Vua Thần Nông tên thật là Đế Viêm , sanh khoảng năm 3.100 - 3.200 BC hoặc sớm hơn vì người thời đó sống khá lâu , thí dụ Triệu Đà sống đến 121 tuổi và làm vua đến 70 năm . Đế Viêm vốn là ông cố nội của Đế Nghi tức vua cha của Kinh Dương Vương ( tức Lộc Tục vua nước Xích Qủy ). Bà Âu Cơ là cháu 3 đời của Đế Nghi , tức là cháu 6 đời của vua Thần Nông . Đế Viêm là vị vua xứ nóng . Xứ nóng so với bắc cực của dân du mục Hán tộc là xứ nào ? Có phải là vùng châu thổ ấm áp Hoàng Hà và Dương Tử , phía đông bắc tỉnh Quảng Đông ngày nay , nơi thuận lợi trong nghề canh nông , trồng trọt hay không ? Muốn trồng trọt phải có nước , có đất . Thần Nông trồng trọt gì trên cao nguyên lởm chởm đá tảng ? Muốn tuyên truyền cho dân chúng tin rằng người Hán có văn minh trước người Việt thì người Hán phải dạy cho dân ngành trồng trọt , muốn cho lời tuyên truyền ấy có sự thuyết phục cao thì Hán phải nhận vua Thần Nông là vua của họ . Nên nhớ người Hán lúc đó làm gì có quốc gia mà đòi có vua ?! Vậy vua Thần Nông là người nước nào ? Cứ nói dối , nói dối , nói dối mãi thì dần dần cũng sẽ được chấp nhận thôi . Đây là cách của Hán lừa bịp dân Việt suốt hàng ngàn năm nay . Chúng đã khá thành công . Ngày nay cách này cũng đang được gian thần CS VN áp dụng với tuổi trẻ Việt .
Sang đến ông Toại Nhân , ông ấy tìm ra lửa . Toại Nhân nghĩa đen là khoan vào cây để lấy lửa . Người đi rừng không có lửa thì dùng một cây đũa to vói nhọn đầu , đặt giũa hai lòng bàn tay rồi vừa nhấn thật mạnh vừa vo tròn cây đũa vào một khúc củi khô nhiều lần . Lực ma sát khiến cho đầu đũa nóng đỏ lên và bốc cháy. Đó là mẹo tạo ra lửa của Toại Nhân . Không có rừng sao có củi ? Ông ấy tìm đâu ra than , ra củi để nấu nướng ? Ông ấy giữ lửa bằng cái gì ? Bỏ than lên lòng bàn tay mà chạy mấy tháng liền ? Rừng ở đâu ra cho sét đánh để lấy lửa vậy ? Hay là sét đánh cháy tuyết ? Lý thuyết của dân mọi rợ.
Phục Hy tìm ra Kinh Dịch nữa . Phục Hy ra đời đã 7 đến 8.000 năm . Theo sử Hán thì còn gìa hơn nhiều vì Phục Hy kế vị ông Bàn Cổ làm vua thiên hạ ! Trên Trung nguyên có ao hồ không nhỉ ? Nếu có thì nước có đóng băng không ? Nếu không có ao hồ , sông ngòi hoặc gỉa như có nhưng nước quanh năm băng gía thì rùa và Long mã sống làm sao ? Không có rùa và long mã thì sao rùa và long mã có thể nổi lên để dâng cho ông ta Hà đồ và Lạc Thư được vậy ? Lại là chuyện Ti vi chạy đầy đường đây mà .
Bà Nữ Oa đội đá vá trời nữa . Nữ Oa là ai ? Có sống thực hay không ? Phục Hy cũng vậy ? Bà Nữ Oa chính là vợ của Phục Hy . Nữ Oa và Phục Hy luôn luôn quấn quýt vào nhau . Cặp đôi tương quan Phục Hy và Nữ Oa chỉ là tên gọi của Lưỡng Nghi , tiếng Nôm là cặp Âm và Dương quyện lấy nhau , là kết qủa của Bàn Cổ mà ta gọi là Thái Cực sinh Lưỡng Nghi đó . Thay vì nói Âm ta nhân cách hóa thành Nữ Oa , thay vì nói Dương ta gọi tên nó là Phục Hy . Cặp đôi ấy không thể nào tách rời nhau ra được . Đó là hai mặt của một đồng tiền , là hai cực của một nam châm .... Đây là kết qủa do quan sát (tham thiền nhập định , mật tông , nhìn bằng TÂM - nhà Phật gọi là Tuệ Nhãn hay Huệ Nhãn - chứ không chỉ nhìn bằng mắt thường mà thấy được ) mà cha ông ta thu thập được . Đây chính là cốt lõi Triết Học Đông Phương ! Thí dụ như Giàu và Nghèo là hai đối cực . Giàu không thể hủy diệt nghèo và nghèo cũng không bao giờ thủ tiêu Giàu . Bỏ đi một cực của nam châm hay bỏ đi một mặt của một đồng bạc có được hay không ? Bỏ người giàu đi , người nghèo có thể tồn tại hay không ? Bỏ người nghèo đi thì có ai giàu nữa không, dù cho mỗi người có tài sản hàng chục triệu , chục tỷ đô la trong tay đi nữa ? Điều này phủ định chế độ CS , coi Trí Phú Điạ Hào là kẻ thù . Giàu và nghèo quấn quýt nhau để sống . Các cặp “âm & dương” trong tự nhiên như : vua tôi, cha con , vợ chồng, trên dưới , chủ tớ, thày trò , vật chất & tinh thần ,… luôn phát sanh và tồn tại đồng thời , tương quan này đã có từ khi có vũ trụ và có con người . Duy trì sự sinh tồn của tạo vật và duy trì đời sống con người là “thuận thiên “ gọi là lẽ sống . Lẽ sống ấy gọi là “ĐẠO” . Cho nên ta có đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng , đạo thầy trò,…. Lão, Trang chủ trương sống cái “lẽ đạo” ấy , thuận theo “đạo” ấy mà sống , làm tất cả cho “đạo” ấy mà như không làm gì hết, cốt để duy trì đời sống trường cửu. Cha ông ta dạy như thế đó . Người Hán cho là đã phát minh ra “Dịch Học” mà sao không hiểu được việc này nhỉ ? Vợ chồng Phục Hy , Nữ Oa là sản phẩm người đất Việt vậy . Đội đá "ngũ sắc" vá trời còn hàm ý thông hiểu thiên văn , dịch lý , tức là trên hiểu lòng trời , dưới thông phong thủy . Ở đây ta lại thấy xuất hiện ý tưởng "ngũ " trong "ngũ hành", chính là chất xúc tác cho cặp đôi Âm-Dương hành động . Người Việt thâm thúy đến thế . Muốn hiểu trời thông đất thì phải nghiền ngẫm quan sát , rành khí tượng , thông thiên văn , chế tạo ra lịch mà biết tháng nào ăn , tháng nào chơi , tháng nào nghỉ , tháng nào ngơi mà ta có ngày Tết vậy . Nhưng để làm gì thế ? Làm nghề nông mà không thông khí tượng thì khác gì đi tự sát ?
Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc , tháng ba rượu chè
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Để cho ta lại làm mùa tháng năm ...
Ráng mỡ gà thì nắng , ráng mỡ chó thì mưa .
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa , bay cao thì nắng , bay vừa thì râ
Người ta đi cấy lấy công.
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa , trông nắng, trông ngày , trông đêm.
Không trông ắt không thấy. Không thấy ắt không biết được . Đầu mối của cái biết chính là cái quan sát vậy ! Quan sát chính là chiêm quan tĩnh tọa.
Có hàng trăm hàng ngàn câu ca dao tục ngữ để nói về thời tiết , khí tượng như thế . Âu cũng là do kinh nghiệm hàng chục ngàn năm trồng trọt mà thu lượm được . Ai đã dạy ai trồng trọt vậy ? Vậy Vua Thần Nông là người nước nào ?
Người nước Nam có của ăn của để nên mới biết đến Đạo . Có thực mới vực được đạo là thế . Đạo đây là những tài sản tinh thần . Phú qúy mới sanh lễ nghĩa , văn chương thi phú , đàn ca nhạc kịch mới phát sinh để phục vụ tinh thần cho con người . Nếu chỉ biết lo cái ăn cái mặc không thôi thì đầu óc đâu ra để sáng tác chứ ? Cái nghèo đi đôi với cái hèn là vậy .
Các vua Nghiêu , vua Thuấn mấy ông ấy sanh năm nào ? Trước 2879 BC hay sau đó ? Tên "họ" các vị ấy là gì ? Sao không gọi bằng "họ" như dân Tàu mà lại gọi bằng "tên" theo lối gọi của người Việt ? Tại sao người nước Nam gọi tên mà không gọi họ ? Là vì người nước Nam đến lúc đó vẫn chưa dùng họ . Cho nên có gọi là Đế Nghiêu , Đế Thuấn là đương nhiên thôi . Hơn nữa người nước Nam mới gọi là Đế Nghiêu , Đế Thuấn , còn người phương Bắc gọi vua của họ là Hoàng đế chứ không gọi là đế hoàng . Kế đến thử hỏi mấy vị hiền nhân quân tử nêu trên do ai đào tạo mà ăn hiền ở lành được như vậy ? Họ học sách của ai ? Dân Hán sống riêng lẻ từng bộ lạc nhỏ như vậy thì làm gì có vua , có chúa , có đất nước mà hòng có Đế này , Đế khác , hòng gì có lịch sử ? Nước các ông nằm ở đâu ? Kinh đô đặt nơi nào ? Ai đóng thuế cho vua ?
Hán tộc có quốc gia và lịch sử từ khi nào? Sử Hán cho là từ thời vua Thần Nông hoặc sớm hơn . Không có đâu . Theo họ nhà Hạ cai trị từ năm 2.205 BC tới năm 1.766 BC , tức là có sau VN gần 700 năm . Ông vua đầu tiên của nhà Hạ tên Đại Vũ. Thực tế các ông vua nhà Hạ này qúa sức mơ hồ ( không có thực ) , vì đây chính là giai đoạn người Hán xâm lược vùng đất tổ tiên ta rồi lập quốc , bắt đầu học đòi cách cai trị bằng hình thái quốc gia như dân Việt , nghĩa là bắt đầu có Vua . Các ông vua này có tên rất mơ hồ là Hoàng Đế , Hoàng Đế nghĩa là “lãnh chúa vùng sông Hoàng (đất vàng) ” . Trước khi có Hoàng đế thì ai là chủ nhân ông của vùng Hoàng Hà ??? Vậy khái niệm Tam hoàng , Ngũ đế của họ chính là giai đoạn cai trị của nhà Hạ (từ 2.200 BC về sau) ! Nhưng họ cố nâng tuổi mấy ông ấy lên cho ngang tầm với thời Thần Nông để không bị thua lịch sử của người Việt cho nó " oai " . Đồng thời họ lấp đầy khoảng trống Tam Hoàng, Ngũ đế này bằng nhà Hạ !!! Vì thế mà các nhà sử học sau này cứ vò đầu bứt trán mãi về cái nhà Hạ không rõ ràng này .
Tam hoàng theo họ gồm có Thần Nông, Phục Hy và Nữ Oa. Những tên gọi này không phải tên nhân vật mà chỉ là tên gọi của Dịch học như đã thưa ở trên và đã được người nước Nam nghĩ ra đã khá lâu rồi , có thể khoảng năm 8.000 BC ! Ngũ đế gồm : Hoàng Đế , Chuyên Húc , Đế Khốc , Đế Nghiêu , Đế Thuấn . Thế cái bà vợ Nữ Oa của Phục Hy đâu ? Có nơi cho rằng Bà ấy là một trong ngũ đế . Vậy là bà ấy sanh sau Phục Hy cả thế kỷ thì làm sao mà quyện với Phục Hy cho được ?! Vì không biết được Phục Hy , Nữ Oa là một, nên chúng lúng túng không biết nên xếp Nữ Oa vào giai đoạn nào, dù chúng biết Nữ Oa là một nữ thần !
Mãi từ năm 1.700 BC mới có lịch sử rõ ràng là nhà Thương / nhà Ân , tức là có sau sử Việt 1.200 năm !!! Tại sao đến lúc đó nước Hán mới lập quốc và mới bắt đầu có vua vậy ? Thứ nhất là vì họ học hỏi được từ người Việt cách tổ chức tập thể , thứ nhì đất đai nhà cửa ruộng vườn mà nói như cách gọi hiện nay là hạ tầng cơ sở mà người Hán cưỡng chiếm được sẽ nuôi dưỡng họ , để rồi từ đó họ không còn phải bôn ba xuôi ngược kiếm ăn như trước nữa và phải mất hàng trăm năm , họ mới lãnh hội được đời sống định canh định cư , cách tổ chức xã hội có bầy có đàn và mới có kinh đô , có vua có chúa . Điều này đồng thời khẳng định rằng , những vị vua trước đó như vua Nghiêu , vua Thuấn chính là vua nước Việt . Nói khác đi , đó là người Việt . Phải trả về cho người Việt !!!
Đến đời Hùng Vương thứ 6 , vào khoảng năm 1.760- 1.690 trước Tây lịch , thánh Gióng đã xin vua đúc cho ngài 1 con ngựa sắt và 1 cây gậy sắt . Ngài đánh hăng đến nỗi gãy cả gậy rồi phải nhổ tre lên mà đánh . Điều này nói lên rằng lúc đó ta đã biết đúc sắt nhưng vì sắt còn hiếm hoi, không đủ sắt để làm vũ khí nên phải dùng cả gậy tre để đánh giặc . Môn võ gậy Bình Định ngày nay vẫn còn phổ biến rộng rãi . Gìa trẻ gái trai đều thông thạo . Trẻ lên 3 cũng đánh giặc . Vậy chuyện Thánh Gióng hoàn toàn hợp tình hợp lý . Nói đến ngựa sắt làm ta liên tưởng đến con ngựa gỗ thành Trois . Ngày nay nói con ngựa sắt là nói đến xe 2 bánh gắn máy và nói con trâu sắt là nói tới xe hơi . Thời xa xưa cách đây 3.700 năm làm gì có máy nổ cho xe chạy . Nhưng ngựa gỗ thành Trois cũng đâu chạy bằng máy nổ mà bằng sức người . Điều đó khiến cho ta thấy rằng , các cụ nhà ta khi xưa đã biết chế tạo xe tăng , thiết giáp . Nấp trong áo giáp kín như bưng mà tấn công địch thì giặc thua chạy là đúng qúa rồi . Hình dung ra thánh Gióng 3 tuổi cưỡi ngựa sắt đánh giặc qủa là thiên tài rồi . Nhưng sao lại nhắc tới tre ?
Tre vốn chỉ mọc ở vùng ôn đới ấm áp . Tre cho măng để ăn , cho thân để làm nhà , làm gậy chống , làm cán cuốc , cán dao , làm vũ khí đánh giặc . Dĩ nhiên tổ tiên ta không dại gì vót nhọn gậy tre mà đâm giặc ngồi trên lưng ngựa đâu .Tre chắc chắn không mọc trên đá sỏi trung nguyên rồi . Vậy điều gì đã xảy ra với tre và đồng mà quân Triệu Đà đánh mãi không thắng ? Có phải thần Kim Quy hiện ra giúp vua An Dương Vương thật không ? Lại một lần nữa nhắc đến rùa .
Ta đã biết giặc thường ngồi trên lưng ngựa và phóng thật mau vào mục tiêu . Ngày nay cảnh sát kỵ binh vẫn còn dùng ngựa vì ưu thế của nó . Vì thế ta không thể nào ngồi đợi chúng đến gần mà xáp lá cà được . Vậy thì lấy tre vót thành tên gắn mũi nhọn bằng đồng mà bắn từ xa . Giặc không ngờ được việc này nên cứ xông lên bao nhiêu thì gục ngã như rạ bấy nhiêu . Khiếp mất vía giặc đã phải lui binh và tìm kế tình báo nội gián để học lóm cách luyện đồng và chế tạo cung tên . Nhờ thắng giặc nên ta đã phong thánh , phong thần cho nỏ thần và rùa thần , ...
Tre cũng còn dùng làm mái nhà rất nhẹ nhàng nên mới xảy ra chuyện mái nhà cong là nghệ thuật phương nam và bị người Tàu phịa ra là kiến trúc phương bắc . Thẻ tre cũng được dùng làm sách viết cũa ta nữa .
Xứ nóng phương Nam cũng là nơi rùa lớn rùa nhỏ sinh sôi nảy nở . Người ta dùng mai rùa để làm bảng ghi chú những gì cần nhớ . Vậy thần rùa chính là sách vở để các cụ tra cứu . Khi luận tử vi phải giở sách ra tra nên có chuyện bói mai rùa . Không có mai rùa , thẻ tre thì người Hán viết lên đâu ? Đến khi có giấy cũng là phát minh của dân Việt . Vậy văn minh Hán nằm ở đâu ?
Hôm nay đây nước Hán đang ra sức chuẩn bị một lực lượng quân sự hùng mạnh với hy vọng phát tán ra bên ngoài khả năng của mình , nhưng thực tế chúng tự tố cáo rằng bên trong chúng đang bất an cùng cực . Việc phô trương thanh thế bằng quân đội có vũ trang hỏa lực mạnh ấy chỉ để nhằm xoa dịu những bất mãn khủng khiếp trong dân chúng , nhất là đối với giới trẻ và đối với các bộ tộc không mang dòng máu Hán tộc rằng chúng mạnh lắm , cứ an tâm tin tưởng vào chúng đi , chúng sẽ chiến thắng về mọi mặt kể cả quân sự lẫn kinh tế . Chúng tạo ra thặng dư mậu dịch rất lớn đối với nước Mỹ và nước Mỹ chỉ là con nợ của chúng và chúng có thể ngồi sai khiến Mỹ !
Mặt khác nữa chúng xua quân chiếm giữ một phần lớn các hải đảo quan trọng của VN để tạo cho dân Hán một niềm tin vào chính quyền , như vậy chúng sẽ xoa dịu đi những chống đối chưa có cơ hội bùng phát bất cứ lúc nào đang từng phút đe dọa nước này . Cũng có một vài cá nhân ngây thơ tin tưởng lý thuyết bịp bợm này , nhưng liệu rồi đây những lời bịp bợm ấy có còn hiệu lực hay không ai mà biết trước được .
Đòi lại văn minh Việt được thì rồi đây cái ảo ảnh nền văn minh rực rỡ Hoa Hạ 5000 năm kia sẽ tan vỡ như bong bóng . Những kẻ sùng bái , hâm mộ Hán và Việt rồi đây sẽ phải xót xa nhận ra thần tượng của họ mặt thật là thảo khấu , côn đồ . Nước Hán sẽ tan thành giẻ vụn .
Nhiều người sẽ đặt câu hỏi rằng sao nước Hán là nước hung đồ kinh niên như thế mà vẫn bình chân như vại , không dùng cách gì để đối phó hòng diệt trừ hậu họa cho nhân loại ? Sao lại giúp vốn và cứ đầu tư tiền của cho chúng lớn manh mãi lên ? Lớn mạnh lên để cho chúng đi đánh phá lân bang , mở rộng bờ cõi , hủy diệt nhân loại , hủy diệt văn minh toàn cầu ?
Đặt câu hỏi như thế là đã đặt ra câu hỏi của thế giới . Đặt được câu hỏi này là đã gián tiếp trở thành thành viên của Hội Kín . Những người đặt câu hỏi như thế đã từ lâu ngấm ngầm bắt tay thực hiện kế hoạch chiêu dụ rợ Hán hoặc đi vào đường khẩu phục tâm phục mà chấp nhận sống văn minh hơn , sánh vai với thế giới hoặc sẽ phải tan rã thành trăm mảnh . Hành động ngấm ngầm của nhóm nên được gọi là Hội Kín . Có kín mới dụ được địch . Muốn cho Hán lộ nguyên hình con chồn ly tinh thì phải giúp chúng mạnh lên . Mạnh lên thì chúng xâm lược VN và lân bang . Chiếm được lân bang thì chúng sẽ chiếm luôn thế giới . Thế giới sẽ chẳng khoanh tay ngồi nhìn nữa . Thế giới hôm nay thình lình rút tiền đầu tư ra thì xã hội chúng sẽ náo loạn vì thất nghiệp . Xã hội bất ổn thì tan tành . Đúng là tiến thoái lưỡng nan .
Thế giới phải mất vài trăm năm để đạt được thành tích hôm nay . Thế giới đã ra tay . Thế giới không bình chân như vại . Hán có thể lường bịp dân Hán và dân Việt , nhưng làm sao có thể bịp được cả nhân loại chứ ?
Giữ vài hòn đảo ngập mặn của VN làm gì ? Hành vi thảo khấu không còn hợp thời rồi . Tiến bộ lên đi chú Sam !! Hãy tập sống văn minh đi , đừng man rợ mãi như người thời tiền sử nữa !
Hạ Miên Trường
No comments:
Post a Comment