VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Tuesday, May 10, 2011

TÔI RA XỨ HUẾ

TÔI RA XỨ HUẾ

 Tùy bút:
     Khoảng tháng Mười năm 1888, khi viên tổng trú-xứ ở Huế là Etienne Richaud vừa nhậm chức toàn quyền ít lâu, dịp này triều đình Việt-Nam mới cho thành lập một ban đại diện gồm cả ông Nguyễn-Văn-Mại tháp tùng, ông Mại là người vừa được thăng làm tự-vụ, sung hành tẩu, trực thuộc binh bộ thượng thơ cơ mật viện Hoàng-Hữu-Tường. Phái đoàn có nhiệm vụ tổ chức liên lạc định ngày đem vàng bạc châu báu, của hiếm vật lạ, sang chúc mừng quan tân toàn quyền Pháp tại Việt-Nam. Nhân tiện, thấy sẵn cơ hội, Hoàng-thái-hậu Từ-Dũ cũng gửi hai viên ngọc như-ý làm quà tặng người khách viễn phương.
     Bên ni sông, là kinh thành của vua Đồng-Khánh, bờ bên kia có tòa tổng trú-xứ…sự qua lại còn phải dùng đò ngang chòng chành, diệu vợi…Hôm ấy chẳng may lại gặp mưa to gió lớn, các đồ tặng phẩm chia làm mấy chục thứ để ở long đình lập danh sách, sắp xếp kiểm tra canh gác, rồi cắt đặt nhiệm vụ người nào việc ấy cẩn thận che đậy đem xuống thuyền…vậy mà chẳng may mọi người lật đật nhiều việc cũng đã quên mất hai viên ngọc như-ý.
     Đến tòa thì các quan chia nhau bưng tặng phẩm vào mà không thấy hai tráp đựng ngọc. Đoàn-trưởng Nguyễn-Hữu-Độ hỏi đi hỏi lại, các quan lớn đều sợ hãi bồn chồn lui ra, đổ lỗi cho Nguyễn-Văn-Mại, ông Mại bình tĩnh, một mặt ủy cho hai người thừa phái về viện kiếm tìm,ông nghĩ trong viện lẽ nào có người dám ăn trộm ngọc…,một mặt vào tòa thưa rằng:
     “Hai tráp ngọc ấy để riêng một long đình, đem xuống một long thuyền nhỏ, nhân vì mưa gió nên chưa tới…”
     Đình thần lấy làm lo lắng, biết là lời khai không thực, may sao, lát sau người thừa phái bưng ngọc đến…các quan mới vui mừng vào tiệc, rượu tây mới được khui ra, bồi bàn mới chạy lăng quăng, phong tục tuy khác biệt, ngôn ngữ lại bất đồng, chẳng thấy nói ở đấy có thông ngôn hiện diện làm việc hay không, nhưng điều đó nhằm nhò gì, gặp nhau đây, chủ khách đều hiểu vị trí của mình nên đã đãi ngộ thù tạc trong tinh thần “Pháp Việt đề huề”…thật thà, tha thiết, cởi mở!
       Đúng ra đây là một sự việc nhỏ, nhưng cũng gây nhiều hồi hộp, cái tóc cái tội, giữa chốn quan quyền vua chúa, sơ xuất mất đầu như bỡn, về sau chính ông  Nguyễn-Văn-Mại  có kể trong tập Lô-Giang Tiểu-Sử còn lưu truyền đến bây giờ. Ngay đó các quan hỏi, nếu tìm không ra thì nói sao? Ong Mại trả lời “Thì tôi nhận chìm một con thuyền và đổ cho mưa gió…” Mọi người nghe vậy ai nấy trợn mắt kinh ngạc trước mưu toan sắp đặt to gan của đương sự.
     Nguyễn-Văn-Mại (1858-1945) bút hiệu Tiểu-Cao, quê làng Niêm-Phò huyện Quảng-Điền đậu phó bảng hai lần (năm 1885 và 1889) sau được cử làm quản giáo chuyên về Hán văn  song song với cụ Ngô Đình Khả làm quản giáo về Pháp văn cùng trường Khải-Định, ngoài cuốn Lô-Giang-Tiểu-Sử cụ Mại còn là tác giả tập Việt-Nam Phong Sử, cắt nghĩa rành mạch 100 câu phong dao lịch sử từ thời Hồng-Bàng…Đường công danh thênh thang, sáng lạn, cụ lên tới chức An Sát Quảng-Nam và rồi về hưu với hàm tổng đốc thọ gần 90 tuổi.
       Việc quên ngọc như-ý hồi ấy chỉ là một trường hợp hãn hữu, nếu chẳng phải quá giang, phái đoàn sẽ tránh được nhiều phiền toái lỉnh kỉnh và biết đâu nhờ đó sẽ không sẩy ra vụ quên ngọc, tuy nhiên chẳng phải vì lý do quên ngọc mà người ta mới rõ sự ích lợi của việc xây cầu làm cống.
      Thực tế đâu lạ gì, xưa nay hễ có sông, có dân là có cầu. Cầu cống là rất cần thiết.Nó giúp ích thuận lợi trong việc mưu sinh chợ búa đổi trao, tiện nghi qua lại họ hàng thân thuộc…thế thôi, Tình hình Việt-Nam hồi đó mà nói rằng cầu cống còn góp phần làm tăng trưởng kinh tế, văn hóa có lẽ hơi sớm. Dân làng giầu có làm cầu sắt, cầu bê-tông, cầu ngói… nếu nghèo làm cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo thậm chí kiếm mấy thân cây dài cắm xuống nước buộc lại thành hình chữ X rồi để thêm một cây nữa bắc ngang như cái sào phơi làm cầu khỉ cao chênh vênh cũng được.
      Khúc sông Hương chẩy qua kinh thành Huế là vùng đất quan trọng hơn nơi nào khác, với lâu đài vua chúa bên ni, với tòa Trú sứ của quan Đại Pháp bên kia, với “nhiều bà đầm ngoi đít vịt, lắm ông cử ngỏng đầu rồng.”. Thì lại càng cần nhiều cầu cho tiện việc sinh hoạt hàng ngày,  nên nơi đây về sau thấy xuất hiện cây cầu khá quan trọng, khá nổi tiếng đó là cầu Trường-Tiền thì cũng chẳng có gì ngạc nhiên.
     Theo sách Cố Đô Huế của học giả Thái Văn Kiểm, thì cầu Trường-Tiền làm từ năm Thành Thái thứ 9 (1897) cầu dài 400 mét và sở dĩ có tên Trường Tiền vì ngày trước gần đấy có một xưởng đúc tiền.
                       Nhớ bến Trường-Tiền có cây đa bóng mát
                       Gần bến Bồ-Đề có bãi cát phẳng lỳ.               
     Đại Nam Nhất Thống Chí nói rõ hơn: “Trường Tiền Thiết Kiều”  ở đông nam kinh thành, bờ phía bắc thuộc về phường đệ nhất, tổng Phú Xuân huyện Hương Trà, bờ phía nam thuộc phường đệ bát. Khởi làm năm Thành Thái thứ 9 (1897), cầu có sáu gian, mỗi gian 66 thước 8 tấc 5 phân; Bề ngang 6 thước 2 tấc trọn bề dài 401 thước 1 tấc đến năm Thành Thái thứ 11 mới xong.
      Lại theo cuốn L’Empire d’annam của Capitaine Ch. Gosselin thì cầu khởi công tháng 5 năm 1889 hoàn thành tháng 10 năm sau. Sàn cầu lát bằng gỗ lim, ra đời chưa được mấy năm bị gió bão năm Thìn, ngày 14 tháng 9 năm 1904, đánh xập, thế là thêm một lần phải… “đúc lại xi-moong!”.
                          Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại  
                          Cầu Tràng Tiền đúc lại xi moong.
     Từ ngày “đúc lại xi-moong” tưởng chiếc cầu sẽ bền vững dễ dàng cho cư dân hai bên bờ đi lại thân tình, cho “em tôi qua lấy chồng làng bên” hạnh phúc, nào dè nó vẫn còn nổi trôi theo vận nước bấp bênh:
                          Cầu Trường-Tiền bấy nhiêu năm qua lại
                          Kể từ đời Thành Thái đến nay
                          Chạnh lòng biết hỏi ai đây
                          Việc chi nên nỗi đang tay giựt cầu.
                                                       Ưng-Bình.
     Nhân tiện đến đây xin kể một giai thoại liên quan đến chiếc cầu Trường-
Tiền trong tập hồi ký của Đặng-Thái-Mai ghi lại như sau:   
     “Một tin đồn rằng ngày cái cầu Trường-Tiền bắc qua sông Hương, được khởi công lần thứ nhất thì lão khâm-sứ, hôm bắt đầu đặt hòn đá móng cho công trình đã nói với vua:
     - Khi nào cái cầu này gẫy thì nhà bảo hộ sẽ trả lại nước An-Nam cho bệ hạ!
     Nào ngờ đâu, cái trận bão năm Thìn “1904” đã xô ngã nhịp cầu đầu tiên xuống sông. Thế là mấy ngày sau khi nhà vua gặp lại khâm sứ trong một buổi lễ, đã hỏi ngay hắn ta: “Thế nào, cái cầu gẫy rồi đấy!” Làm khâm sứ chỉ còn nước xanh mặt, cười nghê, đánh trống lảng.”
     Theo giáo sư Hứa-Hoành trong “Sau Bức Cấm Thành Nhà Nguyễn”  thì vua Thành-Thái lên ngôi vào đầu năm 1889 lúc mới 10 tuổi, về thể chất nhà vua có nước da ngăm đen, cao lớn, khỏe mạnh, cặp mắt sáng, thông minh đã biết một ít chữ Tầu và chữ Tây. Ong có nhiều cử chỉ, thái độ chống đối người Pháp làm cho họ lưu ý, nên đã cắt cử một vài đại thần theo dõi để báo cáo.
     Trường Tiền là một cây cầu lớn, lâu đời và nổi tiếng ở cố đô nước ta, so với cầu Long-Biên (Paul Doumer) tại ngoại ô Hà-Nội nếu xét về mặt thâm niên nó còn là bậc đàn anh sinh trước tuy không dài, rộng, bề thế bằng.
     Cầu Long-Biên do hãng Daydé & Pille xây cất (không phải công ty Eiffel như cầu Trường-Tiền). Cầu dài 2,300 m cầu chính 1,800 m , hiện tại chỉ còn 9 nhịp dài 767 m về phía Hà-Nội là tương đối nguyên vẹn, rộng 30,6 m có đường sắt và hai lằn đường dành riêng cho khách bộ hành cao khoảng 44 m tính từ mặt nước sông, đã khánh thành hồi tháng 2 năm 1902 với chuyến xe lửa đầu tiên chở vua Thành-Thái, toàn quyền Paul Doumer, vua Mã-Lai, đại diện, Lào, Campuchia, Trung Hoa..khởi hành từ ga Hàng-Cỏ Hà- Nội vượt qua sông Hồng rầm rộ khua chiêng đánh trống có tính cách quảng bá, hãnh diện về việc làm ích quốc lợi dân đã thực hiện.
      Cầu Trường-Tiền có cái lợi hơn cầu Long-Biên là chiều dài vừa phải, chỉ
Có 400 thước, lại nằm giữa đôi bờ dân cư đông đúc, nên băng ngang cầu hàng ngày khách bộ hành sử dụng rất nhiều nhất là các nữ sinh áo trắng đã tận dụng môn thể thao đi bộ qua chiếc cầu lúc cắp sách tới lớp và khi tan trường về, tạo nên một hình ảnh đặc thù của Huế, làm tăng vẻ đẹp cho cây cầu, phát sinh những kỷ niệm, nhiều người nhớ đến trọn đời :
                       Nơi đây hương khói mờ nhân ảnh,
                       Ai biết tình ta có đậm đà!
                                           Hàn-Mạc-Tử.
       Không ai trối cãi là những cây cầu dù hùng vĩ dù đơn sơ ngoài sự ích lợi thiết thực, nó cũng giúp phần làm tăng vẻ đẹp thiên nhiên, nó như chứng tỏ có sức sống, có sự hòa hợp của thiên nhiên và sự hoạt động kiến tạo của bàn tay khối óc con người.
     Các văn nghệ sĩ, hơn những người khác, đã nhìn thấy rõ và họ cũng biết là những vẻ đẹp này nếu lấy làm bối cảnh sẽ tô điểm thêm cái lãng mạn, cái tình tứ, nên thơ tức là cái giá trị nơi tác phẩm của ho, chẳng biết có đúng thế không mà đoạn kể lúc chia tay của “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt.” cùng “khách má hồng.” Bên cầu, trong tác phẩm Hán văn của Đặng Trần Côn “Chinh Phụ Ngâm Khúc” mà bà Đoàn-Thị-Điểm đã dịch, mô tả thì ai nghe, ai đọc dù chỉ mấy câu cũng thấy thật là… “Nhiều nỗi truân chuyên” vậy đó!
                        Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
                        Đường bên cầu cỏ mọc còn non
                        Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
                        Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
     Đến đây ta sẽ mang tiếng là vô tình biết mấy vì nói tới Huế mà cứ kể lể về cầu Trường-Tiền sao chẳng đả động, nhắc nhớ chi đến sông Hương. Thử tưởng tượng coi, nếu không có sông Hương thì làm gì có cầu Trường Tiền, thì Huế lấy gì để hãnh diện là Huế đẹp Huế  thơ, là “non xanh nước biếc như tranh họa đồ.” để hấp dẫn mọi người từ hàng dân giả tới các vị tài tử phong lưu, từ người địa phương lúc nào cũng ăn nói nhỏ nhẹ tới hàng du khách, kẻ ở xa đến… nhìn đâu đâu cũng mê mẩn tâm thần. 
                              Học trò trong Quảng ra thi
                              Thấy cô gái Huế chân đi không rời.
     Sông Hương bắt nguồn từ núi Tường-Động và Chấn-Sơn đổ xuống hợp lại từ ngã ba sông Bằng-Lãng quanh co trước Cơ-Thánh, núi Ngọc-Trản đến ngã ba Long-Hồ, cầu Gia Hội, Bao-Vinh, Triều-Sơn, Thanh-Phước, Bến Thái-Dương, thành Trấn-Hải rồi phóng ra cửa Thuận-An tổng cộng khoảng 55 dặm.
     Theo một vị rất có tư cách để nói về Huế là học giả Nguyễn-Cúc, người đang miệt mài tiếp tục xuất bản hàng năm những dặc san Tiếng Sông Hương, thì, Ngày xưa, không lâu lắm, dọc theo bờ sông Hương, cỏ cây hoang dại còn nhiều từ đồng nội xa xăm, hay những đám đất vồng thoai thoải, lưng chừng, mọc lên một loài hoa, hương thơm nhè nhẹ gọi là DÃ CÚC sau này các nhà nho thích chữ nghĩa đặt thêm tên Hán Việt KHỔ Ý NHĨ.
     Từ trường Chaigneau đến trường Jeanne d’Arc và gần đó dọc theo sông Hương, từ ngã ba tòa Khâm xuống đến Đập Đá, hoa thầu-đâu nở thênh thang và cũng có ngày hoa rụng tràn đầy. Hương Thơm hoa thầu-đâu không được dịu lắm Huế mình cho là hơi hắc.
     Có thể vì những mùi thơm rải rác dọc đôi bờ, hay trên những vồng đất thoai thoải lưng chừng mà con sông được mang tên sông Hương.Rất có thể là như vậy, nhưng ai là người đặt tên “sông Hương” cho con sông có mùi hương thơ mộng ấy ? Thật khó trả lời. Và, nguyên do mùi thơm đó từ đâu thi mỗi người giải thích một khác, tiện đây cũng xin ghi lại bài thơ Hương Giang Hành trình bầy nguồn gốc danh từ “Sông Thơm” của cụ Vân-Bình Tôn Thất-Lương, (1887-1951) cảm tác lúc cụ tòng sự tại tòa khâm-Sứ Huế:
                             Hương Giang Hành.
                Cỏ thơm có giống Thạch Xương Bồ
                Sanh ở hai nguồn tả hữu trạch
                Hoa thơm dầm nước, nước trong veo
                Họp thành “sông thơm” chẩy róc rách
                Quanh co rộng hẹp dài muôn sải
                Thấm mát ruộng vườn gành với bãi
                Em đềm theo dọc tỉnh Thừa-Thiên
                Chẩy về Thuận An ra Đông Hải.
     Nội dung Hương Giang Hành đại ý, từ hai bên bờ tận thượng nguồn sông Hương có một loài thảo mộc tên là Thạch Xương Bồ mọc nơi khe đá toát ra hương thơm hòa tan khiến cho nước sông có mùi thơm nên gọi là sông Hương, nước sông Hương đượm mui thơm của Thạch Xương Bồ chẩy róc rách thấm mát ruộng vườn gành bãi dọc theo tỉnh Thừa-Thiên về Thuận-An ra Đông Hải…
     Thạch Xương Bồ là loài thảo mộc như thế nào có lẽ ít người rõ. Theo Tự điển Tiếng Việt định nghĩa thì ta cũng chỉ biết đại cương: Xương bồ là danh từ, cây họ ráy, mọc ở nước, lá hẹp dài, nhọn, thân rễ có mùi thơm, dùng làm thuốc... Kỳ hoa dị thảo trên mặt đất nhiều vô kể làm sao biết hết. Lại nữa cùng loài cây ấy chỗ này gọi khác, nơi kia gọi khác thật khó truyền đạt cho nhau dễ dàng. Năm 1945 nhà văn Đỗ Tốn cho xuất bản cuốn truyện ngắn nhan đề HOA VÔNG VANG    Nhiều độc giả hỏi :”Hoa vông vang là hoa gì?” khiến lần sau do Xuân-Thu tái bản tác giả đã phải giải thích trong “Vài lời nói thêm.” In nơi cuối sách để mọi người cùng hay.
     Trở lại vấn đề ai là người đặt tên sông Hương thì đến nay tôi cũng chưa tìm được tài liệu chắc chắn để trình bầy nơi đây, ước mong quý độc giả quý vị cao niên nếu biết vui lòng chỉ bảo ngõ hầu tác giả và một số các bạn trẻ được học hỏi thêm thì thật là vinh dự, thật là mãn nguyện, mặc dù hơn một lần, tạm thời, khi có dịp nói chuyện với ai tôi vẫn trình bầy quan điểm dè dặt là, có lẽ, xin nhấn mạnh chữ “có lẽ”, tên sông Hương nó đã thành hình từ từ qua sự cảm nhận và sử dụng thường nhật của người dân trong vùng…rồi lan rộng ra tới lúc được chấp thuận chính thức khi nào không hay. Cũng như ta gọi sông Hồng vì nước sông mang phù sa mầu hồng, sông Cửu-Long vì có chín nhánh  uốn khúc vòng vèo như chín con rồng trước khi ra biển.
      Hiện thời thì tôi chưa có cơ hội về Huế để trắc nghiệm lại những tài liệu quý báu vừa đề cập đến; để tìm hiểu học hỏi thêm xung quanh cái tên gọi của sông Hương. Nhưng tôi tin sự giải thích của hai vị Nguyễn Cúc và Tôn-Thất-Lương đưa ra đều đúng, nó bổ túc, hỗ trợ cho nhau cùng làm thành mùi thơm của sông Hương. Nói cách khác, hương thơm của dã cúc, của hoa thầu-đâu, của thạch-xương-bồ đã tạo ra mùi thơm cho sông Hương. Cũng có thể còn một vài yếu tố nhỏ nữa mà ta chưa hay.
     Bây giờ viết đến đây, thú thực, tôi chỉ đang bồi hồi nhớ tới khoảng thời gian cũ vì những năm trước 1975 “Tôi Ra Xứ Huế.” nhiều lần và rất tiếc là hồi đó tôi đã không có nhiều thì giờ và cũng không lưu tâm lắm về chuyện này.
     Những ngày công tác của tôi nơi một đơn vị quân đội ở đó ngắn ngủi, công việc xong ít hôm là trở về đàng trong, ít lâu sau hữu sự lại vội vàng ghi tên với phòng 4 sư đoàn xin chỗ ngồi trên máy bay C130 trở ra khi cần và hễ có dịp tới Huế như thế, nơi dừng chân đầu tiên sau khi đáp xuống sân bay Phú-Bài hồi đó phần nhiều là tại hậu trạm tạm thời đặt trong Đại Nội, rồi từ đó mới ra Hương-Điền, Quảng Trị…bằng trực thăng bay trên phá Tam-Giang hoặc bằng đường bộ qua quốc lộ số 1.
     Bay bằng C130 hoặc trực thăng, riêng tôi thấy “khỏe” hơn là phải qua hãng Air VN vừa mất tiền, chậm chạp vừa ù tai nhức đầu với những chiếc DC4 quá cũ sử dụng trên các phi lộ nội địa.
     Khi tới Đại Nội xen kẽ những bữa cơm xấy với thịt heo hộp thơm phức mùi vị húng lừu tịch thu được của quân địch, tôi thường rủ mấy anh em ra chợ Đông-Ba ở ngoài giại, ngay chân cầu Trường Tiền (Giại là giải đất trống dài dài dọc theo bờ sông và ngay trước mặt sông), ăn cơm thịt luộc mắm tôm chua, con nào con ấy còn nguyên hình thù cong cong, đỏ như trái ớt chín, lại còn ẩn hiện với những sợi giềng thái nhỏ, khiến chưa cầm đũa đã nghe hương vị đậm đà, rồi vừa ăn vừa nghe tiếng râm ran như ong vỡ tổ của người mua kẻ bán, vừa ngửi mùi bánh đa nướng thơm lừng, vừa nhìn nào mệ nào o qua lại ai nấy đều mặc áo dài đàng hoàng dù bận bịu quang gánh tay xách nách mang hàng họ bán mua…  
     Tối về… tụ tập trong sân Thế Miếu bên cạnh Cửu Đỉnh, cùng mấy quân nhân nằm ở hậu trạm ngổn ngang đây đó ba lô súng đạn và hàng trăm thứ quân cụ lỉnh kỉnh khác… khi thì đánh cờ, lúc binh xập xám trướng, chơi domino… cho giết thời giờ. Thực sự là giết thì giờ thôi chứ không phải tứ đổ tường vì:
                                   Tôi ở nơi đây – Chỗ tận cùng.
                                   Dẫu là giữa phố vẫn đầu sông.
                                                          Trần-Vấn-Lệ.
     Một đêm trời thật nóng, vừa từ hành quân về tới hậu trạm, chúng tôi kiếm được bộ bài tổ tôm bèn quây quần chơi đánh chắn còm để thay đổi không khí. Đêm ấy mấy chân bài thay phiên ù tôm lèo…rất vui, rất phấn khởi. Tôi còn góp thêm vào một màn phấn khởi và vui hơn: Sau khi bốc nọc được cây cửu vạn, mầu hồng, tôi hạ bài xuống và hô bạch định! Mà đúng ra khi bài không có cây nào mầu hồng thì mới hô như vậy. Kết quả , thay vì được tiền lại phải bỏ thêm tiền ra…và làm mọi người cười lăn, muốn bể bụng!Thấy thế một ông gốc Bắc kỳ ngồi chầu rìa, tới chậm hêt chỗ chắc cũng ngứa ngáy chân tay, đề nghị cầm hộ mấy ván để tôi đi tắm cái… xả xui.
     Ở bên đầu hồi phía tả của Thế-Miếu có một cái giếng đá ong rất trong và mát, đặc biệt lúc nào nước cũng đầy, không cần thả giây, cứ lấy cái nón sắt, lợi dụng chỗ thành giếng bể, cúi xuống múc cũng được, xung quanh giếng những bụi chuối xanh um tình cờ làm thành một cái màn che thật tiện lợi. Ban ngày chúng tôi thường tắm ở đó rất thoải mái, kín đáo, tự nhiên, nhưng ban đêm thì sợ rắn rết chẳng mấy an toàn. Nhiều người còn hù là giếng ấy xưa kia để các mệ, các o, các cung tần mỹ nữ rửa  ráy sạch sẽ trước khi vô hầu thiên tử, bây giờ khi đêm đang ngủ chợt nghe tiếng nước xối và tiếng cười khúc khích, xúc phạm tới có thể bị bóp cổ, chết nhăn răng.
     Nghe vậy tôi không tin. Các bậc quốc sắc nõn nà sống trong nhung lụa ăn trắng mặc chơn tháng ngày được cơm bưng nước rót, lúc nào cũng ngong ngóng chỉ chờ vinh dự độc nhất là tin vui: được vời vô đón nhận “long chủng” của thiên hoàng…Các bậc quốc sắc thiên hương với những hàm răng đen rưng rức này đều quây quần trong cung Khôn-Thái ngay sau điện Càn-Thành, gần chỗ ở của vua rất xa Thế-Miếu
      Những mỹ nhân luôn luôn khao khát mong đợi thi hành nhiệm vụ như thế phải cư ngụ gần đó để khi động dụng quý quan thái-giám túc trực dễ dàng, sửa soạn đúng thủ tục  “luật lâm-hạnh” rồi cõng trên lưng chạy thẳng tới đặt nằm trên long sàng mới tiện. Khi mọi việc xong xuôi viên thái giám trở vào lại cõng người cung nữ về phòng. Ngay lúc đó viên tổng thái giám cũng vào, quỳ trước long sàng chờ lệnh. Thái giám có năm bậc từ hàng tứ phẩm trở xuống. Ở bên Tầu hồi xưa Thái-Giám chia làm 10 bậc gọi là Thập Thường và đã một lần các thái giám, dù đã cắt phăng cái của nợ chẳng còn tha thiết chi cái sự đời cũng đã nổi giận, nổi loạn gọi là “Thập Thường Thị “ sử sách còn ghi.    
      Tổng thái giám quỳ trước long sàng yên lặng…Nếu vua nói “Lưu!” tổng thái giám sẽ ghi rành mạch ngày tháng tên tuổi người cung nữ vào một cuốn sổ để đối chiếu trường hợp sinh con cái sau này.( theo tài liệu của Vũ-Đức-Sao-Biển trong cuốn Oan-Khuất A Q.)
     Nếu vua nói “Lưu” vậy tức là,dù ít dù nhiều cũng có đêm vua nói ngược lại “Không cần lưu.” Và khi vua nói không thì chuyện gì đã sẩy ra nhỉ? Hồi đó chưa phát minh ra bao cao-su. Mà vấn đề kế hoạch hóa gia đình thì đâu thành…”vấn đề” đối với các bậc vua chúa! (các vua triều Nguyễn, trừ vua Tự- Đức vô hậu, người nào cũng nhiều con, Vua Gia-Long 31 con; Vua Minh-Mạng 142 con; Thiệu-Trị 40; Đồng Khánh 9…) Quan trọng là chuyện gì đã sảy ra và chuyện sảy ra có làm thất vọng, buồn lòng mỹ nương chăng? Chả nhẽ vời người ta vào rồi để khơi khơi cơm treo mèo nhịn. Nhất ẩm nhất trắc giai do tiền định! Tâm sự của nàng được giãi bầy khá đầy đủ trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của On-Như-Hầu Nguyễn-Gia-Thiều ( 1741-1798) nhưng chẳng thấy tác giả đề cập tới điểm này. 
    Mặt khác, nghĩ lẩn thẩn thấy cũng tội, như thế các quan thái giám phụ trách việc “Kính sự phòng” của nhà vua thường phải làm việc ca nhì (ban đêm.) hoặc ca ba (cũng ban đêm) và về đời Minh-Mạng các vị này nhiều phần cực nhọc hơn so với các đồng nghiệp triều đại khác vì nhà vua có khi cao hứng biểu diễn “Hoàn thành hảo sự” tới sáu lần một đêm (Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử!).
      Đêm hôm đó tôi nhường cho người bạn cầm giùm rồi, không nỡ lấy lại chân bài,sau khi ra ngồi chầu rìa mấy ván, bèn nhờ một chú lính trẻ chở ra bờ sông Hương dọc theo đường Trần-Hưng-Đao ngủ đò: 
                                Sông Hương dợn sóng khuynh thành
                                Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.
       Cũng như cơm hến, nón bài thơ, cơm âm phủ, kẹo mè xửng…ngủ đò trên sông Hương là một nét độc đáo của Huế, là nỗi tò mò, là niềm ao ước của hầu hết khách mày râu từ phương xa đến Huế. Không “dấn thân” một chuyến lúc về biết lấy mô kể chuyện làm quà. Câu chuyện có khi cần hư cấu thêm mắm muối cho đậm đa hơn thực tế, mục đích làm ngơ ngẩn thèm thuồng quý vị thính giả chưa từng bước chân tới chốn Thần Kinh “đêm tàn Bến Ngự!”
        Thường thường ngủ đò là phải có ca Huế.
        Riêng tôi ngủ đò để biết, để có cảm giác đơn giản vậy thôi chứ không bì được và không thực hiện được đúng cách như các giời quyền quý, quan lại, lắm bạc nhiều tiền nghĩa là cần thêm ca Huế, một hình thức nghệ thuật với ca nữ, đàn địch xênh phách, để thưởng thức những giọng ca, nhất là ca Nam như: Nam Cầm, Nam bình, Nam Ai đầy réo rắt nỉ non man mác…với rượu chè, ngắm trăng, ngâm vịnh… mà nghe nói thú chơi tao nhã đó rất thịnh hành nhất là vào thời cuối thế kỷ 19 ở đây, mặc dù có thể ca Huế đã xuất hiện từ thời chúa Nguyễn-Phúc-Chu (1691-1725) trên vùng đất mới chiếm của Chiêm-Thành này.
     Đức Khổng Tử viết: “Nhac giả thiên địa chi hòa giã” (Nhạc là cái điều hòa của trời đất.) vì hoàn cảnh  không thể thực hiện được sự hòa hợp âm nhạc và thiên nhiên dể thưởng thức cho đã,  cho đúng điệu một đêm ngủ đò kể cũng tiếc.
     Xuốt đêm trên con đò nhỏ cắm xào lơ lửng giữa đôi bờ cùng vợ chồng già chủ đò, nhớ lại,  tôi không cảm thấy  mùi hương của dòng sông phảng phất đâu đây, gió mát cũng không, gần xa thấp thoáng những chiếc thuyền nan bé tý teo bán chè bán cháo cho khách ăn đêm với ngọn đèn trai leo lét…có thể mùi hương đặc biệt ấy chỉ tỏa ra ở thượng nguồn sông Hương. Chỗ này đã là đồng bằng, gần tới cửa bể, lòng sông rộng, thuyền ghe nườm nượp, ngay cả đám cỏ cây hoang dã không còn nhiều nên cũng chẳng có hương thơm nhè nhẹ của loài cúc dại và thật xui cho tôi, lại nữa, bấy giờ chắc cũng chưa tới mùa hoa thầu-đâu.
     Sóng chòng chành và không khí oi bức làm tôi không ngủ được. Hai vợ chông chủ đò cũng rì rầm lục đục hoài, cuối cùng thấy tôi còn thức  họ mời ra ngoài khoang cho thoáng và uống trà. Tôi chui ra qua cửa tò vò, hỏi:
     -  Mấy giờ ông bà mới đi ngủ?
     -  Oi, già rồi thức ngủ chập chờn có chi quan trọng.
     Nghe ông già nói vậy, tôi chưa biết trả lời sao thì ổng lại tiếp:
     -  Ban mai vắng khách ngủ cũng rứa khác chi!
     -  Vậy cứ ở dưới thuyền tối ngày, không cần nhà cửa sao?
     Ong già trả lời tôi hơi có vẻ kiêu ngạo:
     -  Có chớ! Con gái tôi nó bán giải khát trên bờ kia tối về giữ nhà trông nom bốn đứa cháu ngoại. Còn tôi thì khi về khi không.
     -  Chắc con rể của ông cũng ở đó?
     Tôi hỏi một câu hơi vô duyên nhưng người trả lời có vẻ ngậm ngùi:
     -  Trước kia ở đó chứ ở mô, nhưng nó đi lính sư đoàn 1 đã chết từ mấy năm rồi!
     Tôi bối rối không muốn nói gì thêm.Tôi chưa đến nhà của ông bà chủ đò, không biết ở đâu, nhưng tưởng tượng cũng hình dung được đại khái như thế nào. Đất cầy lên sỏi đá. Trời hành cơn lụt mỗi năm… Với quán nước của người góa phụ, với chiếc đò trên sông Hương do cặp vợ chồng già lèo lái,  với sự mất mát người trụ cột gia đình, gia đình bẩy miệng ăn, tương lai chẳng có gì tươi sáng phấn khởi. Sau một lúc im lặng đến lượt ông bà chủ đò hỏi tôi:
     -  Chắc thầy trong Nam mới ra?
     -  Thưa quê tôi ngoài Bắc!
     Thiệt lạ, mỗi lần tới Huế, có dịp tôi lại muốn tự giới thiệu tôi người đàng ngoài. Sự thực đúng người đàng ngoài rồi, mà đàng ngoài đàng trong thì cũng rứa, cũng con Hồng cháu Lạc có khác chi mô!  Bây giờ đàng ngoài đâu còn giữ độc quyền thưởng thức rau muống luộc chấm tương như xưa!
     Rau muống rỗng ruột như cây tre nên còn gọi là rau vô tâm, nhiều chất sắt có thể dùng làm dược thảo, tốt! Tên khoa học là Ipomoea Aquatica Nam Bắc đều biết, đều dùng như những món ăn trong bữa cơm bình thường: ăn sống, sào, luộc, nấu canh v…v…rất rẻ, rất phổ thông.”Rau muống cơm tẻ mẹ ruột.” Vậy xét kỹ vẫn phải đi đến kết luận là  chả có gì phân biệt Bắc Nam. Nhưng tôi vẫn nói thế vì đó là sự thật và có lẽ cũng muốn tự nhắc nhớ cho phù hợp với hai câu thơ mà tôi rất thích:
                          Yêu em anh cứ anh vô
                          Kệ truông Nhà Hồ,mặc phá Tam-Giang.
     Hai câu thơ trên lấy ý từ câu ca dao “Yêu em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.” trích trong bài thơ dài 88 câu của Tản-Đà nhan đề Chơi Huế trong tập Tản-Đà Vận-Văn toàn tập do Sống Mới xuất bản. Chữ “Em” ở đây trỏ vào xứ Huế, tác giả cẩn thận ghi chú như thế! Vâng, chữ “Em” trong hai câu thơ Tản-Đà dùng để chỉ cố đô Huế thì mình phải hiểu theo ý của tác giả. Nhưng với câu ca dao, với tinh thần bình dân, đại chúng, tôi nghĩ nó chẳng mang cùng nghĩa như vậy. Nó là một người nữ. Nó là em ngồi bên cửa mình em, nó là Công Tằng Tôn Nữ đang nhìn…nắng hàng cau…v…v…
    Lần này, thấy câu trả lời chưa rõ, có thể bị nghi là người anh em phía bên kia, hồi đó là sau mùa hè đỏ lửa 1972 bom đạn vẫn còn mù trời, nên tôi tiếp:
    -  Thưa ông bà, tôi người Bắc, nhưng di cư vào Nam từ 1954 và đúng vậy, tôi mới ở Sài Gòn ra mấy hôm nay.
    Bà già rót thêm nước cho tôi rồi nói một hơi, đầy thân tình:
    - Mà thầy đã vãng cảnh chùa Linh Mụ chưa, ai ra đây cũng nên tới, trước   là lễ phật sau là cầu duyên nợ vững bền! Linh Mụ thiêng lắm!
    Với giọng Huế trầm bổng dịu dàng nghe êm đềm quyến rũ, dưới ánh sáng lờ mơ, bà chủ đò trạc ngũ tuần, trông mảnh khảnh, quý phái, mộ đạo không có vẻ là người lao động “nghiệp dư “. Có thể, biết đâu trước đây bà chẳng là một nữ sinh Đồng-Khánh, “ngày ngày đi học, chiều chiều đi chơi.” và hiện thời trong căn cước bọc nhựa, cũng như trên sổ Gia-Đình với mộc son, chữ ky chứng thực của phường xã đàng hoàng tên tuổi bà biết đâu chẳng là Công Tằng Tôn Nữ… làm cho vô tình ai thấy sự đời dâu bể sẽ hôi ngạc nhiên giữa quá khứ và hiện tại, tiếc thay cũng chỉ vì thời cuộc, vật đổi sao dời …tôi như thức tỉnh, chợt khám phá rằng, thì ra có thể còn nhiều sự việc âm thầm ở cố đô vẫn chưa hay, tôi nhớ đến hai câu thơ của Lương-Quân, nghĩ bụng giá dược bà đọc lên cho nghe chắc cũng đúng, cũng vui:
                           Ngẫm coi lầu các nắng mưa
                           Sông Hương, núi Ngự… đủ chưa? Lắc đầu!
    Tôi và có lẽ rất nhiều người thích nghe giọng Huế nhỏ nhẹ, bình thản, đều đều… dấu sắc, dấu ngã thì xuống thấp, dấu huyền thì lên cao, khoảng cách cao thấp này nhạc sĩ Phạm-Duy gọi là âm vực. Tôi đáp, cố bắt trươc giọng Huế nhưng không thành công:   
    - Duyên nợ mô chừ, vợ con đùm đề rồi “mệ” ơi.
    Bà già không chịu:
    - Thầy nói chi lạ rứa! cứ cầu xin đâu thừa, các cụ nói tu nhân tích đức.. .
     Sáng hôm sau trở dậy tôi thuê xe ôm viếng chùa Linh-Mụ.
     Chùa Linh Mụ thuộc làng An-Ninh, một kiến trúc lâu đời nhất ở Huế, theo sách “Ô Châu Cận Lục” thoạt tiên từ 1553 về trước chỉ là một thảo am. Với câu truyện Bà Già Mặc Ao Đỏ rất thiêng, biến lên trời, được dân địa phương về sau kể cho chúa Nguyễn-Hoàng nghe khi qua đây năm Tân-Sửu (1601) kết quả là ngài đã cho xây chùa. Mới đầu chùa có tên Thiên Mụ (Hay thực ra làThiêng-Mụ? ) rồi về sau năm 1850 sợ phạm húy với trời (Thiên) nên vua Tự-Đức đổi là Linh-Mụ. Tuy nhiên nay vẫn còn nhiều người gọi là Thiên-Mụ. Chùa tọa lạc trên gò cao ngay bên bờ sông Hương.
     Lại sông Hương!
     Khúc sông này thật rộng. Xa xa, bờ đối diện là gò Thọ-Cương, cây xanh bao phủ, khói xanh êm đềm, tạo nên cảnh bên ni bên nớ:
                       Gió đưa cành trúc la đà,
                       Hồi chuông Thiên-Mụ canh gà Thọ Xương.
    Ngoài chùa có một cái tháp hình bát giác cao hơn 21 m đặt tên là tháp Phúc Duyên gồm 7 tầng, mỗi tầng thờ một đức phật. Chùa Linh Mụ được kể đứng hàng thứ 14 trong 20 thắng cảnh của cố đô Huế với bài thơ ca tụng của vua Thiệu-Trị (1841-1847) để lại trong cuốn “Ngự Chế Thi Tập” nguyên văn như sau:     
                               Thiên-Mụ Chung Thanh.
                     Cao cương cổ sát trấn tiền xuyên
                     Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên
                     Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
                     Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
                     Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
                     Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
                     Phật tích thánh công thùy hải vũ
                     Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.
     Xin mạn phép tóm sơ đại ý: Chùa trên đồi cao trước sông thờ tượng phật phương phi phúc hậu, hãy tụng kinh, lần truỗi, đánh chuông để thức tỉnh đất nước,mang nhân lành quả tốt khắp cõi bờ.
     Ý nghĩa bài thơ đầy tình bác ái nhân đạo hướng thượng bao dung, rõ ràng là khẩu khí của bậc thiên tử, chắc chắn thế nào “Thiên Mụ Chung Thanh” hàng ngày cũng là những âm vang hữu ích nhắc nhớ tạo nhân quả tốt lành cho, không những cư dân kề cận mà còn ngân nga ảnh hưởng khắp bờ cõi.
      Tôi hy vọng có ngày tái ngộ Huế để ngó lại cầu Trường Tiền “sáu vài 12 nhịp”; Để đi thăm lăng tẩm lòng vòng, những nơi mà Phạm-Quỳnh hết sức ngợi ca :”Không biết lời gì mà tả được cái cảm giác lạ, êm đềm, ảo não, nó chìm đắm khách du quan trong cái cảnh tịch mịch u sầu này.” Và để làm một chuyến đò dọc, ngược dòng Hương giang hướng lên thượng nguồn cố gắng nhận biết cái hương thơm thoang thoảng của nước sông, để nghe xao xuyến âm vang Thiên Mụ chung thanh…và còn thật nhiều điều khác nữa mà tôi chưa có dịp…
                         Ngẫm coi lầu các nắng mưa
                         Sông Hương, núi Ngự… đủ chưa? Lắc đầu!
     Thấm thoát vậy mà đã mấy chục năm. Núi sông ngăn cách. Ông bà già chủ đò cho tôi tá túc một đêm chắc đã ra người thiên cổ. Mấy “chiến hữu” tụ tập đánh chắn đêm nào giữa sân Thế Miếu người còn kẻ mất phiêu bạt bốn phương. Biệt vô âm tín. Mai sau, nếu hữu duyên có cơ hội trở về… lúc ngập ngừng bước chân vô Đại-Nội, dưới tàng phượng vĩ đỏ ối, chắc chẳng ai là  cố nhân đón chờ, chẳng ai thỏ thẻ nhỏ nhẹ bên tai “Ôi chu choa! Lâu quá hỷ?”
     Bây giớ mới tưởng tượng thôi mà nghe đã ngậm ngùi trạnh nhớ hai câu thơ của Chu-Mạnh-Trinh:
                           Tịch mịch tiên triều cung ngoại miếu
                           Đỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm. Tác giả: Nguyễn Phú Long

No comments:

Post a Comment

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================