Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012
F-35B Ship Suitability Testing
Canh buom vuon xuan
Friday, April 24, 2009
35 Nhìn lại cuộc thất trận và phản bội đồng minh
Luật sư Nguyễn Hữu Thống's Blog
Nơi đây lưu trữ tài liệu do luật sư Nguyễn Hữu Thống phát hành
Thursday, April 23, 2009
35 Năm Nhìn Lại: Cuộc Thất Trận và Phản Bội Đồng Minh
35 NĂM NHÌN LẠI
CUỘC THẤT TRẬN VÀ PHẢN BỘI ĐỒNG MINH
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
10 năm sau khi Saigon thất thủ, trong cuốn "No More Vietnams" xuất bản năm 1985, Tổng Thống Richard Nixon tự phán: "Trong cuộc chiến đấu này Hoa Kỳ đã thất bại và phản bội đồng minh (failure and betrayal). Chúng ta đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã thua trong hòa bình (We won the war in Vietnam, but we lost the peace)".
Đây là lời nói khôn ngoan nhưng không phản ảnh sự thật.
Đúng lý Nixon phải nói: Chúng ta thắng về quân sự, nhưng lại tháo chạy và đầu hàng lịch sự. Chúng ta thua về chính trị, và đã gieo tai họa vô lường cho các quốc gia đồng minh Đông Dương Việt-Miên-Lào, cũng như một số các quốc gia Á Phi và Nam Mỹ như A-Phú-Hãn, Iran, Angola, Mozambique, Ethiopia, South Yemen, Nicaragua v...v.... Do đó Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 chỉ đem lại hòa bình của những nấm mồ (peace of the grave).
Ngày nay mọi người thấy rõ: Kiến trúc sư của thảm cảnh này không phải là ai khác mà là Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh của Nixon.
Do những quyền lợi riêng tư cũng như do những cuộc mật đàm, mật ước và hiểu ngầm với Lê Đức Thọ, Kissinger đã đẩy tới việc ký kết Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 với bất cứ giá nào. Đối với ông, Chiến Trường Đông Nam Á đã thu dọn xong với sự tiếp tay của Bắc Kinh. Từ đây đối tượng của ông là Chiến Trường Trung Đông đang cần tiếp viện quân sự và kinh tế. Sau 1975, giới am hiểu cho biết ngân khoản viện trợ hàng năm cho Do Thái (với 4 triệu dân) khoảng 2 tỉ Mỹ kim ngang với số ngân khoản viện trợ cho Việt Nam trước 1973.
Cho tới tháng 1-1973, khi bối thự hiệp ước, bằng xuyên tạc, đe dọa và hạ nhục Việt Nam Cộng Hòa, Kissinger đã thúc đẩy Nixon buộc Miền Nam phải ký Hiệp Định Paris. Cho Hoa Kỳ có lý do rút quân để đòi phóng thích tù binh sau khi đầu hàng trong danh dự. Còn việc quân đội Bắc Việt có triệt thoái khỏi Miền Nam hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc. Về việc này, một mặt Kissinger tin vào những mật ước và cam kết ngầm của Thọ. Mặt khác còn có lời cam kết của Nixon theo đó Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt, nếu Bắc Việt vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, và sẽ sử dụng hỏa lực mạnh nhất như trong chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại Miền Nam, và những vụ oanh tạc Bắc Việt bằng B52 trong cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận Mùa Giáng Sinh 1972.
Sự việc đã không diễn ra như vậy. Ba tháng sau Hiệp Định Paris vụ Watergate bùng nổ. Sau đó Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành Luật ngày 30-6-1973 cấm các lực lượng quân sự Hoa Kỳ không được yểm trợ những cuộc chiến đấu võ trang tại Việt-Miên-Lào. Và tháng 10-1973 Luật về Quyền Lực Chiến Tranh (War Powers Act) đã trói tay vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và buộc Tổng Thống phải tham vấn Quốc Hội trước khi sử dụng quân đội vào những vụ tranh chấp võ trang.
Điều kiện hạn chế này chưa bao giờ lập pháp đặt ra trong thời chiến. Do đó, vì không có toàn quyền hành động và không có ngân khoản, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội không thể phản công kịp thời các bộ đội Bắc Việt xâm nhập quy mô vào Miền Nam, và cũng không thể trả đũa bằng cách tái oanh tạc Bắc Việt như trong mùa Giáng Sinh 1972. Như vậy, 10 tháng sau Hiệp Định Paris, từ tháng 11-1973 quân xâm lăng Bắc Việt được tự do xâm nhập Miền Nam với sự trợ giúp võ khí đầy đủ của phe Quốc Tế Cộng Sản Trung Sô (1.7 tỷ Mỹ kim năm 1974, gấp đôi thời tiền Hiệp Định Paris.
Và từ sau vụ tiến chiếm Phước Long tháng 1-1975, Liên Sô đã 4 lần viện trợ cho Bắc Việt). Và những lời cam kết của Chu Ân Lai và Brezhnev hứa hẹn sẽ kiềm chế Hà Nội, chỉ là câu đãi bôi, hay đúng hơn một chiến thuật để dối gạt Hoa Kỳ.
Thêm một sự kiện đáng lưu ý: Một năm sau Hiệp Định Paris, vào ngày 11-1-1974, khi Kissinger vừa rời Bắc Kinh, đột nhiên một lần nữa, Trung Quốc công bố chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và một tuần sau, ngày 19-1-1974, họ đem quân xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam. Về mặt Quốc Tế Công Pháp, Hiệp Định Geneva 1954 đã xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Điều 4 Hiệp Định, giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc kéo dài từ thềm lục địa "ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Bắc Việt phải rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam giới tuyến" (Vỹ Tuyến 17). Quần đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17-15 Bắc (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi), và quần đảo Trường Sa ở phía Nam tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 12-7 Bắc (từ Cam Ranh xuống Cà Mâu). Do đó cả hai quần đảo này đã được Hiệp Ước Quốc Tế nhìn nhận thuộc hải phận của Việt Nam Cộng Hòa mà các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Bắc Việt và Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng.
Chiếu Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ là quốc gia chủ xướng, đã triệu tập Hội Nghị, đã ký Hiệp Định, và đã cùng 10 quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, đứng ra bảo lãnh sự thi hành nghiêm chỉnh hiệp định này. Như vậy Hoa Kỳ có nghĩa vụ tiên khởi phải bảo vệ quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam chống mọi xâm lăng võ trang bất cứ từ đâu tới. Vậy mà, ngày 19-1-1974, dầu có mặt tại vùng Biển Hoàng Sa, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đã án binh bất động, không yểm trợ, không can thiệp, không điều giải, và cũng không làm hành vi nhân đạo nào để cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam mắc nạn trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, do Trung Tá Ngụy Văn Thà chỉ huy, đã bị bắn chìm.
Có lẽ Hải Quân Hoa Kỳ nghĩ rằng họ không có trách nhiệm phải cứu vớt những người sắp chết đuối, kể cả vì lý do nhân đạo. Vì mãi tới tháng 11-1974 Liên Hiệp Quốc mới ban hành Công Ước về việc Cứu Vớt các Nạn Nhân bị Đắm Tàu Trên Mặt Biển. Hơn nữa, từ tháng 6-1973, Quốc Hội Hoa Kỳ đã ban hành đạo luật cấm quân lực Hoa Kỳ không được tham gia hay yểm trợ bất cứ cuộc chiến đấu quân sự nào trên bộ, trên không và trên biển tại bán đảo Đông Dương. Trong thời gian này, từ tháng 4-1973, báo chí phản chiến và phe đối lập đa số tại Quốc Hội đã triệt để khai thác vụ nghe lén Watergate, dẫn đến việc Nixon từ chức vào tháng 8-1974.
Năm 1974, theo 3 ngả tiến quân, từ vùng Phi Quân Sự phía Bắc, Ai Lao và Cao Miên phía Tây, Bắc Việt kéo đại quân xâm nhập Miền Nam. Và tháng 1-1975 đã tiến chiếm nguyên một tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa là Phước Long. Cuộc tiến chiếm này nhằm trắc nghiệm phản ứng của Hoa Kỳ. Lúc này, từ Tổng Thống chỉ định Gerald Ford, chẳng ai còn nhớ những lời cam kết long trọng của Tổng Thống dân cử Nixon trong hơn 30 văn thư gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong những văn thư này, vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ hứa sẽ tái oanh tạc Bắc Việt, đồng thời phản công tức thời các lực lượng võ trang Bắc Việt xâm nhập Miền Nam, bằng những võ khí mạnh nhất như Không Đoàn B52.
Sau vụ Phước Long, trong một phiên họp của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản, Lê Duẩn đã giơ hai tay reo lên: "Nó bỏ rồi!"
Và 3 tháng sau, các chiến xa Liên Xô vượt qua hàng rào Dinh Độc Lập báo hiệu sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc này, bất chấp Hiệp Định Paris, Bắc Việt đã kéo thêm 25 sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam để yểm trợ số hơn 100 ngàn quân đã xâm nhập từ Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Từ đó Hiệp Định Hòa Bình Paris chỉ còn là tờ giấy lộn. Và những điều khoản cam kết hành sử quyền dân tộc tự quyết bằng đường lối hòa bình chỉ là những bánh vẽ do phe chủ chiến Lê Đức Thọ ban phát cho kẻ chủ bại Kissinger. Chẳng hạn như Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris: "Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do hai Miền Nam, Bắc Việt Nam đồng thỏa thuận (theo nguyên tắc nhất trí)!"
MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI
ĐỂ CÓ MỘT KHOẢNG CÁCH HỢP LÝ
(còn tiếp)
Nguồn: http://nguyenhuuthong.blogspot.com/
===================================================================
Nơi đây lưu trữ tài liệu do luật sư Nguyễn Hữu Thống phát hành
Thursday, April 23, 2009
35 Năm Nhìn Lại: Cuộc Thất Trận và Phản Bội Đồng Minh
35 NĂM NHÌN LẠI
CUỘC THẤT TRẬN VÀ PHẢN BỘI ĐỒNG MINH
Luật sư Nguyễn Hữu Thống
10 năm sau khi Saigon thất thủ, trong cuốn "No More Vietnams" xuất bản năm 1985, Tổng Thống Richard Nixon tự phán: "Trong cuộc chiến đấu này Hoa Kỳ đã thất bại và phản bội đồng minh (failure and betrayal). Chúng ta đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã thua trong hòa bình (We won the war in Vietnam, but we lost the peace)".
Đây là lời nói khôn ngoan nhưng không phản ảnh sự thật.
Đúng lý Nixon phải nói: Chúng ta thắng về quân sự, nhưng lại tháo chạy và đầu hàng lịch sự. Chúng ta thua về chính trị, và đã gieo tai họa vô lường cho các quốc gia đồng minh Đông Dương Việt-Miên-Lào, cũng như một số các quốc gia Á Phi và Nam Mỹ như A-Phú-Hãn, Iran, Angola, Mozambique, Ethiopia, South Yemen, Nicaragua v...v.... Do đó Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 chỉ đem lại hòa bình của những nấm mồ (peace of the grave).
Ngày nay mọi người thấy rõ: Kiến trúc sư của thảm cảnh này không phải là ai khác mà là Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh của Nixon.
Do những quyền lợi riêng tư cũng như do những cuộc mật đàm, mật ước và hiểu ngầm với Lê Đức Thọ, Kissinger đã đẩy tới việc ký kết Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 với bất cứ giá nào. Đối với ông, Chiến Trường Đông Nam Á đã thu dọn xong với sự tiếp tay của Bắc Kinh. Từ đây đối tượng của ông là Chiến Trường Trung Đông đang cần tiếp viện quân sự và kinh tế. Sau 1975, giới am hiểu cho biết ngân khoản viện trợ hàng năm cho Do Thái (với 4 triệu dân) khoảng 2 tỉ Mỹ kim ngang với số ngân khoản viện trợ cho Việt Nam trước 1973.
Cho tới tháng 1-1973, khi bối thự hiệp ước, bằng xuyên tạc, đe dọa và hạ nhục Việt Nam Cộng Hòa, Kissinger đã thúc đẩy Nixon buộc Miền Nam phải ký Hiệp Định Paris. Cho Hoa Kỳ có lý do rút quân để đòi phóng thích tù binh sau khi đầu hàng trong danh dự. Còn việc quân đội Bắc Việt có triệt thoái khỏi Miền Nam hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc. Về việc này, một mặt Kissinger tin vào những mật ước và cam kết ngầm của Thọ. Mặt khác còn có lời cam kết của Nixon theo đó Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt, nếu Bắc Việt vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định, và sẽ sử dụng hỏa lực mạnh nhất như trong chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại Miền Nam, và những vụ oanh tạc Bắc Việt bằng B52 trong cuộc Tập Kích Chiến Lược 12 ngày đêm tại Hà Nội, Hải Phòng và vùng phụ cận Mùa Giáng Sinh 1972.
Sự việc đã không diễn ra như vậy. Ba tháng sau Hiệp Định Paris vụ Watergate bùng nổ. Sau đó Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành Luật ngày 30-6-1973 cấm các lực lượng quân sự Hoa Kỳ không được yểm trợ những cuộc chiến đấu võ trang tại Việt-Miên-Lào. Và tháng 10-1973 Luật về Quyền Lực Chiến Tranh (War Powers Act) đã trói tay vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và buộc Tổng Thống phải tham vấn Quốc Hội trước khi sử dụng quân đội vào những vụ tranh chấp võ trang.
Điều kiện hạn chế này chưa bao giờ lập pháp đặt ra trong thời chiến. Do đó, vì không có toàn quyền hành động và không có ngân khoản, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội không thể phản công kịp thời các bộ đội Bắc Việt xâm nhập quy mô vào Miền Nam, và cũng không thể trả đũa bằng cách tái oanh tạc Bắc Việt như trong mùa Giáng Sinh 1972. Như vậy, 10 tháng sau Hiệp Định Paris, từ tháng 11-1973 quân xâm lăng Bắc Việt được tự do xâm nhập Miền Nam với sự trợ giúp võ khí đầy đủ của phe Quốc Tế Cộng Sản Trung Sô (1.7 tỷ Mỹ kim năm 1974, gấp đôi thời tiền Hiệp Định Paris.
Và từ sau vụ tiến chiếm Phước Long tháng 1-1975, Liên Sô đã 4 lần viện trợ cho Bắc Việt). Và những lời cam kết của Chu Ân Lai và Brezhnev hứa hẹn sẽ kiềm chế Hà Nội, chỉ là câu đãi bôi, hay đúng hơn một chiến thuật để dối gạt Hoa Kỳ.
Thêm một sự kiện đáng lưu ý: Một năm sau Hiệp Định Paris, vào ngày 11-1-1974, khi Kissinger vừa rời Bắc Kinh, đột nhiên một lần nữa, Trung Quốc công bố chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và một tuần sau, ngày 19-1-1974, họ đem quân xâm chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam. Về mặt Quốc Tế Công Pháp, Hiệp Định Geneva 1954 đã xác nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Điều 4 Hiệp Định, giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc kéo dài từ thềm lục địa "ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Quân đội Bắc Việt phải rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam giới tuyến" (Vỹ Tuyến 17). Quần đảo Hoàng Sa tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 17-15 Bắc (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi), và quần đảo Trường Sa ở phía Nam tọa lạc tại các Vỹ Tuyến 12-7 Bắc (từ Cam Ranh xuống Cà Mâu). Do đó cả hai quần đảo này đã được Hiệp Ước Quốc Tế nhìn nhận thuộc hải phận của Việt Nam Cộng Hòa mà các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Bắc Việt và Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng.
Chiếu Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ là quốc gia chủ xướng, đã triệu tập Hội Nghị, đã ký Hiệp Định, và đã cùng 10 quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, đứng ra bảo lãnh sự thi hành nghiêm chỉnh hiệp định này. Như vậy Hoa Kỳ có nghĩa vụ tiên khởi phải bảo vệ quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam chống mọi xâm lăng võ trang bất cứ từ đâu tới. Vậy mà, ngày 19-1-1974, dầu có mặt tại vùng Biển Hoàng Sa, Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đã án binh bất động, không yểm trợ, không can thiệp, không điều giải, và cũng không làm hành vi nhân đạo nào để cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam mắc nạn trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, do Trung Tá Ngụy Văn Thà chỉ huy, đã bị bắn chìm.
Có lẽ Hải Quân Hoa Kỳ nghĩ rằng họ không có trách nhiệm phải cứu vớt những người sắp chết đuối, kể cả vì lý do nhân đạo. Vì mãi tới tháng 11-1974 Liên Hiệp Quốc mới ban hành Công Ước về việc Cứu Vớt các Nạn Nhân bị Đắm Tàu Trên Mặt Biển. Hơn nữa, từ tháng 6-1973, Quốc Hội Hoa Kỳ đã ban hành đạo luật cấm quân lực Hoa Kỳ không được tham gia hay yểm trợ bất cứ cuộc chiến đấu quân sự nào trên bộ, trên không và trên biển tại bán đảo Đông Dương. Trong thời gian này, từ tháng 4-1973, báo chí phản chiến và phe đối lập đa số tại Quốc Hội đã triệt để khai thác vụ nghe lén Watergate, dẫn đến việc Nixon từ chức vào tháng 8-1974.
Năm 1974, theo 3 ngả tiến quân, từ vùng Phi Quân Sự phía Bắc, Ai Lao và Cao Miên phía Tây, Bắc Việt kéo đại quân xâm nhập Miền Nam. Và tháng 1-1975 đã tiến chiếm nguyên một tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa là Phước Long. Cuộc tiến chiếm này nhằm trắc nghiệm phản ứng của Hoa Kỳ. Lúc này, từ Tổng Thống chỉ định Gerald Ford, chẳng ai còn nhớ những lời cam kết long trọng của Tổng Thống dân cử Nixon trong hơn 30 văn thư gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong những văn thư này, vị Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ hứa sẽ tái oanh tạc Bắc Việt, đồng thời phản công tức thời các lực lượng võ trang Bắc Việt xâm nhập Miền Nam, bằng những võ khí mạnh nhất như Không Đoàn B52.
Sau vụ Phước Long, trong một phiên họp của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản, Lê Duẩn đã giơ hai tay reo lên: "Nó bỏ rồi!"
Và 3 tháng sau, các chiến xa Liên Xô vượt qua hàng rào Dinh Độc Lập báo hiệu sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc này, bất chấp Hiệp Định Paris, Bắc Việt đã kéo thêm 25 sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam để yểm trợ số hơn 100 ngàn quân đã xâm nhập từ Chiến Dịch Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Từ đó Hiệp Định Hòa Bình Paris chỉ còn là tờ giấy lộn. Và những điều khoản cam kết hành sử quyền dân tộc tự quyết bằng đường lối hòa bình chỉ là những bánh vẽ do phe chủ chiến Lê Đức Thọ ban phát cho kẻ chủ bại Kissinger. Chẳng hạn như Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris: "Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do hai Miền Nam, Bắc Việt Nam đồng thỏa thuận (theo nguyên tắc nhất trí)!"
MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI
ĐỂ CÓ MỘT KHOẢNG CÁCH HỢP LÝ
(còn tiếp)
Nguồn: http://nguyenhuuthong.blogspot.com/
===================================================================
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California
Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California
3rd Brigade Combat Team Change of Command
Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai
"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý
Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.
Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần
Tôi yêu Tổ quốc tôi
Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa
Lich Su To Quoc Viet Nam
Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du
Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".
14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN
DapLoisongNui.MP4
Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước
Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT
Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa
Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5
Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA
26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11
Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8
Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07
Toi Ac Cong San 2
Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11
bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6
19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi
Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi
6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN
Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011
Xuong duong cung canh hoa Lai
Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011
Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11
Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong
Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011
Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011
LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA
chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc
Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần
Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?
- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều
------------
http://www.bacaytruc.com
Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)
LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM
6/5/11
LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM
Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào
ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân:
- Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang
hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày.
- Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai.
- Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là
thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?!
- Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN.
2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu.
3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào.
4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi !
5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?!
Trân trọng,
===================================
No comments:
Post a Comment