VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Thursday, December 17, 2009

Kể Chuyện Ngô triều


Hoàng Long Hải


Cụ Ngô và Anh Em

Vài lời của người viết:

Những gì tôi viết sau đây, chỉ là dư luận, hầu hết của người Huế. Nghe sao, tôi viết lại vậy. Có thể có người cho rằng tôi viết như vậy là chưa đủ, cần thêm cái nầy, việc kia. Cũng có thể có người nghĩ khác, bảo tôi viết chuyện nầy, chuyện kia là thừa. Dĩ nhiên, có rất nhiều chuyện thừa, chuyện thiếu, nhưng xin thưa thật, nghe chừng nào, tôi viết chừng nấy, viết cho hết những gì tôi nghe, biết về anh em nhà họ Ngô, về cụ Ngô. Những chuyện gì không liên quan trực tiếp thì tôi sẽ viết vào một bài khác, nếu tôi còn sức.

Làm công việc nầy, dĩ nhiên, tôi không xem đó là chuyện viết sử. Những người viết lịch sử thường căn cứ vào những dữ liệu chắc chắn, còn như đây là dư luận, cái có, cái không, cái thêm, cái bớt. Người ta không thể căn cứ vào đó mà viết sử được. Việc ấy, tôi không quan tâm, vì tôi không phải là người viết sử. Tôi chỉ là người dạy sử. Nếu tôi có dạy lịch sử nhà Ngô Đình, tôi sẽ căn cứ vào sách vở đàng hoàng, sách tên gì, của ai, trang mấy, dòng mấy, tờ a, tờ b... Tuy nhiên, trong khi dạy, nếu có thì giờ, tôi cũng sẽ kể lại những chuyện nầy cho học trò nghe.

Hiện giờ, có rất nhiều người cực đoan, nhìn vấn đề rất chủ quan. Kẻ thì muốn hễ nói hay viết gì tới tổng thống Ngô Đình Diệm và anh em ông thì phải khen hết lời, tôn sùng anh em họ Ngô như thánh, như thần, hoặc chê bai, mạt sát như kẻ độc ác, hèn hạ. Nhìn vấn đề như họ là sai, sai hoàn toàn. Phần nhiều, những gì cực đoan, cuồng tín, đều sai. Vì vậy, Khổng Tử dạy phải trung dung. Đứng giữa, không bênh ai, không bỏ ai, “Ai nói phải ta cũng phải nghe; ai nói trái ta cũng phải nghe”. Nghe để xét, tìm hiểu. Như thế, mới gọi là người có trí được.

Dư luận, như người Tây nói “Đáng trọng mà cũng đáng khinh.” Với tôi, qua những câu chuyện kể sau đây, nó biểu lộ được cái thương cái ghét với người nầy người khác. Ghét kẻ ác, thương người hiền, dĩ nhiên. Đọc bài nầy, độc giả sẽ biết phần nào người Huế, họ đã thương ai, ghét ai. Tuy nhiên, cũng chỉ là một số đông người Huế thôi, không phải ai ai cũng vậy.

Tôi không dính dáng gì tới chế độ nhà Ngô, nên không chủ quan khi viết lại những gì người Huế nói về anh em nhà nầy. Nhưng, tôi cũng như một số người, còn nặng lòng cảm mến ông Ngô Đình Diệm. Quả thật, ông là một người yêu nước cô đơn. Cô đơn bởi vì ông bị hạn chế trong cái khả năng của ông, hoàn cảnh gia đình của ông, hoàn cảnh xã hội và thế giới lúc bấy giờ. Tất cả cộng lại, khiến có người nghĩ rằng ông sinh bất phùng thời. Những cái tốt, cái hay của ông bị mờ nhạt đi, nhiều người không thấy, cái dở của ông cộng thêm cái dở của anh em ông, tạo thành một nỗi oán trong lòng nhiều người.

Dù thế nào, ông vẫn còn được nhiều người thương. Năm ngoái đây, đi thăm một ông thầy cũ, - dĩ nhiên là người Huế -, dạy tôi cách đây hơn 50 năm. Nói về chuyện ông Ngô Đình Diệm, ông thầy cũ tôi nói: “Tôi thương ông Diệm lắm!” Thú thật, tôi cũng là người thương ông Diệm vì những điều riêng tôi nghĩ, không phải tôi theo đuôi ông thầy. Tôi còn nhớ cái cảm giác bàng hoàng năm 1971, khi tôi vào thăm linh mục Nguyễn Bá Lộc ở Kinh 1 Cái Sắn, trong phòng khách của ông, còn treo một bức hình lớn của ông Ngô Đình Diệm, rõ nét cái nốt ruồi dưới mắt ông ấy. Tám năm rồi, từ khi đảo chánh, có lệnh cấm treo hình ông Diệm, bấy giờ mới thấy lại, tôi không khỏi bàng hoàng. Cái cảm giác bàng hoàng ấy chính là cái tình tôi thương ông Diệm còn tiềm ẩn trong lòng tôi vậy.

Tại sao tôi thương ông Diệm, mà lại phản đối việc phong thánh cho ông. Có gì đâu! Ông Diệm là người yêu nước, yêu dân. Người ta không thể phủ nhận điều ấy dù nhìn ông qua lằng kính nào! Nhưng ông không phải là người có công truyền bá đạo Thiên Chúa, tại sao lại đòi phong thánh cho ông?!

Xin thưa độc giả thêm một điều. Tôi chịu trách nhiệm về những gì tôi viết trong bài, dù tôi có ca ngợi hay phê phán ai. Công việc nầy không phải là chủ trương hay tôn chỉ của tờ báo, nơi tôi nhờ cậy để phổ biến bài báo của tôi. Và cũng ngược lại, tôi xin đón nhận tất cả những lời chê khen của độc giả./

Kính




Tại sao tôi viết “cụ Ngô” mà không viết “tổng thống Ngô Đình Diệm”; cũng như số đông người Huế, trước 1954, gọi ông ấy là chí sĩ; hoặc như Việt Cộng, gọi là “Mỹ - Diệm - có nghĩa Diệm là tay sai của Mỹ, hoặc như hiện tại, có người đòi phong thánh cho ông. Như vậy, người ta muốn gọi ông Diệm là ông thánh của đạo Thiên Chúa. Ông ta có công gì với giáo hội La-Mã mà người ta đòi phong thánh cho ông?

Thật ra, cách gọi phải chính danh; cái không chính danh, thành ra vô tình bôi lọ người ấy. Chẳng hạn như viêc đòi phong thánh cho ông ta vậy.

Phong thánh cho ông Ngô Đình Diệm tức là mặc nhiên công nhận ông ta có công với giáo hội La-Mã. Công gì? Nhờ có ông mà đạo Thiên Chúa bành trướng, phát triển thêm rộng ra ở miền Nam trước 1975, khi ông cầm quyền. Công phát triển và truyền bá đạo của La Mã là công lớn nhứt, đáng phong thánh nhứt. Nói như thế thì mặc nhiên công nhận tổng thống Ngô Đình Diệm là người không công minh; ông kỳ thị đạo Phật khi cầm quyền. Mặc nhiên công nhận điều đó là bôi lọ ông ta đấy, là nói những điều, trong thực tế, ông Diệm đã không làm, không muốn làm. Thành ra, việc đề nghị phong thánh cho ông Diệm là cái bậy, sai, vô tình biến ông Diệm thành tay sai của giáo hội La-Mã. Việc ấy không khác chi Việt Cộng gọi ông Diệm là tay sai đế quốc Mỹ. Tất cả những cái nhìn cực đoan, lập trường một phía, đặt căn bản trên cảm tính của mình hay vì sách lược tuyên truyền mà vu cáo, bôi lọ người khác như Việt Cộng thường làm là độc ác, lố bịch, chỉ làm trò cười cho thiên hạ.

Thành thật thưa với độc giả rằng tôi chưa từng là người của ông Diệm hay anh em nhà ông ta. Khi ông Diệm về làm thủ tướng thì tôi còn đi học; học xong, tôi đi dạy, trên nửa đoạn đường dạy học của tôi thì ông Diệm bị giết. Ngay đêm 8 tháng 5 năm 1963, tôi đứng ở trước sân cỏ đài phát thanh Huế, sát hàng rào ximăng, bên cạnh gốc cây đoác (cây cọ Tây), và tận mắt chứng kiến ba phát súng lệnh bắn ra từ trên chiếc xe blindé có viết mấy chữ Ngô Đình Khôi bên hông xe. Ba phát súng đó là lệnh đàn áp đồng bào phật tử hôm đó. Sau đó thì lựu đạn nổ, người chết, dân chúng vất guốc, vất giép, vất xe, chạy tán loạn. Việc nầy tôi có kể lại, mà kể rất kỹ trong bài “Một Nhân Chứng Bất Đắc Dĩ” in trong tập Viết Về Huế 1 của tôi.

Không phải là đệ tử ông Diệm, cũng không phải là kẻ thù của ông ta, vậy thì tôi viết về ông làm gì, trên căn bản nào, trên dữ kiện nào để viết ra. Xin thưa thật, viết là vì muốn viết, không viết thì áy náy, khó chịu. Nhiều lần tôi tự hỏi tại sao người ta nhìn ông Diệm như thế nầy, xem ông Diệm như thế kia? Nếu ông Diệm là một người bình thường, một ông A, ông Ba nào đó, thậm chí là ông tướng, ông thủ tướng, bộ trưởng khác, tôi sẽ không hoài công. Ông Diệm là người Huế - nói cho đúng thì ông ta sinh ra và lớn lên, học hành ở đấy – mà tôi cũng là Huế tí chút vì tôi không sinh ra ở Huế, nhưng tôi học hành và có công ăn việc làm ở đấy. Lại nữa, tôi là người dạy sử, tính tôi hay tò mò về chuyện nầy, chuyện kia, nhất là với những nhân vật có chức có quyền lớn, có liên hệ đến lịch sử đất nước, như việc vua Thành Thái, Duy Tân bị đày, như việc Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử trảm ở An Hòa, ngoại thành Huế và lại tôi hay nghe chuyện nầy, biết chuyện kia, những chuyện về ông Ngô Đình Diệm, về anh em nhà ông. Biết rồi mà để kín trong lòng được sao, khi thấy người khác nói bậy, nói sai về anh em ông ta?

Vì không là người thân cận, và như tôi vừa trình bày ở phần vừa rồi, điều tôi viết ra phần lớn là do từ dư luận dân chúng Huế đối với ông, về anh em ông! Có người sẽ nói rằng, dư luận không có giá trị gì cả. Nói vậy chỉ đúng môt phần. Dư luận nhiều khi bậy bạ, nhưng nhiều khi dư luận rất đáng trọng, trung thực, phản ảnh đúng sự việc, nó làm rõ nhiều câu chuyện, những con người mà rất nhiều khi vì thiên kiến, vì hạn chế tầm nhìn, vì tánh bổn ác hay tánh bổn thiện mà lên án, đánh giá, hoặc tôn vinh sai lầm một vài người.

Ông Ngô Đình Diệm và anh em ông rất khác nhau. Tôi nói khác nhau là về cá tính, việc làm và cả tâm hồn họ. Việc đó, đối với người Huế rõ lắm. Với anh em ông Diệm, người Huế ít kính trọng, thậm chí ghét, chê nhưng với ông Diệm, không ít người kính trọng và thương ông.

Tính tình ông Diệm rất cẩn thận. Mãi đến khi ông làm tổng thống, tại nhà ông ở Phú Cam, còn giữ lại những cuốn vở hồi ông còn học tiểu học.

Về việc ông từ chức thượng thư, sau nầy, người ta, nhất là Việt Cộng, xuyên tạc, nói là vì ông tranh chức không lại với Phạm Quỳnh nên từ chức. Ở Huế lâu năm, tôi không thấy ai nói chuyện đó. Thật ra, khi ông Bảo Đại du học bên Tây về, vì là người ít nhiều chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp, vua Bảo Đại muốn cải cách đất nước theo những điều ông đã học được bên Tây. Ông Bảo Đại nhận ra rằng người Pháp đã cậy quyền, lấn áp triều đình Huế quá lắm. Nhân khi vua Khải Định đã băng hà, vua Bảo Đại còn trẻ mà lại ở bên Tây nên Pháp vi phạm các hiệp định đã ký với nước ta, lấn lướt và giành hết quyền bính. Triều đình Huế, lúc đó dưới sự điều hành của cụ Thân Thần Tôn Thất Hân (nội tổ bà Tôn Nữ Thị Ninh), không đủ khả năng và bản lĩnh đối đầu với Pháp, Khâm Sứ Trung Kỳ biểu sao triều đình Huế nghe vậy. Đó là điều vua Bảo Đại hết sức bất mãn. Ông ta muốn giành lại những gì mà Tây đã vi phạm các hiệp ước, cướp đi.

Vì vậy, việc trước tiên, tháng 5 năm 1933, vua Bảo Đại làm là cải cách chính phủ, cho mấy ông thượng thư già về hưu, trong đó có cả những người từng quan hệ và có thế lực ở triều đình Huế. Huế bỗng:

Năm cụ khi không rớt cái ình,
Đất bằng sóng dậy chốn thần kinh (1)

“Đất bằng sóng dậy”: Có khác chi vua Bảo Đại làm một cuộc cách mạng; ít ra, một cuộc cách tân. Dĩ nhiên, muốn thực hiện những gì suy nghĩ, ôm ấp, vua Bảo Đại thành lập một triều đình mới, với những quan thượng thư trẻ hơn, năng động hơn, có “Tây học” hơn, v.v… Do đó, qua giới thiệu của cụ Nguyễn Hữu Bài, một thượng thư có uy tín trong triều lúc ấy, ông Ngô Đình Diệm, mới 33 tuổi được mời làm thượng thư, mà lại thượng thư Bộ Lại, tương đương với thủ tướng. Cứ xét về tâm lý và ý chí của vị vua trẻ lúc ấy, việc nhà vua chọn ông Ngô Đình Diệm giữ chức ấy, đâu có gì lạ. Đâu có ai phê phán vua Bảo Đại làm việc ấy, ngoại trừ Tây.

Tây ngửi ngay được mùi “chống đối” của vua Bảo Đại trong việc cách tân ấy. Chúng nó để yên được sao? Cho Bảo Đại đi Pháp, học là để cho biết, đâu phải là học để về tranh quyền với Tây. Vậy là Tây liền “chặt tay” nhà vua: Những người được coi là “thân cận” của Bảo Đại trong việc làm ấy, phải bị loại ra. Trước hết, nhân vật trẻ nhất, quan trọng nhất trong đám quần thần, phải ra đi. Từ chức chỉ là cách nói lịch sự. (“Ông Ngô Đình Diệm từ chức thượng thư.”). Không từ chức cũng bị mất chức. Quan thượng thư Ngô Đình Diệm biết trước chuyện đó, biết lòng dạ của Tây nên ông “từ chức” trước. Ông đâu có “tranh không được với Phạm Quỳnh”? Mấy chữ trong ngoạc kép là cách nói của Việt Cộng viết về ông Ngô Đình Diệm đấy. Người ta biết thời, thế và cơ, biết tiến biết thoái. Người Huế họ biết việc ấy, biết ông Ngô Đình Diệm biết tiến, biết thoái. Cũng như sau nầy, khi chí sĩ Ngô Đình Diệm trở thành tổng thống thì nhiều người từng theo phò ông, biết thoái, nên không dính dáng gì tới chế độ, không giữ chức vụ cao trong chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, không cố bám vào danh vọng, nên không bị mang tiếng phản thần như ông Đỗ Mậu.

Hồi ấy, ông Ngô Đình Diệm cũng biết thoái vậy, nhờ đó mà ông được cái tiếng. Với người Huế, cái tiếng ấy quí lắm: “Không theo Tây”. Không theo Tây đã là hay rồi, chưa nói là “chống Tây”. Tiếng chống Tây, cao quí hơn. Nhà Nguyễn sụp đổ, Tây cai trị, biết bao nhiêu người quay lưng với triều đình - Có nghĩa là quay lưng với dân tộc, theo Tây. Đối với người Huế, tiếng ấy - “theo Tây” - , là nhục nhã lắm. Trước kia, người ta đã dùng tiếng “theo Tây” để bôi lọ ông Nguyễn Văn Tường, để trả thù ông ấy. Không theo Tây như ông Ngô Đình Diệm là cao quí lắm.

Dần dà, người Huế biết ông Ngô Đình Diệm chống Tây. Cụ Phan - Phan Bội Châu - là người chống Tây - Khi cụ Phan bị giam lỏng ở Bến Ngự, ít ai dám lui tới nhà cụ. Ít ai, chứ không phải là không có ai. Có nghĩa là vẫn có người lui tới, nhưng số đó ít lắm. Ai không sợ Tây thì lui tới thăm cụ Phan như các cụ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Võ Bá Hạp. Đó là lớp già, trẻ thì có ông Võ Như Nguyện, con cụ cử Võ Bá Hạp và bạn bè, “đồng chí” của ông Võ Như Nguyện. Dĩ nhiên, việc lui tới nhà cụ Phan không phải công khai, giương mặt ra mà đi lui đi tới. Người ta phải kín đáo một chút. Kín đáo, nhưng không phải là Tây không biết. Tây có biết cũng không làm gì. Lúc đó, cụ Phan không có hoạt động gì tiếp tục chống Tây nữa. Cụ Phan chỉ dạy học. Người vô ra nhà cụ Phan lấy tiếng là đến học chữ Nho, Tây cũng chẳng làm gì được.

Vậy thì cụ Ngô có vô ra nhà cụ Phan?

Dĩ nhiên, cụ Ngô cũng phải kín đáo như tất cả mọi người. Từ nhà, ở giốc cầu Phủ Cam, cụ Ngô đi ngược lên ngã ba Thánh Giá (hồi xưa chưa có tên nầy), theo ngã lầu Jira, - nhà lầu của một người Pháp -, chỉ mấy bước là tới nhà cụ Phan.

Cụ Phan là người đưa Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sang Nhựt. Khi phong trào Đông Du tan rã, du học sinh và cụ Phan bị đuổi khỏi Nhật, họ sang Tàu. Riêng Kỳ Ngoại Hầu thì được ở lại Nhật. Kỳ Ngoại Hầu có vợ Nhật - Có người nói là một bà công chúa, điều nầy không chắc! - Kỳ Ngoại Hầu vẫn còn là linh hồn của phong trào Đông Du, còn giữ tinh thần chống Pháp và thân Nhật. Để gìn giữ tinh thần của phong trào, nhất là khi Nhật đổ quân vào Đông Dương, Kỳ Ngoại Hầu cần có người đại diện ở Việt Nam. Người đó là ai? Ông Ngô Đình Diệm đấy. Vậy ta thấy có một hình tam giác, ba cạnh nối ba góc, liền nhau: Ba góc đó là Kỳ Ngoại Hầu, cụ Phan và cụ Ngô. Không có cụ Phan, không chắc Kỳ Ngoại Hầu biết và liên lạc với cụ Ngô. Việc nầy khá rõ. Cũng vì mối quan hệ đó nên khi Nhật đảo chánh Pháp, người Huế cứ tưởng cụ Ngô sẽ làm thủ tướng, không ngờ lại là ông Trần Trọng Kim. Đó là một vấn đề khác, xin bàn lại sau, khi có dịp.

Ai ai cũng biết ông Diệm là người ngoan đạo. Đó là truyền thống gia đình ông, tuy ít khi ông đi nhà thờ. Tại nhà ông ở Phú Cam, có nhà nguyện riêng cho gia đình. Chủ nhật có linh mục đến làm lễ tại nhà. Linh mục Cao Văn Luận từng làm công việc tôn giáo nầy ở đây. Riêng bản thân ông Diệm thì ngày ngày ông rất chăm chỉ cầu kinh. Tuy nhiên, cá nhân ông Diệm, ông phân chia phần đạo, phần đời. Tôn giáo thuộc đời sống tinh thần. Ông không đưa đạo vào đời và trong sinh hoạt hằng ngày, từ khi ông làm tri phủ Hải Lăng cho đến khi bị giết, ông không dùng đời phục vụ cho đạo.

Ở Huế, người ta còn nhớ câu chuyện đã có lần ông Ngô Đình Diệm đuổi một ông linh mục ra khỏi nhà. Một hôm, có một ông linh mục người Việt Nam đến thăm ông Diệm. Thường thì dưới thời Pháp thuộc, đạo Thiên Chúa rất “gần gủi” với bọn Tây thực dân, không ít người dựa vào Tây để truyền đạo. Ông linh mục nầy cũng thuộc loại người như thế, và cũng tưởng ông Ngô Đình Diệm cũng thuộc hạng người như thế. Do đó, trong khi trao đổi câu chuyện, ông linh mục để lộ rõ ông ta là người theo Tây. Ông Diệm tức giận mời ông linh mục ra khỏi nhà. Khi tiễn chân, ông Diệm nói: “Bộ cha tưởng rằng theo Tây là không có tội với Chúa hay sao?”

Nhờ vậy, những người theo phò ông Diệm trước khi ông Diệm về làm thủ tướng (rồi tổng thống), phần đông là Phật tử, không ai e ngại rằng khi ông Diệm cầm quyền thì đạo Phật của họ sẽ bị bách hại.

Khi cầm quyền, ông Diệm thường hỗ trợ việc tu sửa chùa chiền bị hư hỏng, đặc biệt là chùa Linh Mụ, thắng cảnh và biểu tượng của Huế. Các chùa ở Huế, như chùa Linh Mụ, chùa Báo Quốc, … thuộc tài sản quốc gia vì các chùa ấy do các vị vua nhà Nguyễn xuất công quỹ xây cất. Đó không phải là tài sản riêng của các vua hay hoàng thân quốc thích, không là của cá nhân ai hay hội đoàn nào. Việc ông Ngô Đình Diệm cho xuất ngân sách quốc gia để tu sửa tài sản quốc gia là một chuyện bình thường, nhưng có ai không nghĩ rằng bên cạnh hành động đó, là cảm tình của ông Diệm đối với đạo Phật, một tôn giáo của đông đảo quần chúng mà với một người ra cầm quyền tự thấy mình là người lo cho dân thì không lo việc tôn giáo của dân hay sao?

Khoảng năm 1956, 57, khi Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam chuẩn bị cho ra tờ giấy bạc $500, ông Diệm ra lệnh tờ giấy bạc nầy in hình chùa Linh Mụ. Tỉnh trưởng Thừa Thiên/ Huế trình ông Cẩn, ông Cẩn theo dõi việc chụp hình chùa Linh Mụ gởi vào Saigon. Nhiều tấm hình chụp các lần trước, bị ông Diệm chê, bắt chụp lại. Sau nầy, tờ giấy bạc $500 đầu tiên in hình chùa Linh Mụ là bắt đầu từ việc như vậy.

Thật ra, ngay chính bản thân ông Cẩn cũng tôn trọng các vị tu hành danh tiếng ở Huế, vì một lẽ rất dễ hiểu là việc theo đạo Thiên Chúa là chỉ có từ đời thân phụ ông Ngô Đình Khả, tức nội tổ (gọi bằng ông nội) của ông Cẩn. Theo đạo thì không được thờ ông bà trong nhà, không được đặt bát nhang. Tuy nhiên, gia đình ông Diệm thấm nhuần đạo Nho khá sâu sắc, nên họ không thể bỏ việc thờ cúng tổ tiên. Họ nhờ chùa Từ Đàm thờ giùm, và cứ tới mỗi kỳ kỵ giỗ, nhà chùa lo giúp. Việc tốn kém tiền bạc cúng quảy có thể chẳng có là bao, tôi không nghe nói tới, nhưng mỗi khi ông Cẩn tiếp các sư trên chùa, thường là ông Trí Quang, thì bao giờ ông Cẩn cũng kính trọng. Ông Cẩn mặc áo đàng hoàng để tiếp sư, chớ không ở trần tay cầm quạt giấy mà quạt phạch phạch như khi tiếp các ông tướng, các ông bộ trưởng từ Saigon ra hay các ông tỉnh trưởng từ các nơi về chầu.

Thường thì thượng tọa Trí Quang khi nào cần lắm, có việc quan trọng lắm thượng tọa mới xin gặp ông Cẩn, còn những việc bình thường thì thượng tọa nhờ ông (X – xin được dấu tên vì yêu cầu của ông ấy), - một ông giám đốc, đệ tử của thầy Trí Quang, nhưng rất được ông Cẩn tin tưởng -, nhờ cậy, nói giúp. Tôi không nghe ông X, than phiền về chuyện Cẩn thiếu kính trọng các sư.

Ông X cũng lợi dụng việc gần gũi với ông Cẩn để giúp cho việc phát triển các trường Bồ Đề ở miền Trung. Khoảng thời gian từ cuối thập niên 50, đầu 60, nhờ tình hình yên ổn, việc giáo dục rất phát triển. Ở miền Trung, ban đầu thì ở các tỉnh lỵ, sau đó thì các quận, bên cạnh hệ thống trường Bán Công, các trường Thánh Tâm (của Thiên Chúa giáo) và Bồ Đề (của Phật giáo) thi nhau mọc nhanh, tạo thành một sự cạnh tranh giữa hai tôn giáo. Hệ thống trường Thánh Tâm mạnh hơn hệ thống trường Bồ Đề vì phía đạo Thiên Chúa, có tổ chức, giàu tài lực, lại giàu cả nhân lực (thầy giáo), lại được chính quyền, - một là vì nhân viên chính quyền có đạo Thiên Chúa -, hoặc vì thấy đạo Thiên Chúa có thế mạnh ở chính quyền nên cũng sợ bể nồi cơm -, có nhiều ưu đãi. Bên phía hệ thống trường Bồ Đề thì hoàn toàn ngược lại. Các tỉnh hội, quận hội, khuôn hội mở trường mà điều kiện thiếu sót: Trường lớp không đúng tiêu chuẩn, chật hẹp, không đủ ánh sáng; thầy cô, và nhiều khi ngay cả hiệu trưởng, không đủ tiêu chuẩn bằng cấp. Nhưng tất cả đều được ông X giúp đỡ và cho giấy phép hoạt động. Việc nầy, mấy ông Cần Lao báo cáo cho ông Cẩn, nhưng ông Cẩn bỏ lơ. Ông Cẩn đã giao ngành giáo dục cho ông X rồi. Đó là cam kết của ông Cẩn khi ông yêu cầu ông X đứng ra thành lập các phong trào trong ngành giáo dục để “ủng hộ Ngô Tổng Thống.”

Kể từ khi ông Ngô Đình Thục về làm tổng giám mục địa phận Huế, đám tay chân bộ hạ của ông Cẩn trước kia, nay lui tới, vô ra chầu chực bên tòa Tổng Giám Mục chớ không còn lui tới nhà ông Cẩn nữa. Bọn chúng đón gió hay lắm. Gia đình Nho gia tôn trọng “quyền huynh thế phụ”. Mấy năm nay, nhiều người chầu chực nơi tòa Tổng Giám Mục Vĩnh Long nên cuộc đời lên như diều gặp gió. Tiếng nói của “Đức Cha” có trọng lượng hơn tiếng nói của Cậu nhiều lắm. Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo của Cậu nằm đối diện với nhà thờ Phú Cam nay vắng vẻ, và chẳng bao lâu sau thì đóng cửa, dẹp bảng hiệu. Có phải do lệnh của “Đức Cha” hay một ông anh nào đó của ông Cẩn, hay ông “tự ý dẹp bỏ” cho vừa ý “Đức Cha”. Tranh giành quyền lực, anh em nhà Ngô mâu thuẫn nhau? Có người còn hồ nghi, nhiều người xác quyết như vậy.

Cũng từ khi ông Ngô Đình Thục về nắm giáo quyền ở Huế, đạo Phật bị chèn ép nhiều hơn. Có một bận, thượng tọa Trí Quang gặp ông X, nhờ lên gặp cậu Cẩn, can thiệp giúp về việc mấy ông thầy chùa ở Phú Yên bị Ty Công An tỉnh ấy bỏ tù. (Thời bấy giờ Công An và Cảnh Sát là hai ngành riêng biệt). Nghe lời trình, ông Cẩn nói: “Việc ni to lắm. Mấy người ni là người của đức cha, tui không can thiệp được chi mô. Thôi anh chịu khó đi Saigon, vô trong nớ mà trình với tổng thống, may ra được.”

Ông X đi Saigon, mời thêm cụ Trần Bá Chức, giám đốc nha Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục cùng đi theo. (Vì sao phải có người thứ hai đi theo, sẽ xin nói sau.) Sau khi nghe ông X trình bày sự việc xảy ra ở Phú Yên, tổng thống Ngô Đình Diệm nói: “Tại răng không bắt mấy ông cha ni bỏ tù mà lại bắt mấy ông thầy chùa?” Nghe tổng thống nói vậy, người ta thấy hả dạ, thấy hi vọng, thấy ông Ngô Đình Diệm quả thật là chí công. Nhưng sự việc chỉ dừng lại ở đó. Tổng thống có ra lệnh thả mấy ông thầy chùa không? Có thể có; nhưng có ai cản trở lệnh ông Diệm không, không biết được. Mấy ông thầy chùa vẫn cứ tiếp tục ngồi trong tù, không thấy kết quả gì cả.

Như trên tôi có kể, tại sao ông X khi vào trình diện tổng thống phải mời cụ Trần Bá Chức đi kèm. Ấy là tại vì lời dặn dò của ông Võ Văn Hải, bí thư của ông Diệm. Ông Võ Văn Hải, trước kia thân phụ làm thượng thư, dòng dõi danh tiếng. Ông Hải từng theo cụ Ngô, chí sĩ, nên được ông Diệm tin tưởng, chọn làm bí thư. Ông Hải dặn ông X: “Khi vô trình tổng thống, anh đừng đi một mình. Khi anh ra rồi, có chuyện gì, “người ta” lại bảo rằng anh vô trình với tổng thống nầy nọ. Phiền lắm! Phải có người thứ hai làm chứng để “người ta” không nghi ngờ, không xuyên tạc việc anh vô gặp tổng thống.”

“Người ta” là ai?

Ấy là đám khuyển mã, là loài ong kiến, bám chân bà Nhu, “Đức cha”, nhưng không bám ông Luyện. Ông Ngô Đình Luyện, ở ngoài vòng cương tỏa, sau khi ông “hoàn thành nhiệm vụ”.

Khi ông X còn đi học ở Saigon, khoảng 1948, 49, thường tham gia biểu tình, rải truyền đơn. Ông bị bắt nhân vụ Trần Văn Ơn. Tây tha, nhưng giao lại cho bên giáo dục Việt Nam giải quyết. Khi ấy, cụ Trần Bá Chức làm giám đốc ngành giáo dục ở miền Nam, đứng ra chủ tọa việc “xử tội” đám sinh viên, học sinh dính dáng vô vụ Trần Văn Ơn. Cụ Chức kêu từng người lên rầy, rồi tha về, biểu đi học thì hãy lo học hành, chẳng phạt tạ gì cả. Ông X hiểu cụ Chức, thấy rõ đạo đức của cụ, cám ơn cụ nhiều lắm, nên sau nầy, ông vẫn thường nhờ cậy cụ Chức nhiều việc, kể cả việc vô ra dinh Độc Lập. Mời cụ Chức đi theo. Ông ta nghĩ, cụ Chức là người đạo đức, “người ta” không dám xuyên tạc.

Năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời, lúc ấy tôi còn đi dạy. Một hôm, tôi nói chuyện với bạn bè: “Dù sao thì ông Hồ Chí Minh cũng là người đánh Pháp giành độc lập cho một nửa nước.” Một trong mấy người bạn bỗng “la làng”: “Ông dạy sử mà nói như thế là chết học trò. Ai nói với ông Hồ Chí Minh đánh Pháp là để giành độc lập? Nếu muốn giành độc lập, ông ta cần gì đánh Pháp. Các nước Châu Á, Đông Nam Á, Châu Phi có dùng vũ lực đâu mà cũng giành được độc lập. Họ đâu có làm như Hồ Chí Minh, hy sinh cả triệu người đánh Pháp. Lại nữa, nếu muốn giành độc lập, ông Hồ nên hợp tác với các đảng phái khác chớ sao lại tiêu diệt họ.”

Tôi còn chống chế:

- “Vậy ông cho rằng Hồ Chí Minh đánh Pháp để làm gì?”

- “Để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ông nên nhớ Hồ Chí Minh không phải là “một nhà cách mạng Việt Nam” mà chính là “một cán bộ Cộng Sản Quốc Tế”. Đánh Pháp là ông ta làm nhiệm vụ của một cán bộ Cộng Sản, không phải làm nhiệm vụ của một người cách mạng Việt Nam. Nếu là một nhà cách mạng Việt Nam, ông ta đã hợp tác với những nhà cách mạng khác để giành lại độc lập cho đất nước. Người ta có thể nói thẳng ra rằng Hồ Chí Minh gỡ cái vòng nô lệ nầy ra, tròng vào đầu dân tộc cái vòng nô lệ khác, “nô lệ hựu nô lệ” như cụ Phan (2) nói. Thoát vòng nô lệ Pháp thì tới vòng nô lệ Nga-Tàu. Ông Hồ Chí Minh làm cách mạng cái gì, giải phóng nô lệ cái gì. Nói cho cùng thì Hồ Chí Minh chỉ là một tên Việt gian, làm tay sai cho ngoại bang, cho Pháp hay cho Nga Tàu, cũng đều là Việt gian cả.”

Tôi cũng chưa chịu thua: “Vậy ông Ngô Đình Diệm làm cái gì?”

Người bạn trả lời:

- “Ông nên nhớ năm 1955, Tây cuốn gói rời miền Nam Việt Nam. Ai đuổi Tây ra khỏi miền Nam Việt Nam. Công của ông Diệm đấy. Đừng quên công lao ông ta!”

Tôi đồng ý với người bạn. Tuy chế độ Ngô Đình Diệm nhận viện trở Mỹ để phát triển kinh tế và hiện đại quân đội, nhưng Mỹ không sai khiến được cụ Ngô. Nếu cụ Ngô để cho nó sai khiến được, cụ ngoan ngoãn thì cụ đâu có bị chúng nó sai người giết chết. Cái chết đó chứng minh sự độc lập của ông ta.

Người dân ở Quảng Trị, quê ngoại tôi, và Huế, ai cũng biết ông Ngô Đình Diệm là người cần cù, chăm chỉ nhưng ông có nhiều hạn chế.

Hạn chế thứ nhất là quan điểm phong kiến về dòng dõi quan quyền. Ngoai trừ những người ra mặt chống ông Diệm như ông Hà Thúc Ký, Trần Điền… ông Diệm rất ưa những người thuộc dòng dõi quan quyền. Có lắm người nhờ chỗ quan quyền đó mà đời lên rất nhanh. Gặp một người, biết người đó thuộc dòng dõi quan lại, ông Diệm chiếu cố tận tình, giúp cho thăng quan tiến chức nhanh. Một hôm, ông trung úy L.C.C., thân phụ là đồng liêu với cụ Ngô, vào trình diện cụ. Cụ nói: “Mình thuộc bên văn, không phải bên võ.” Vậy rồi trung úy L.C.C. được bổ nhiệm làm phó tỉnh trưởng nội an. Cụ hỏi đại úy L.V.B: “Anh ở Quảng Trị mà con ai?” – “Dạ thưa cụ con ông xã Đ.” Ông xã là lý trưởng, khi ông Diệm làm tri phủ. Ông Diệm biết ông xã nầy. Và cũng nhờ vậy mà đời ông L.V.B lên hương. Và cả các người con trai ông L.M.L., quan thừa phái khi ông Ngô Đình Diệm là quan phủ, cuộc đời cũng lên nhanh. Không phải chỉ chừng đó người được ơn mưa móc của ông Diệm nhờ vào cái mác dòng dõi quan quyền.

Ông Ngô Đình Diệm cũng có một tâm lý đặc biệt nữa: Kính trọng các trí thức cũ, quan lại có tiếng không theo Tây, chống Tây, v.v… như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thành, Tăng Bạt Hổ, Trần Qui Cáp, đặc biệt là với cụ Phan Bội Châu. Sau khi ông Diệm cầm quyền, ông giúp đỡ ông Hoàng Văn Thành (tôi không chắc viết đúng tên ông nầy) thành lập nhà xuất bản Anh Minh ở Ngã Giữa Huế để xuất bản những sách cụ Phan viết trước kia, như “Tự Phán” hoặc Khổng Học Đăng. Bộ sách nầy dày, in rất tốn kém, lại kén độc giả, không có chính quyền giúp, không hình thành được. Ông Thành, người nói ở trên là cùng quê với cụ Phan, sau khi ở tù Côn Đảo được tha, ông không về quê, ở lại Bến Ngự với cụ Phan cho đến khi cụ Phan qua đời. Khi ông Diệm nắm chính quyền, lăng cụ Phan không xây cất gì thêm. Mấy năm trước đó, khi ông Diệm còn bôn ba nơi xứ người, các vị theo ông Diệm đã xây dựng, sửa sang lăng cụ Phan rồi. Họ chỉ tiếp tục việc chăm sóc, giữ gìn lăng mộ mà thôi.

Ông Diệm cũng rất ghét những người “theo Tây” nên con cháu họ, sau nầy, khi làm việc dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, ít được ưu đãi.

Ông Ngô Đình Diệm cũng như anh em nhà ông coi thường những người xuất thân ở chốn bình dân, hoặc đôi khi vì đố kỵ, cố tìm cho được cái nguồn gốc bình thường người khác để coi khinh họ. Khi ông Ngô Đình Nhu muốn cưới (cô) Trần Lệ Xuân, con luật sư Trần Văn Chương, anh em ông Diệm khăn gói ra Bắc lo việc cưới vợ cho ông em, nhưng trong thâm tâm, họ chê gia thế cô Xuân không môn đăng hộ đối, mặc dù ông Trần Văn Chương là một luật sư nổi tiếng ở Hà Nội thời ấy. Bên ngoại bà Xuân là thuộc dòng dõi ông Thân Trọng Huề, tổng đốc hàm thượng thư đời vua Tự Đức. Anh em họ cho rằng, gốc gác bà Xuân thì chỉ là cháu nội “thầy thông ngôn” Trần Văn Thông. Ông Trần Văn Thông, người miền Nam, trước kia làm thông ngôn cho Tây, gốc gác bình thường, không thuộc dòng dõi quan lại, lại làm thông ngôn cho Tây, tức là “Theo Tây”, quay lưng với vua, với nước.

Trong việc hôn nhân nầy, anh em họ cũng tự hào về cái bằng cấp của ông Nhu. Ông Nhu xuất thân École Nationale Des Chartes, là một trường khảo cổ nổi tiếng ở Pháp. Đưa khuỷu ngón tay gõ vào một cái bát cổ, ông Nhu có thể biết cái bát sứ Giang Tây nầy làm đời Càn Long hay Khang Hy. Vì vậy, khi học xong bên Paris về, ông Nhu được Tây đưa vào làm ở Bảo Tàng Viện Huế. Sau nầy, việc ông biến thành lý thuyết gia của chế độ là do tự ông nghiên cứu thêm chớ ông không học một trường nào thuộc loại đó, như Science Politique, là nơi ông Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình tốt nghiệp.

Ông Trần Văn Thông làm thông ngôn và được Pháp trọng thưởng. Ông có Bắc Đẩu Bội Tinh, huy chương cao quí nhứt của nước Pháp. Năm 1947, hai vợ chồng một người bà con của tôi bị bắt ở Hà Nội, tình trạng chỉ còn chờ Tây đem đi bắn bỏ. May nhờ bà vợ có bà con bên ông Trần Văn Thông, bèn tìm cách nhắn ông can thiệp. Nhờ vậy mà hai vợ chồng thoát chết. Thế đủ biết tiếng nói của ông Trần Văn Thông có trọng lượng với Tây như thế nào.

Thật ra, coi thường người khác, nhưng anh em ông Diệm không nhìn lại mình. Nội tổ (ông nội) ông Diệm làm nghề đánh cá, hay chuyên chở hàng hóa gì đó trên sông Nhật Lệ ở Quảng Bình. Vì nghèo khổ, ông bố cho con đi theo ông linh mục Tây. Ông con đi học bên Pénang, Mã Lai, thay vì tiếp tục con đường tu hành thì khi về nước, ông con làm thông ngôn cho Tây ở toà Khâm Sứ Huế, rồi lên chức Trưởng Phòng Thông Sự, sau được Tây đưa qua làm quan bên triều đình Huế; với nhiệm vụ gì, người ta cũng dễ đoán thôi. Ngược lại, cái khí phách của ông Ngô Đình Khả chống Pháp khi bọn Tây truất ngôi vua Thành Thái, đưa đi đày, làm cho người Huế ngưỡng mộ ông, coi ông như là một người yêu nước (Thời ấy, bảo vệ vua là bảo vệ nước). Công lao đó, người Huế thường nhắc trong câu “Đày vua không Khả”.

Cũng vì lòng ngưỡng mộ đó, và nể nang thế lực quan quyền, người Huế ít nhắc lại cái gốc gác “Vạn Đò” của tổ tiên anh em họ Ngô.

Khi ông Khả ra làm việc cho Tây, có tiền bạc, giúp đỡ gia đình thì ông bố bèn bỏ vạn đò, lên mua đất làm nhà ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Sau nầy, trong lý lịch, mấy anh em ông Diệm thường khai là quê ở làng Đại Phong, chớ thực ra, gốc gác không phải ở làng đó. Kể ra, anh em ông Diệm mặc cảm với sự nghèo hèn, chớ trong lịch sử, gốc gác nhà Mạc có khác chi gốc gác anh em ông Diệm. Trong sử còn ghi: “Ông Mạc Đăng Dung làm nghề đánh cá ở đất Hải Dương.” Ông Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Khai sáng ra nhà Mạc trong lịch sử nước ta.

Ngày nay, người ta, nhất là Việt Cộng, thường tổ chức lễ kỷ niệm trường Quốc Học (Huế) mà cố lờ tên ông Ngô Đình Khả, là người đã khai sáng ra ngôi trường nầy. Vậy là bất công!

Nguyên khi nước ta còn độc lập, địa điểm trường Quốc Học bây giờ là trại lính thủy của Nam triều. Khi Tây đô hộ thì lính thủy bị giải tán, chỗ nầy chỉ còn là những cái trại bỏ không. Khoảng năm 1895, 96, vì nhà ở Phú Cam, nên ngày ngày đi làm việc, ông Ngô Đình Khả đi ngang chỗ nầy và ông bỗng có ý định nên mở ra ở đây một “Trường Quốc Học” để dạy chữ Quốc Ngữ và chữ Tây cho những người mới thi đậu (chữ Nho) hay xuất thân trường Hậu Bổ, sắp ra làm quan. Mấy “sĩ tử” nầy chỉ biết chữ Nho, chữ Nôm nhưng mù tịt chữ Quốc Ngữ, cũng như chữ Tây. Công sứ mỗi tỉnh, khi tiếp xúc với quan Nam triều, phải có thông ngôn. Có lẽ do kinh nghiệm của “Thầy thông ngôn” Ngô Đình Khả, việc thông dịch nhiều khi cũng tam sao thất bản, hoặc cố ý dịch sai để có lợi riêng cho ai đó. Vì vậy, ông chủ trương các quan tương lai phải biết chữ Quốc Ngữ và chữ Tây.

Hồi ấy, dân chúng không hoan nghênh việc làm nầy bởi vì học chữ Tây là theo Tây, mà theo Tây tức chống lại triều đình. Trong truyện ngắn “Cựu Học Sanh” của tôi in trong tập Viết Về Huế 1, tôi có thuật lại việc tôi hỏi chuyện cụ Hường Ngô, - Trần Văn Ngô -, (Có người gọi là cụ Thị Ngô) là người học trò niên khóa đầu tiên (1896-1897) của truờng Quốc Học do ông Ngô Đình Khả chủ xướng lập ra. Ông Ngô Đình Khả cũng là vị Chưởng giáo (Hiệu trưởng) đầu tiên của trường nầy. Theo cụ Thị Ngô thì học trò lúc ấy qua trường Quốc Học ở bên kia sông Hương để học chữ Tây và chữ Quốc Ngữ, phải dấu vở (tập) và bút chì trong chiếc áo dài ta. Dấu không cho đồng bào thấy vì sợ bị dân chúng chê cười. Học chữ Tây là theo Tây. Vậy mà ông Ngô Đình Khả lại đứng ra lập trường nầy. Ông ta không sợ mang tiếng theo Tây hay sao? Cụ Thị Ngô bảo rằng ông ta làm thông ngôn cho Tây thì còn sợ mang tiếng theo Tây gì nữa. Cụ Thị Ngô cũng nhận xét thêm có thể ông Ngô Đình Khả nhìn xa thấy rộng, không thể bo bo với mớ chữ Nho mà cứu nước được.

Vì ngưỡng mộ ông Ngô Đình Khả trong việc “Đày vua không Khả” nên người Huế tôn trọng gia đình nầy, “quên” đi những cái mà anh em họ Ngô tự hào một cách vô lối.

Điều nầy, tôi cũng cứ nói ra, nhưng không chắc đúng, tuy vậy, cũng là một số nhận xét của người Huế. Anh em họ Ngô thiếu kính trọng những người tu hành xuất thân từ gia đình nghèo khổ, như đức cha Lê Hữu Từ, linh mục Hoàng Quỳnh, v.v… Dĩ nhiên, bên phía Phật giáo, các vị lên tới hòa thượng, thượng tọa cũng xuất thân từ con nhà nghèo, và cũng có người xuất thân từ những ông thầy cúng, lấy việc tôn giáo, cúng quảy, đuổi tà ma làm kế sinh nhai. Có lẽ đó là nguyên nhân sâu xa những khó khăn của các nhà tu hành đạo Phật, đối với anh em ông Diệm, hay chính bản thân ông Diệm và thông thường nhất là với chính quyền nhà Ngô.

Nhiều người cho rằng anh em ông Diệm rất hãnh tiến, “Mục hạ vô nhân” không phải là sai đâu!

Tuy nhiên, với những người thuộc “con giòng cháu giống” mà lại có bằng cấp cao, thì ông Diệm rất tôn trọng. Trong tất cả các bộ trưởng của ông Diệm, ông Vũ Văn Mẫu, bộ trưởng bộ ngoại giao được ông Diệm tôn trọng nhất. Ông thường gọi ông Vũ Văn Mẫu bằng “ngài”. Ông Vũ Văn Mẫu, thạc sĩ Dân Luật, hình như là cháu ngoại ông Hoàng Trọng Phu.

Bên cạnh đó, với những người con cháu quan quyền đồng song, đồng môn với ông thì ông coi họ như con cháu. Ngược lại, không chắc mấy người nầy thật lòng xem ông Diệm như cha chú của họ.

Vì hãnh tiến, tự cao về lòng yêu nước, hy sinh cho dân nên ông Diệm không thấy cái vĩ đại, cáo hào quang, tiếng tăm của người khác. Trường hợp Nhất Linh là rõ ràng nhất. Nghe tin ông Nhất Linh tự tử, ông Diệm ngạc nhiên, cho rằng có gì mà phải đến như thế. “Có đưa ra tòa, rồi cũng tha mà thôi.” Ông Diệm nói câu đó, và nói như thế là ông Diệm không hiểu gì ông Nhất Linh cả. Có lẽ ông Nhất Linh không sợ bị ông Diệm bỏ tù đâu, để đến nỗi phải tự tử. Ông Diệm cũng không hiểu biết gì về những người yêu nước khác. Về lòng yêu nước, hy sinh cho dân cho nước, chắc gì họ thua kém ông mà ông coi họ như kẻ dưới tay, tự coi mình như “Dân chi phụ mẫu.”

Dù vậy, cái tâm của ông Diệm đối với dân khá lớn. Một lần, khi mới cầm quyền, ông về Hội An, tỉnh trưởng H.L. ra đón. Thấy ông tỉnh trưởng, ông Diệm không ưa. Ông gọi cụ Trần Được tới. Cụ Trần Được là rể cụ Võ Úy, bạn đồng song và cũng là đồng môn với ông Ngô Đình Khôi, khi ông Ngô Đình Khôi làm tổng đốc Quảng Nam thì cụ Võ Úy làm tri phủ Điện Bàn. Sau khi từ chức thượng thư, ông Ngô Đình Diệm thường vào thăm ông anh ở Điện Bàn, nên cũng thường qua chơi nhà cụ Võ Úy, quan hệ khá gần gủi, đến nỗi có lần cụ Võ Úy nói đùa với các con: “Chú Diệm bây không cu.” Vì vậy, khi về Quảng Nam lần đầu tiên đó, cụ Diệm gọi cụ Trần Được tới nói: “Ai cho thằng ni mần tỉnh trưởng. Mắt trắng môi thâm, tướng nớ ác lắm. Mấy người tướng như rứa làm tỉnh trưởng chỉ khổ dân.”

Ông ta sợ dân khổ, quan lại mà ác thì dân khổ. Ông ta biết “Hà chánh mãnh ư hổ.” Như vậy, ai bảo là ông Diệm không có lòng thương dân.

Ở Huế, không ai phê phán ông Diệm chuyện tham ô, ông là người rất thanh liêm, hết lòng vì dân, và cũng không phê bình gì việc ông có để ý, - chỉ để ý mà thôi -, một người con gái. Cô nầy sau lấy chồng Pháp. Người ta nói ông Diệm “để ý” cô nầy là vì có lần ông nói: “Cô nớ tuy lấy Tây nhưng là người có lòng.” Áo quần, tài sản, sự hưởng thụ, ông Diệm có gì? Thay vì cao lương mỹ vị thì sau khi ông Diệm làm tổng thống, ông Cẩn đưa một bà già trầu từ Huế vào Saigon để mỗi sáng làm bánh nậm cho ông Diệm ăn điểm tâm. Bánh nậm, một thứ bánh quê mùa, dân dã, làm bằng bột gạo, nhân tôm, gói trong lá chuối tươi.

Khi chưa cầm quyền, cuộc sống của ông ở Huế rất đơn giản. Khi vào thăm ông anh ở Vĩnh Điện, ông qua chơi nhà cụ Võ Úy, theo cụ Trần Được kể, không ít lần cụ Diệm bảo: “Có cơm nguội dọn cho chú ăn.” Sau khi làm tổng thống, cuộc sống của ông đơn giản như thế nào, đã có nhiều người nói tới, tôi khỏi nói lại.

Tôi từng nghe người Huế hỏi nhau: “Tài sản ông Diệm để ở mô?” Có người nghi ngờ - nghi ngờ thôi - tiền bạc ông giao cho bà Nhu cất và gởi bên ngân hàng Thụy Sĩ. Việc nầy tôi không biết, tôi cũng không tin! Xin khỏi bàn. Nhưng có người hỏi nhau: “Những vật phẩm mà nguyên thủ quốc gia các nước, các nhà ngoại giao biếu ông Diệm thì ông để ở đâu?” Ông ta để trong dinh Gia Long và khi lính vào chiếm dinh ngày đảo chánh, họ lấy hết? Đọc báo hồi ấy, tôi không thấy nói việc đó. Có ai lấy cái gì của ông Diệm? Người ta nói nhiều đến cái ghế “khoái lạc” của bà Nhu mà sau nầy có người cười, cho biết rằng đó chỉ là cái ghế cắt tóc của bà Nhu. Còn tài sản để đâu, quà biếu để đâu? Mới đây, cũng chỉ vài tháng thôi, khi tìm hiểu về gốc gác bà Tôn Nữ Thị Ninh, thì tôi nghe nói như sau:

Bà Ninh là cháu nội cụ Thân Thần Tôn Thất Hân, người nắm quyền triều chính khi ông Bảo Đại, tuy đã lên ngôi, nhưng còn du học bên Tây. Bà Tôn Nữ Thị Ninh gọi ông Tôn Thất Hối và ông Tôn Thất Cẩn bằng bác. Ông Tôn Thất Hối từng làm đại sứ Việt Nam ở Lào, thời ông Ngô Đình Diệm, và là thân phụ một ông bác sĩ hiện ở Cali, hồi đi học hát rất hay, thường hát trên đài phát thanh Huế. Ông Tôn Thất Cẩn thì ở bên Tây, ít khi về Việt Nam. Trước kia ông là “đại biểu” của Việt Nam trong Đông Dương thuộc Pháp hay Hội Đồng Đông Dương gì đó, tôi không rõ cái hội đồng nầy, nhưng có lương do chính phủ Pháp trả. Còn thân phụ bà Tôn Nữ Thị Ninh là cụ Tôn Thất Thiết, là con út (?) cụ Thân Thần, em của hai ông Tôn Thất nói trên. Cụ Tôn Thất Thiết là Chánh sở Nội Dịch phủ tổng thống thời ông Diệm. Bà Ninh, hồi còn nhỏ, được cụ Thiết gởi cho ông anh ở Paris (ông Cẩn) để cho đi học. Việc học của bà Ninh được chăm sóc kỹ, mỗi hè qua học tiếng Anh ở Luân Đôn, nên bà giỏi cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, nhưng không biết đậu bằng cấp gì. Vì là chánh sở nội dịch, mà lại con cụ Thân Thần, dòng dõi quan to nên ông Diệm rất tín cẩn. Tín cẩn như thế nào? Một người quen của tôi là bạn với em bà Ninh, ông nầy là đại úy Dù chế độ cũ. Sau khi đi cải tạo về, ông em bà Ninh nầy, gặp khi túng tiền, đem vài thứ tài sản quí như chén ngọc, đũa ngọc ra chợ trời bán lấy tiền tiêu. Người quen của tôi cho biết, một chiếc đũa ngọc tương đương với một cây vàng nên ông bạn anh ta sống tương đối thoải mái. Tôi hỏi những thứ ngọc nầy ở đâu ra, nó có thể là của gia sản nhà Tôn Thất hay không? Có thể đó là những món quà tặng người ta tặng ông Diệm giao cụ Tôn Thất Thiết cất giữ khi ông ta làm Chánh sở Nội dịch phủ tổng thống không? Người quen ấy trả lời: “Nhiều người cũng nghi như anh. Nhưng đó chỉ là nghi ngờ mà thôi.”

Khi cụ Diệm được an táng, có ngọc ngà châu báu gì chôn theo hay không?.

Về khả năng lãnh đạo quốc gia thì nhiều người nghi ngờ. Nếu ông Diệm làm quận trưởng thì nhỏ quá, khả năng ông ta cao hơn. Tỉnh trưởng thì tạm được, tốt nhứt là thủ hiến, cỡ bằng chức thống đốc bên Mỹ, chớ làm tổng thống thì nhiều việc quá, nhiêu khê quá, phức tạp quá, chính trị quá, ông Diệm không kham nổi. Nhất là về chính trị, ông Diệm không thể là nhà chính trị, bàn tay úp sấp, lật ngửa. Ông Diệm chỉ là một nhà hành chánh, về hành chánh thì tuyệt.

Vì công việc của một tổng thống lớn quá, phức tạp quá, không kham nổi, ông phải nhờ người khác. Nhưng với bản tính đa nghi, nhất là với người không gần gũi, nên ông tin tưởng vào anh em ông. Do đó, anh em ông mới đem tai họa tới cho ông.

Người ta cũng cho rằng ông Diệm rất phong kiến, giành được ngai vàng nhà Nguyễn rồi, “anh em chia nhau mà hưởng vinh hoa phú quí” như người xưa thường nói. Không, mặc dù trong cách nghĩ và làm ông Diệm chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ảnh hưởng phong kiến, nhưng khi ông chia quyền cho anh em chỉ là vì ông muốn nhờ họ giúp mình cùng lo việc nước.

Có phải do đó mà anh em ông Diệm lợi dụng quyền thế để làm bậy?

Mở màn là vụ án “tày trời” - tiếng của người Huế - là “quan hệ với địch”, tức là “Vụ gạo miền Trung Ưng Bảo Toàn.” Đó là việc mua gạo từ Saigon chở ra Bắc bán cho Việt Cộng. Gạo được chở bằng tàu của hãng tàu Nguyễn Văn Bửu. Ông Bửu là em ông cả Lễ (Nguyễn Văn Lễ), mà ông Lễ là chồng bà Ngô Thị Hoàng, chị ông Ngô Đình Diệm. Vụ nầy có dính dáng gì tới ông Cẩn hay không? Đây là chủ trương của Saigon hay của cậu Cẩn, cậu “thông đồng với địch”? Khi câu chuyện bể ra, những người liên hệ bị đưa ra tòa. Nhưng tại sao một việc làm như thế mà bể được? Trung ương làm thì làm sao mà bể. Hoặc dù cậu Cẩn chủ trương, trung ương cũng không để cho bể vì ngoài ông Cẩn còn bà Cả Lễ nữa chi? Vậy là người ta cho rằng “Mỹ chơi”. Đá giò lái một cú! Chánh án xử vụ nầy là ông Th. tr. Th. Xử xong, ông ta dọt lẹ vô Saigon, ở lại miền Trung, ông ta sợ gặp “khó khăn”. Một người bạn học của tôi, cháu ông Th., năm 1958, cho tôi biết như vậy. Sao ông Th. sợ gặp khó khăn? Vì phe nhóm ông Cẩn chăng?

Sau đó thì công cuộc gọi là “cách mạng” ở Huế chỉ là những “phong trào”, rất nhiều phong trào: Nam, phụ, lão, ấu, thanh niên, thiếu nữ, công chức, giáo chức, v.v… nhưng chỉ là hình thức mà thôi và nhất là để dễ theo dõi, “có biện pháp” đối tượng phản động.

Trên thực tế, “cách mạng” có nghĩa là cậu Cẩn nắm hết các nguồn lợi: Hai nguồn lợi lớn là gạo từ Saigon chở ra bán cho dân. Các đại lý, môn bài gạo đều trong tay đám tay chân bộ hạ của cậu. Thứ hai là thầu các công trình xây cất. Bà cả Lễ cũng thầu xây cất. Trước 1954, bà cả Lễ làm ăn như mọi người. Sau 1954, tất cả các hợp đồng đều vào tay “công ty” của bà. Những nhà thầu khác, hoặc bỏ Huế vào Qui Nhơn, Nha Trang, hoặc dẹp tiệm như ông N. B. hoặc “nhảy lầu tự tử” như ông Nguyễn Đắc Phương, hoặc thua lỗ như ông Trương Đình Ph.

Ông B. V., lúc đó là “chủ tịch Nguyễn Phước tộc”. Nguyễn Phước tộc là tổ chức gom những người con cháu nhà Nguyễn. Nhiệm vụ của ông chủ tịch là điều hành việc tương thân tương ái những người trong họ hay có gì khác? Khó nói lắm. Nhưng ông B. V. nầy là một người vô ra nhà cậu bình thường như người thân tình vậy. Có lẽ, tôi nói có lẽ, vì vậy mà ông N. B. gả con gái, một hoa khôi Huế, cho con trai ông B. V. Anh nầy học bên Tây về; bị người dân Huế gọi mỉa là đậu “kỹ sư mía”, một loại bằng cấp tương tự như “kỹ sư nhảy đầm”. Có phải đây là môt cuộc tình… đau đớn, con gái cứu cha. Không rõ, nhưng dĩ nhiên cuộc tình nầy cuối cùng tan vỡ sau khi nhà Ngô sụp đổ.

Sau hai nguồn lợi nói trên là tới nguồn lợi địa ốc: Nhiều cái biến thành “của Cậu”: Khách sạn Duy Tân cho Mỹ thuê, khách sạn Hương Giang trong khuôn viên trường Võ Bị Đập Đá cũ. Chỗ nầy là công thổ mà xây khách sạn tư. Và tới vụ tranh chấp mua khách sạn Morin để cho viện Đại Học Huế thuê. Kết quả của vụ tranh chấp nầy là ông Nguyễn Văn Yến bị tù. Ra tù, ông cạo trọc đầu vô chùa ở, sau khi vợ ông qua đời vì một cái chết mà người Huế có nhiều thắc mắc. Cho tới bây giờ người ta chưa hết xúc động về vụ án nầy vì mấy đứa con của ông bà Nguyễn Văn Yến. Những đứa nhỏ đó ngày xưa học trường Jeanne D’Arc, mặc đầm, đi học bằng xe hơi nhà. Sau khi cha mẹ qua đời, gia đình tan tác, khánh kiệt, chúng nó rơi vào cảnh nghèo khổ, túng quẫn. Hiện giờ, có một đứa con gái con ông bà Yến, hồi ấy là học trò của tôi, bây giờ ngồi bán bánh bột lọc, bánh sắn ở bến xe An Cựu. Tôi đang ở bên Mỹ mà còn nghe được chuyện con nhỏ ấy bán bánh ở bến xe An Cựu thì đủ biết, càng thương xót mấy đứa con ông bà Nguyễn Văn Yến, người ta càng chưa nguôi hận cậu Cẩn, dù cậu đã ra người thiên cổ, và Huế đã trải qua biết bao nhiêu vật đổi sao dời. “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đường.” Thật ra, tiếng dữ đâu chỉ đồn có … ba ngày đường. Việc xảy ra nửa thế kỷ rồi đấy!

Cậu Cẩn là người rất quê mùa, không xa mấy với các ông lý trưởng, chánh tổng ngày xưa. Sau nầy, đời lên hương, hằng năm có lễ lược gì đó, cậu cho vật trâu, hạ heo mời nhiều người đến ăn, từ một số cán bộ xã ấp cho tới bộ trưởng, thứ trưởng ở trung ương. Cán bộ xã ấp, ai được mời tới ăn nhà cậu, coi như là điều vạn hạnh, có người khoe với người khác rằng cậu mời tới cho ăn. Dĩ nhiên, những người nầy thì đông, ngồi quanh hai ba bàn dài, có “gia nhân” của cậu bưng thức ăn, chén đũa ra cho. Cũng lắm người, tuy là khách, nhưng cũng xông xáo bưng dọn, để được cậu khen, để mắt tới. Trong khi khách ngồi ăn thì cậu Cẩn mặc quần lụa, cởi trần, tay cầm quạt giấy mà quạt phành phạch, miệng nhai trầu bỏm bẻm, đi quanh từng bàn, hỏi thăm chung chung: “Răng? Ăn ngon không? Rán ăn no hí?” Cậu làm như cậu cho ăn một bữa là phải nhớ ơn cậu một đời, là ơn mưa móc của vua, không phải ai cũng được cái vinh hạnh ấy. Ai ai cũng cúi đầu vâng dạ, cám ơn cậu rối rít.

Ngoài ra, còn có biết bao nhiêu tiếng xấu về cậu Cẩn, không những người ta truyền miệng mà còn viết thành sách báo nữa đấy. Nào chuyện cậu đi câu cá trên tàu mà che lọng lấy từ trong Đại Nội ra, chuyện nhà mát của cậu ở Thuận An, chuyện cậu đi xe hơi mà bị đèn pha xe đi ngược chiếu vào mặt, nào chuyện “Chín Hầm”, nào chuyện cậu tính lấy Cồn Hến mà làm nơi nghỉ hưu cho anh em nhà cậu.

Khi cậu Cẩn đi trốn vì cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, cậu có mang theo tài sản, mang theo bao nhiêu tài sản, và những gì không mang theo được thì ở đâu, về tay ai?

Ngoài cái sở thú nhỏ của cậu, có nai, thỏ, rắn, rùa, v.v…sau khi cậu bị tù, không ai chăm sóc, cho ăn uống, thì chúng được “giải phóng” trong những nồi cà-ri, nồi thịt xào lăn, hay gì đó, không quan trọng gì, nhưng khi tướng Trí tới đón cậu đưa vào tòa lãnh sự Huế để “bảo vệ an ninh” cho cậu, thì một chi đoàn thiết giáp tới canh giữ nhà cậu, và dĩ nhiên nhiều vật phẩm quí hiếm biến mất, trong đó, người ta nói nhiều tới tượng đức mẹ bằng ngọc, cao nửa thước, giá mấy triệu bạc, bỗng rơi vào tay ai? Có ai gom góp đưa đi đâu tài sản quí hiếm của cậu, có trình lên tướng Trí hay không? Tuy nhiên, giới quân nhân biết ông đại úy T. Q. T., chi đoàn trưởng, là người chỉ huy những xe thiết giáp nói trên. Sau vụ đảo chánh, ông ta xin giải ngũ, mua lại căn nhà nổi tiếng của đại tá Nguyễn Thế Nh. ở trên đường Phan Chu Trinh, Huế. Nhà nầy to và đẹp lắm.

Một người con trai của bà Ấm, gọi cậu Cẩn bằng cậu ruột, khi nghe tin đảo chính, trong cơn hoảng hốt, người ấy lái một chiếc xe Volswagen màu trắng, chở hai vali đựng cái gì đó, chạy ra Quảng Trị, lên Cam Lộ, tính trốn qua Lào nhưng đường đi không được, đành quay về, đi trốn và mấy vali đó vẫn còn ở trong chiếc xe trắng, đậu trong nhà ông (B). N. H., một đệ tử khác của cậu. Những câu chuyện người ta đồn như thế, đúng hay sai, nhưng không bao giờ có đoạn kết.

Không phải là người ta không thêm thắt cho thêm ly kỳ hấp dẫn về tội ác của cậu mà cậu không làm. Ví dụ như chuyện ở Chín Hầm. Cứ một gốc cây cậu Cẩn cho trồng thì có xác một ông thầy chùa được chôn ở đó để bón phân cho cây. Hoặc ở Chín Hầm có nhiều phòng giam các nhà sư và nhiều phòng máu me bê bết. Khi ông Diệm mới bị lật đổ, những chuyện như thế người ta cho là có. Sau nầy, sự tức giận, thù oán có nguôi ngoai thì người ta lại cho là không!

Vài ngày sau khi đảo chánh, (1-11-1963), người Huế, nhất là thanh niên, sinh viên, học sinh kéo nhau ùn ùn lên Chín Hầm xem tội ác của cậu. Người ta đi rất đông, như đi trẩy hội. May mắn, tôi không có trong đám người đó, và những chuyện tôi nghe về Chín Hầm hay chuyện lấy đinh đóng vào đầu các nhà sư khi họ bị bắt trong các cuộc biểu tình chống Ngô Triều năm 1963, thì tôi không tin. Nếu có sự tàn ác đối với các người bị bắt vì đi biểu tình chống nhà Ngô, những chuyện ấy có thể có thật, nhưng tôi không tin cậu chủ trương. Đám khuyển mã quanh cậu, đám đầu trâu mặt ngựa, bảo hoàng hơn vua, thù hận tôn giáo, có việc gì mà chúng không làm.

Có lẽ người Huế họ ghét ông Ngô Đình Thục hơn cậu Cẩn. Lý do? Dễ hiểu thôi: Đụng tới tôn giáo. Từ khi ông Thục về Huế, việc đụng chạm tôn giáo, dĩ nhiên với người theo đạo Phật càng ngày càng gay gắt. Bọn khuyển mã dò trúng ý đức cha như tham vọng lên hồng y, đạo phát triển cho rộng khắp, đâu đâu cũng có, làm cho “bọn Phật giáo không ngóc đầu lên nổi” - lời ông chú tôi nói lại - tôi sẽ nói về ông ấy ở phần sau - v.v… thành ra không có việc gì đạt được những mục đích trên là họ từ, không làm.

Về tướng mạo, người Huế cho rằng ông Thục có cặp mắt ác hiểm lắm, không nhân từ, bác ái chút nào. Còn việc, tôi chỉ xin nói những việc tiêu biểu, gây bất mãn nhiều cho dân chúng.

Bỗng nhiên tháng đó - quả thật tôi không nhớ tháng nào, tiền lương tôi bị trừ $200. Phát ngân viên thông báo: Đóng góp để xây dựng Vương Cung Thánh Đường La-Vang, mà ông Thục đang chủ trương. Tôi không là Phật tử, tôi chỉ là một người theo đạo Phật truyền thống, có nghĩa là mấy đời nay rồi, tổ tiên ông bà tôi đi chùa. Tôi không đi chùa bao giờ, nhưng tôi cũng tự nhận mình là theo Phật giáo. Tam giáo đồng nguyên. Sinh ra và lớn lên trong xã hội Việt Nam, nếu không theo đạo Thiên Chúa thì theo tam giáo: Nho, Phật, Lão. Đơn giản chỉ có vậy. Xưa thường gọi là người lương, để phân biệt với người đạo. Lương là lương dân, đạo nghĩa là có đạo Thiên Chúa. Tôi có phải là người có đạo đâu mà buộc đóng $200 để xây nhà thờ. Chưa nói tới việc ưa hay không ưa, ghét hay không ghét đạo Thiên Chúa, mà tâm lý đó khá phổ biến hồi bấy giờ. Càng bị chèn ép, càng bị đàn áp, sự thù ghét sẽ nổi lên, dâng cao… bỗng bị bắt đóng $200. Ai dám phản ứng? Ai dám chống cậu Cẩn? Ai dám chống đức cha? Ai dám chống chính quyền? Ai dám chống công an? Có nghĩa là chính quyền và công an là của cậu, của anh em nhà họ Ngô, nên đành bấm bụng mà mất hai trăm cho được yên thân. Tôi cũng vậy thôi!

Bỗng nhiên nhà thờ Phú Cam được sửa chữa, và những tảng đá cũ ở nhà thờ Phú Cam được lệnh chuyển ra tu bổ lăng gia đình họ Ngô nằm bên cạnh con đường chạy vòng quanh nhà thờ. Có lẽ vì vậy nên khi bia lăng cụ cố Khả bị sét đánh nứt một đường, người ta lại xì xầm về một điềm báo không tốt, coi như một sự cảnh cáo về những việc làm sai trái của anh em nhà Ngô.

Khoảng năm 1961, ở Saigon có tin ông Diệm chuẩn bị cải tổ chính phủ. Tin mới đưa ra, và tên một vài người được trình làng để thăm dò dư luận, trong đó có 2 ông người Huế. Dư luận Saigon chống, việc ấy có lý do riêng của nó, ngoài đề tài nầy nên tôi không nói tới. Hai ông Huế coi như không trúng tuyển được. Đức cha gọi một ông tới (Do ông ấy kể lại cho tôi nghe), bảo rằng: “Tôi cho anh làm bộ trưởng, nhưng anh nên “trở lại đạo” đi”. Ông ấy trả lời: “Thưa đức cha, con làm việc ở ngoài ni thì được, còn như toàn quốc, con hơi ngại, xin đức cha để cho con suy nghĩ lại”. Vậy là từ chối khéo. Ông ta không muốn theo đạo. Hơn một tháng sau, đức cha đi Saigon về. Hai linh mục đứng đón đức cha ngay tại cầu thang máy bay thì một bên là linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, phía bên kia là linh mục Nguyễn Văn Thuận, gọi đức cha bằng cậu ruột. Vừa xuống hết thang máy bay, đức cha nói với hai ông linh mục ra đón: “Kỳ nầy về tôi trị thằng…. Tôi cho nó làm bộ trưởng mà nó dám từ chối, chống lại tôi.” Cha Thuận sợ bể chuyện ra thì lôi thôi lắm, bèn về thưa lại câu chuyện với mẹ, bà Ấm. Bà Ấm gọi điện thoại ngay, thuật lại câu chuyện cho cậu Cẩn. Cậu Cẩn gọi ông X lên, dặn dò: “Đức cha mà làm thì không ai cản được. Anh hãy liệu mà đi Pháp sớm đi. Hồ sơ du học của anh xong chưa?” Ông X. dạ, cám ơn cậu và dọt lẹ vô Saigon xúc tiến việc xuất dương, tránh tai họa.

Khi ông Ngô Đình Diệm làm tổng thống thì ông Ngô Đình Cẩn có danh xưng là “Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung”. Chức nầy ai đặt ra? Chính phủ Ngô Đình Diệm có văn thư, nghị dịnh, sắc lệnh nào cho cái chức kỳ cục nầy hay không? Tuy nhiên, chỉ đạo có nghĩa là cậu Cẩn nắm hết mọi quyền hành. Chỉ đạo, theo người Huế hiểu là ra lệnh, sắp đặt chức vụ nầy, chức vụ kia… Không rõ chức “Đại Biểu Chính Phủ” thì sao, cậu đề nghị tổng thống hay cậu Cẩn tự chọn, còn các chức vụ khác như giám đốc, tỉnh trưởng, quận trưởng, cậu chọn ai thì chính phủ coi như đó là lệnh của tổng thống, ban hành nghị định, sự vụ lệnh, v.v… Quyền hành cậu Cẩn lớn như thế, ra lệnh bắt ai thì người đó vô tù, tha ai thì người đó ra khỏi tù, v.v… nên người Huế, cũng có khi ở cả Saigon nữa, gọi cậu Cẩn là “lãnh chúa miền Trung”. Lãnh chúa là một chức thời phong kiến ở Tây phương. Cậu Cẩn có khác gì không? Tuy cậu Cẩn không ở trong chính quyền nhưng tất cả quyền hành, dân sự cũng như quân sự đều trong tay cậu, không lãnh chúa thì còn là gì?

Tuy nhiên, vụ đàn áp xảy ra ở đài phát thanh Huế đêm 8 tháng 5 năm 1963 mà kết tội cậu Cẩn thì oan cho ông.

Ông Thục về Huế một thời gian thì nhà cậu Cẩn bỗng vắng hoe khách ra vào. Ông quận trưởng, ông trưởng ty, ông tỉnh trưởng, ông giám đốc, ông thứ trưởng, bộ trưởng, ông tá, ông tướng, từ các nơi về hay từ Saigon ra, thay vì như trước kia vào chầu nhà cậu Cẩn thì nay qua chầu bên tòa Tổng Giám Mục nằm kế bên cầu Phú Cam. Nói nôm na là đức cha mạnh hơn, không những “quyền huynh thế phụ” mà đức cha trở thành một siêu tổng thống, siêu cố vấn, siêu chỉ đạo vì đức cha nói gì, biểu gì thì tổng thống, cố vấn, chỉ đạo, v.v... không nghe nói rằng có ai không vâng lời đức cha!

Vì vậy, khi dân chúng tập trung để đòi hỏi, yêu sách về việc tại sao đài Phát Thanh Huế không phát thanh lại buổi lễ Phật đản diễn ra ở chùa Từ Đàm sáng hôm đó như chương trình thông báo của đài, thì ông Ngô Ganh, quản đốc đài, chịu thua, không quyết định được. Bỗng có lệnh cấm không cho phát lại buổi lễ nầy.

Có điều không rõ: Một là, trong buổi lễ đó, ông Trí Quang có lên tiếng phản đối việc cấm treo cờ ở các tư gia. Việc cấm treo cờ nầy do lệnh ai? Đầu đuôi câu chuyện khá phức tạp, xin dành cho các nhà sử học, viết có sách, mách có chứng. Tôi chỉ xin nói là việc cấm treo cờ là có thật. Ngay tại trung tâm thị xã Huế, các đường phố lớn như Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, tôi không nghe ai nói có cảnh sát đi dẹp cờ Phật. Nhưng những vùng xa như Tây Lộc, An Hòa thì cảnh sát mạnh tay lắm.

Thứ hai là việc cấm phát lại chương trình buổi lễ đó ở trên đài phát thanh. Ai cấm. Ai ra lệnh? Ông quản đốc đài phát thanh là nhạc sĩ Ngô Ganh không tiết lộ ai cấm. Lệnh từ nhà cậu hay từ tòa Tổng Giám Mục, hay từ Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẵng, ông nầy không phải là người theo đạo Thiên Chúa. Việc cai trị đất nước có khi thật buồn cười. Nếu lệnh từ tòa Hành Chánh của ông tỉnh trưởng thì phải có văn thư, có ký tên đóng dấu đỏ đàng hoàng, quản đốc đài phát thanh mới thi hành. Còn như lệnh từ nhà cậu Cẩn hay từ toà Tổng Giám Mục thì khỏi giấy tờ chi cả. Chính đức cha hay cậu gọi điện thoại là được rồi. Thậm chí nhiều khi ông chánh văn phòng, thư ký hay anh tà lọt cắc ké nào đó gọi tới bảo là lệnh của cậu hay lệnh đức cha thì cứ thế mà làm. Dù ai có ba đầu sáu tay cũng phải thi hành. Nếu có ông nào đó, gan lắm, thì gọi điện trở lại để xin xác minh. Thế là xong.

Ông Ngô Ganh trình lên ông tỉnh trưởng. Ông tỉnh trưởng hứa sẽ xuống tận đài phát thanh giải quyết cho đồng bào. Trong khi ông tỉnh trưởng chưa xuống thì xe thiết giáp tới bao vây khu vực đài. (Xin xem “một nhân chứng bất đắc dĩ”, cùng tác giả, trong sđd)

Khi ông tỉnh trưởng vừa mới tới, gặp thượng tọa Trí Quang và ông quản đốc đài phát thanh, đang chuẩn bị để nói chuyện với đồng bào, thì có súng lệnh ba phát, bắt đầu cuộc đàn áp, 7 em bé bị giết.

Không cần phải là một nhà quân sự, những người có trình độ học vấn bình thường cũng biết ngay rằng vụ nầy có một sự “hợp đồng tác chiến” mà ông quản đốc đài phát thanh, cũng có thể cả ông tỉnh trưởng chẳng biết mô tê gì. Còn thiếu tá Đặng Sĩ, tiểu khu phó tiểu khu Thừa Thiên là người nhận lệnh đàn áp. Từ đó đến giờ, ông Đặng Sĩ, khi bị điều tra, khi ra hầu tòa, cũng như sau nầy được trả tự do, bị mất chức thiếu tá, sống đời dân sự hay (ông độc tài) tị nạn chế độ độc tài (Việt Cộng) ở Mỹ, chẳng bao giờ ông hé ra ai ra lệnh đàn áp cho ông.

Nói chung, người Huế đoán chừng có hai nơi ra lệnh đàn áp cho Đặng Sĩ. Hai nơi đó là từ ông cậu hay từ đức cha? Ông cậu đã bị “đảo chánh”, dẹp văn phòng thì còn lệnh lạc gì nữa. Nếu lệnh từ đức cha thì kẹt cứng cảm đám, cả mấy ông bắt Đặng Sĩ điều tra, cả mấy ông chánh án, phụ thẩm, mấy ông luật sư… Ngay chính khi cậu ra hầu tòa án quân sự, cậu cũng không bị truy tố về tội đàn áp ở đài phát thanh mà chỉ quanh quẩn ở các vụ gạo, vụ nhà thầu Nguyễn Đắc Phương “nhảy lầu tự tử” (3), v.v.... Cậu có ra lệnh cho vụ đài phát thanh đâu?! Nhưng trong cái án tử hình của cậu, người ta ngầm hiểu có cả sự “dằn mặt” cho những ai dựa vào một thế lực nào đó mà đàn áp tín đồ Phật giáo. Người ta cũng đồn rằng đó cũng là lý do ông Trí Quang lắc đầu khi tướng Nguyễn Khánh hỏi ông ấy nên tha hay nên giết? Từ khi Tây qua cai trị nước ta, có biết bao nhiêu người dựa vào thế lực bên ngoài để đàn áp, bóc lột đồng bào trong nước; đàn áp, chèn ép đạo Phật, v.v… Ngày nay, cũng nên cảnh cáo, nhắc nhở họ, bằng cái chết của cậu Cẩn để làm gương. Chỉ tội cho cậu. Dù cậu có đáng chết về những gì cậu làm đi nữa thì bên cạnh đó, cậu gánh tội tầy đình cho ai đó, làm gương cho ai đó thì cũng tội nghiệp cho cậu nhiều lắm! Người làm thì không chịu tội gì cả, người không làm thì gánh thêm một trọng tội lên người mà ra pháp trường.

Sau khi vụ đàn áp xảy ra, chính quyền tổ chức họp dân chúng để giải thích. Ở Morin, rạp ciné cũ, đức cha đứng ra giải thích, cải chính lung tung. Ai đi nghe buổi họp ấy cũng cho rằng phía chính quyền xạo quá. Cứ làm bậy rồi đổ thừa cho Việt Cộng là xong. Điều người ta bàn tán nhiều hơn là trách nhiệm vụ đàn áp ở đài phát thanh hôm đó, việc để cho Việt Cộng len lõi vào được để quăng lựu đạn là của chính quyền. Đức cha là người tu hành, lo việc đạo, có dính dáng gì tới đức cha mà đức cha cũng lên tiếng bênh vực chính quyền và đổ thừa việc quăng lựu đạn giết người cho Việt Cộng. Nếu người nào tự cho rằng mình không làm, mà lại đứng ra cải chánh thì khác chi “Lạy ông tôi ở bụi nầy.” Tiếp đó, là vụ đàn áp đẫm máu các cuộc biểu tình, việc quăng lựu đạn cay, lựu đạn khói, lựu đạn cháy vào đám học sinh, sinh viên biểu tình. Bấy thờ thì sự việc rõ hơn nên người ta cho rằng trước sau đều do đức cha mà ra cả.

Không có chỗ nào mà ông Thục không xía mũi vô. Thật ra, đức cha ở trong tòa Tổng Giám Mục, có đi ra ngoài thì cũng tiền hô hậu ủng, đức cha biết gì mà xía vô chỗ nầy, chỗ nọ. Chẳng qua là do đám ong kiến, mà người Huế gọi là “Quần nghị phụ chiên”. Bọn họ theo dõi chỗ nầy, moi móc người kia để báo cáo với đức cha cho có công tác, lập công. Ngay như vụ đàn áp ở đài phát thanh hôm đó cũng vậy. Khi đồng bào tập trung, có lẽ bọn chúng vào trình với đức cha - người ta đoán vậy - rằng: “Bọn Phật giáo muốn làm loạn. Đức cha để con ra trị bọn chúng một cái là xong ngay.” Đức cha chẳng biết tình hình như thế nào, cho rằng bọn nào muốn chống lại chế độ thì dẹp chúng đi. Và rồi đức cha tin tưởng vào cái đám bất tài, ngu dốt ấy, gật đầu một cái, vì tin lời chúng “Một cái là xong”. Thế là anh em Đặng Sĩ – (Bấy giờ ông Đặng Phong là trưởng ty Công An, nắm lực lượng an ninh, Đặng Sĩ, như đã nói, phó tỉnh trưởng nội an kiêm tiểu khu trưởng, nắm lực lượng quân sự địa phương, (vì tỉnh trưởng là dân sự). Hai anh em nhà nầy nắm giữ những phương tiện vũ lực quan trọng để đàn áp dân chúng, bảo vệ chế độ. Chỉ chừng đó cũng biết hai anh em họ có trách nhiệm gì không trong vụ đàn áp hôm đó, khởi đầu cho sự sụp đổ của Ngô triều. Từ hôm 8 tháng 5 ở đài phát thanh cho tới 20 tháng 8 năm đó, đánh phá chùa chiền, lực lượng được xử dụng là cảnh sát và quân đội, do hai anh em Đặng Sĩ chỉ huy.

Ngoài các chức vụ ông nầy ông kia, trong dân sự cũng như quân sự, đức cha sắp đặt đã đành mà thậm chí đại học Huế là cơ quan tự trị, tổ chức giống như bên Tây, vậy mà nhiều giáo sư cũng không yên với đức cha, phải bỏ Huế mà đi.

Những việc làm đúng sai gì đó xảy ra ở Saigon, ở miền Nam, người Huế chỉ nghe nói lại, họ không bàn tán hay phê phán gì nhiều, ngoại trừ, sau khi việc đàn áp xảy ra, người Huế rất bất mãn những lời báng bổ các vị tu hành đạo Phật. Riêng phần đức cha, người ta cũng có bàn tán về việc đức cha, cũng như bà Nhu khai thác rừng, lấy gỗ. Muốn làm được việc nầy, dĩ nhiên người đi rừng đều phải đóng thuế cho Việt Cộng. Trong khi biết bao nhiêu thanh niên lên đường tòng quân, làm lính, làm hạ sĩ quan, vô Thủ Đức hay Võ Bị, Không quân, Hải quân vì họ nhận thấy được cái chức trách của mình, “thất phu hữu trách”. Vậy mà có người thì bán gạo, người thì bán thuốc tây, người bán xăng dầu, người làm rừng đóng thuế cho Việt Cộng. Do đó, dân chúng, người Huế có bất mãn thì cũng là việc dĩ nhiên, không trách chi người ta được.

Về làm giám mục ở Huế, ông Ngô Đình Thục mua lại ngôi nhà lầu của một người Pháp, người ta thường gọi là lầu Jira. Nhà lầu nầy lớn lắm, nằm trên con đường nối liền Phú Cam qua Bến Ngự, nguyên là của một người Pháp. Sau khi mua xong, đức cha cho sửa sang lại rất đẹp, đầy đủ tiện nghi và hiện đại. Sau cuộc đảo chánh, nhiều người kéo nhau đến xem ngôi nhà lầu nầy vì người ta đồn đức cha đi tu mà sống sang trọng, và sung sướng lắm. Cũng có người nổi giận đập phá nhiều thứ trong nhà, nhứt là bồn tắm, phòng ngủ. Có người nói: “Tu hành chi mà sướng ri!?” Vì sự đập phá đó, chính quyền phải cho cảnh sát đến canh gác, không cho ai vào xem nữa. Tôi tình cờ vào ngôi nhà nầy, khi một người học trò cũ của tôi, làm cảnh sát và hôm đó anh ta có nhiệm vụ canh giữ ở đấy. Ngôi nhà lầu quả thật rất lớn và sang trọng lắm. Nhiều thứ trong phòng tắm và phòng ngủ rất đẹp, nhưng bị đập phá hư hết, thật đáng tiếc.

Trong anh em cụ Diệm, người ít được người biết nhất nhưng có cảm tình nhiều nhứ là ông Ngô Đình Luyện. Ông Luyện tính tình phóng khoáng, cởi mở, giản dị, thậm chí… ham vui, và qua nhiều người làm lớn trong chính quyền hồi ấy nói lại, thì trong số anh em cụ Diệm, công lao xây dựng chế độ lúc ban sơ, ông Ngô Đình Luyện là người có công đầu.

Khi mới về cầm quyền, ở Saigon, ông Diệm bị nhiều người, nhiều phe phái chống đối, coi như tứ bề thọ địch. Ông Ngô Đình Luyện lúc ấy còn ở bên Tây, làm đặc sứ, nhưng thường về Saigon giúp ông anh. Ông tiếp xúc với người nầy, giao thiệp với người kia, trao đổi với người nọ, thuyết phục, lôi kéo họ thôi chống đối, hợp tác với chế độ mới.

Sau khi chế độ vững rồi, ông Nhu trở thành cố vấn chính thức và nắm nhiều quyền hành, thì trong một lần ông Luyện về Saigon, khi xe hơi ông ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt được một đổi thì có mấy phát súng bắn vào xe. May ông Luyện không can gì. Việc nầy, ở Saigon ít ai biết tới. Chính quyền có cho điều tra không thì không biết; nếu có, chắc cũng chẳng công bố. Nhưng ở Huế thì nhiều người biết, vì sau đó, khi qua Anh, ông Luyện kể lại chuyện bị bắn cho vài kẻ thân tình nghe. Rồi chuyện đó lan rộng ra, tới tai nhiều người Huế đang sống ở Paris và Luân Đôn. Dĩ nhiên, lời đồn ấy từ thân nhân bên Tây tin về Huế. Người Huế cũng buồn vì chuyện ấy đấy. Hồi đó, cảm tình với cụ Diệm của họ còn nhiều, còn đậm lắm, và người ta cũng không vui gì khi thấy anh em cụ nồi da xáo thịt. Người ta cũng không nói rõ hay biết rõ người chủ trương bắn ông Luyện là ai? Người nào đó muốn giết ông Luyện thật hay chỉ là cảnh cáo? Có lẽ chính quyền cũng khôn. Dấu kín đi là hơn; còn như công bố ra rồi đổ thừa cho Việt Cộng thì chính quyền biết rằng người dân sẽ không tin. Sau vụ bị bắn đó, ông Luyện ít về Saigon. Có về, ông cũng chỉ loanh quanh vui chơi với bạn bè, chớ không mấy khi dính líu tới việc chính trị như trước, trừ phi ông Diệm kêu vào hỏi chuyện nầy, chuyện nọ.

Việc kẹt nhứt của ông Luyện là việc ông Ngô Đình Diệm lật đổ ông Bảo Đại. Ông Bảo Đại và ông Luyện là bạn học với nhau khi còn đi học ở Paris. Không những học chung một trường Tây mà còn học chung chữ Nho với nhau ở tại nhà. Hồi ấy, triều đình gởi qua Pháp một “Thầy đồ Nho” để dạy chữ Nho, dạy tứ thư, ngũ kinh, v.v… cho vua Bảo Đại. Ở trường, ông học chữ Tây, về nhà, ông học chữ Nho, và học cũng chăm lắm. Học để về làm vua, nên ông không dám lơ là. Bạn học thân thiết của ông Bảo Đại lúc đó là ông Ngô Đình Luyện, hai người cùng “giồi mài kinh sử” ở trường cũng như ở nhà, coi như “ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu”.

Sau nầy, ông Luyện đậu kỹ sư, về nước làm việc cho một công ty Pháp. Ông Bảo Đại về trước, lên ngồi trên ngai vàng. Hai người đi hai con đường. Ông Luyện không tìm ông Bảo Đại để cầu cạnh nọ kia. Một hôm, tình cờ, vua Bảo Đại gặp ông Luyện ở Quảng Ngãi. Vua Bảo Đại mừng lắm, ôm chầm lấy bạn cũ, và trách rằng sao đã về nước mà không cho ông ta hay. Ông Luyện cũng mừng, nhưng chỉ chừng đó, không liên lạc gì với vua nữa.

Sau vụ “Trưng Cầu Dân Ý” (có lời dặn dân chúng “Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”), ông Luyện gặp lại ông Bảo Đại. Tưởng rằng cựu hoàng trách cứ mình lắm, nên ông Luyện hơi ngại ngùng, nhưng ông Bảo Đạo vẫn tự nhiên như không có gì. Khi ông Luyện tỏ ý ân hận vì việc truất phế, ông Bảo Đại tự cho rằng lỗi ở ông mà không trách cứ gì ông Diệm cả. Thái độ cao thượng đó làm ông Luyện cảm động lắm, thường đem chuyện đó kể cho nhiều người thân cận nghe.

Đầu năm 1963, khi tình hình miền Nam có nhiều bất ổn, tin đồn đảo chánh nói đi nói lại nhiều nơi, ông Luyện về Saigon và cũng có ý lo cho anh mình nhưng không làm gì được. Trở lại Luân Đôn, trong một buổi họp nhân viên, ông Luyện hỏi chung: “Trong trường hợp hãn hữu mà có một cuộc đảo chánh thì ông Th. cũng như các anh em khác trong sứ quán sẽ đều đứng đằng sau tổng thống chứ?” Tiến sĩ Phan Văn Th. đáp lại: “Thưa đại sứ, cũng không hẳn là vậy. Chúng tôi ở đây là “công bộc” chứ không phải là “người” của một ai cả. Bao lâu tổng thống còn được lòng dân thì chúng tôi đều đứng sau người. Nhưng khi nào tổng thống đi ngược lại ý dân thì chúng tôi không còn phải theo tổng thống nữa”. Các nhân viên tòa đại sứ ở Anh lúc đó cho rằng việc làm của TS Phan Văn Th. là liều lĩnh và gan dạ, tại vì nói như thế có thể mang họa. Tuy không đồng ý với TS Phan Văn Th., nhưng ông Ngô Đình Luyện cũng không tỏ ra thái độ bất bình hay sẽ trừng phạt. (Xin xem “Tiến Sĩ Phan Văn Thính, 23 năm trong ngành ngoại giao VNCH”, cùng tác giả, trong tập “Quê Ngoại”). Đúng ông Luyện là người có trình độ, hiểu biết, không hay thù vặt.

Huế, chốn vua quan, nên người ta có tâm lý trọng khoa bảng, vì ngày xưa, ai đậu cao thì làm quan to, cho nên họ cũng có cảm tình với ông Ngô Đình Nhu, học giỏi, xuất thân một trường nổi tiếng bên Tây. Tuy vậy, họ chẳng quan tâm gì tới học thuyết “Nhân Vị” của ông Nhu, dù nó có “sặc mùi Công giáo” như cụ Mỹ Tín và nhiều người ở Saigon nói hay không, và họ cũng không quan tâm gì tới cái gọi là “Quốc Sách Ấp Chiến Lược”. Còn với “Tố Cộng là quốc sách” thì người Huế cũng không có phản ứng gì, ngoại trừ Công An bắt người đánh đập, tra khảo một cách tàn ác. Người Huế có từ tâm, hay thương người rơi vào vòng lao lý.

Những người có học vấn ở Huế, biết gia đình cụ Ngô, họ cho rằng ông Nhu là người không tưởng (utopistes) nên tất cả chương trình ông Nhu đưa ra đều mang tính không tưởng như vậy. Nói thì hay nhưng không áp dụng, không xây dựng được.

Chủ nghĩa Mác cũng là một thứ không tưởng. Nhưng thật ra, theo tôi nghĩ, đời nầy cái gì là không không tưởng. Chúa hay Phật mà còn sống tới bây giờ chắc cũng khóc ròng vì cái nhân loại nầy có bác ái không, có từ bi không, hay giết nhau, bóc lột nhau ghê quá; có mấy ai nhớ lời Chúa giảng hay lời Phật dạy. Còn như tới ông Mohamad thì cũng phải lo mà trốn khỏi đám đệ tử quá khích của ông. Những người gần gũi chúng ta hơn, như cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu, gần hơn nữa thì có nhóm Tự Lực Văn Đoàn với những tư tưởng mới mẻ, tinh thần mới mẻ, như Hoàng Đạo mô tả trong Con Đường Sáng, thì nói cho cùng, mấy ông ấy, đâu có ai vui khi từ giã cõi trần. Thế giới nầy, nhân loại nầy, nhìn họ rồi so với lời Chúa, lời Phật, với những ước vọng của các cụ Phan, của Nhất Linh, thì quả thật đáng buồn, buồn lắm! Nhân loại đang ở điểm A và nhiều người muốn đưa nhân loại hay dân tộc mình đến điểm B. Đến được điểm B hay không là điều chưa bàn tới, nhưng con đường đi tới điểm B của những kẻ độc tài, chuyên chính thì đầy máu và nước mắt của nhân loại, của dân tộc. Có thể Chúa hay Phật chưa đưa nhân loại tới được điểm B, nhưng ít ra cũng làm cho con người nhân ái hơn, từ tâm hơn, chớ không đem lại những thứ đau khổ vô bổ như những tay độc tài không tưởng.

Tôi có bi quan quá chăng?!

Đối với những người Huế theo dõi tình hình chính trị và hoạt động của anh em nhà ông Diệm, thì người ta cho rằng ông Luyện là người có công xây dựng. Ông kết hợp nhiều người chống đối hay không có hoạt động gì tham gia chính quyền mới, đoàn kết chung quanh ông Diệm. Ngược lại, những người thuộc các đảng phái khác, các tôn giáo khác, những phần tử trí thức lừng chừng, không tích cực ủng hộ chế độ, phần đông đều bị ông Nhu cho vào tù, có người bị thủ tiêu. Xây dựng chế độ độc tài là “công” của ông Nhu. Việc nầy, người ta trách ông Nhu nhiều lắm. Một người trí thức như thế, “học rộng tài cao” như thế, không biết rằng dân chủ, tự do là khuynh hướng hiện đại của nhân loại hay sao? Vậy mà, ông ta lại đi xây dựng một chế độ độc tài tàn ác. Vậy là nghĩa làm sao? Học để làm gì, biết để làm gì? Nhân vị là cái gì mà ai ai cũng có thể vào tù, bị giết một cách dễ dàng, không cần luật pháp, ra tòa, nói chi tới tự do, dân chủ, nhân quyền, v.v…

Đối với người Huế, điều quan trọng chính là sự xung đột tôn giáo, là việc đạo Phật bị chèn ép, người dân bị buộc theo đạo Thiên Chúa, vụ đàn áp ở Đài Phát Thanh Huế. Những chuyện đó người ta trách cứ ông Ngô Đình Thục nhiều hơn. Còn việc ông Cẩn độc quyền lúa gạo, thầu xây cất, lấy lọng trong Đại Nội đem dùng, v.v… thì người ta cũng cho rằng “Được làm vua thua làm giặc, chớ cách mạng cái chi!” Quả thật là từ khi ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền, Huế chẳng có việc chi là “cách mạng” hết, ngoại trừ việc giáo dục phát triển hơn. Viện Đại học Huế hình thành là do công của ông Diệm; nhưng lạ, tôi ít thấy người ta nhắc tới công lao ấy. Nhiều cái xấu che mờ một cái tốt đi chăng?

Phần đông, người ta nhìn chung vấn đề, ít phân biệt lỗi tại ông nầy, ông kia, chẳng hạn như cái nầy là tại đức cha, cái kia tại bà Nhu, hay tại cậu Cẩn, v.v… Mọi đều đổ tôi lên đầu ông Diệm. Tôi nhớ buổi sáng ngày 24 tháng 11 năm 1963, qua đài VOA, tôi nghe tin ông Kennedy bị bắn chết ở Dallas. Khi đó, tôi đang đứng nói chuyện trước sân nhà với anh Hoàng T., một người bạn đồng nghiệp, cùng dạy một trường. Bỗng ông Bàng, một người “têm trầu” cho cậu, nay nghĩ hưu, - ông đại úy Đ. thay thế công việc đó -, ở ngôi lầu sát bên cạnh, ló đầu ra cửa sổ, nói lớn với anh em chúng tôi: “Thầy ơi! Thằng Kennedy bị bắn chết rồi. Nó bị trừng phạt cái tội của nó.” Ý ông ta muốn nói vì Kennedy ra lệnh giết ông Diệm nên nay bị trừng phạt. Bỗng, anh Hoàng T., đang đứng với tôi, trả lời ngay cho ông Bàng, mặc dù hai người không quen biết gì nhau: “Người ta chết thì lên thiên đàng, còn bên nầy thì xuống địa ngục.” Tôi không ngạc nhiên lắm về câu nói của người bạn đồng nghiệp. Đối với người Huế, họ từng đặt bàn trầm, treo ảnh cụ, đứng đầy đường để đón cụ, hoan hô khi cụ mới về nước chấp chánh, thì bây giờ, sau những vụ đàn áp đẫm máu và tàn bạo ở giốc Nam Giao, Bến Ngự khi các vụ tranh đấu xảy ra, thì ân đã biến thành oán mất rồi. Họ được gì kể từ khi hoan hô cụ về nước làm cách mạng? Không được gì hết, ngoài những chèn ép, bóc lột, đàn áp Phật giáo, mà ở Huế, người theo đạo Phật rất đông và rất thuần thành. Tất cả những gì sai trái anh em nhà Ngô làm nên, cụ Ngô gánh lấy hết. Nguời Huế chỉ đi đón và hoan hô cụ Ngô, không ai đi đón và hoan nghênh đức cha, ông Nhu, cũng như cậu Cẩn. Kết quả của việc hoan nghênh đón rước ấy, bây giờ chỉ là nỗi oán hận của người Huế mà thôi!

Cũng xin nói về chuyện thành lập viện Đại Học Huế một chút. Đây là điều ước muốn của ông Diệm từ lâu lắm, khi ông còn ở Huế, chưa bôn ba nơi xứ người. Ông về làm thủ tướng 1954, làm tổng thống năm 1955, vậy mà năm 1957, viện đại học Huế đã khai giảng niên khóa đầu tiên. Để tạo danh tiếng cho viện đại học nầy, giáo sư N. Q. T., tiến sĩ vật lý, được mời giữ chức vụ viện trưởng. Ngân sách ban đầu, bao gồm cả ngân sách quốc gia và viện trợ Mỹ là 400 triệu. Ông thầy của tôi cùng với người em của giáo sư N. Q. T. được giao nhiệm vụ chuẩn bị cho sự thành lập viện đại học nầy. Cậu Cẩn biết có 400 triệu, bèn đòi chia một nửa. Việc nầy là vừa bất hợp pháp lại vừa bất hợp lệ, đời nào giáo sư N. Q. T. chấp thuận. Sự từ chối của ông cũng có nghĩa là từ chối luôn cả chức vụ viện trưởng. Linh mục Cao Văn Luận bèn đứng ra nhận cái chức nầy, dĩ nhiên cũng nhận luôn điều kiện của cậu Cẩn. Thấy linh mục Cao Văn Luận chỉ có bằng cử nhân nhưng làm viện trưởng, ông Diệm ngần ngại. Nhưng cha Luận, cả hơn chục năm nay, từ khi cha ở Hà Tĩnh về Huế, là người rất gần gũi gia đình cụ Ngô, nhiều chủ nhật đến làm lễ tại nhà cho gia đình. Vì vậy, công việc rồi cũng xong.

Riêng về đám khuyển mã quanh cậu Cẩn, quanh đức cha thì người ta chê bai dữ lắm. Làm gì mà mang tới loon đại úy chỉ nhờ một việc là têm trầu cho Cậu ăn. Người ta phê bình ông đại úy Đ. như thế đấy. Họ còn gọi mỉa là “đại úy têm trầu”. Thật ra, theo tôi nghe nói, thì ông Cẩn hay ăn trầu, nên người ta mới gọi ông Cẩn là “ông cố Trầu”, nghĩa là “ông cố vấn ăn trầu”, hoặc “Cậu Út Trầu” (Thực ra, ông Ngô Đình Luyện mới là út, ông Cẩn chỉ mới áp út mà thôi). Việc ăn trầu của ông cũng cầu kỳ. “Người ta” phải tìm cho được trầu Sòng (Chợ Sòng) hoặc trầu chợ Dinh, Nguyệt Biều (làng Nguyệt Biều), cau Nam Phổ (4), và người têm trầu phải thật khéo tay, têm cánh phượng (5).

Ngoài ra, đám mà người Huế gọi là “Xây lô cố” nầy thì đông lắm, ở khắp trong các ngành, nhứt là Công An.

Thời gian nầy, Công An “dữ dằn” hết chỗ nói. Khoảng đầu thập niên 1950, nhiều người bỏ Việt Minh, trở về vùng quốc gia, xin đi làm việc hay đi dạy học. Đối với công an, ông nào cũng có cái “vết đen” trong hồ sơ vì đã từng theo Việt Minh. Ông N. Q. Ng., được ông X. bảo lãnh nên được vào làm hiệu trưởng một trường trung học ở Đà Nẵng, ông H. V. cũng cùng trường hợp, vào làm giáo sư cùng trường. Một hôm, Công An Thừa Thiên-Huế vào bắt ông V. đưa về Huế. Ông Ng. sợ quá, chạy về Huế tìm cách cầu cứu. Ông X. nghe vậy, bèn lên trình cậu Cẩn. Cậu chẳng biết gì, bèn biểu tới hỏi ông tỉnh trưởng Thừa Thiên-Huế lúc đó là ông Hà Thúc Luyện. Hỏi ông tỉnh trưởng, ông ta bảo có thấy ty Công An báo cáo hay xin lệnh lạc gì đâu. Ông tỉnh trưởng bèn gọi điện thoại hỏi ty Công An thì ty Công An trả lời rằng ông H. V., sau khi bị bắt từ Đà Nẵng đem về, đã nhảy xuống giếng tự tử rồi. Ông nầy đã chết mà cũng nhảy xuống giếng được, giống như nhà thầu Nguyễn Đắc Phương nhảy cửa sổ lầu vậy.

Tôi có người bạn học cùng trường, tên là L. Th., chừng tới đệ Ngũ thì bỏ học vì thuộc loại học trò “đút vở bụi tre” (để đi chơi, ham chơi hơn ham học). Thế rồi nhờ ông anh của anh ta là L. H., nhân viên ty Công An Thừa Thiên-Huế, thường vô ra nhà cậu, là tay chưn của cậu nên anh ta được vào làm Công An, biệt phái đặc trách Thanh Niên Cộng Hòa Thừa Thiên-Huế, văn phòng đặt tại ngôi nhà nhỏ trong vườn hoa Tòa Khâm Sứ cũ, phía bờ sông, ngày ngày đi làm có xe Jeep đưa rước. Khi chúng tôi còn là học sinh trường Khải Định (năm đó chưa đổi tên là Quốc Học), mỗi ngày đi học, tới tập trung ở cổng sau chờ giờ mở cổng, thì xe Jeep đưa anh đi làm ngang qua. Gặp bạn đang đứng chùm nhum ở đó, anh ta lơ, giả bộ đọc báo. Có đứa bạn tôi, thấy anh ta, nói: “Trời, tưởng ai, thằng L. Th. Bây giờ đi làm có xe, ngon thiệt!” Có lần, một người bạn khác nói: “Bây giờ nó làm cách mạng. Nó chê người Huế không có tinh thần cách mạng chi cả. Nó mà cũng lên giọng cách mạng, tức cười chưa?!” Hồi đó, anh ta chỉ là Công An viên nhưng làm to như thế. Gần hai chục năm sau, sau khi Ngô triều sụp đổ đã lâu, vào trại tù cải tạo của Việt Cộng, gặp anh ta, tôi hỏi bạn tù tại răng ông nầy đi ở tù, người ta bảo rằng ông ta là thượng sĩ cảnh sát. “Sống lâu ra lão làng đấy chứ!” Công danh theo con đường chân chính bao giờ cũng chậm lụt hơn con đường nịnh hót.

Khi ông Diệm mới về cầm quyền, cán bộ hành chánh còn thiếu, ngoại trừ một số công chức cũ có bằng cấp như ông Tham Luyện, ông Tham Duyến, rất nhiều thầy trợ (Trợ giáo) được cho đi làm tỉnh trưởng như trợ Đông, em chồng bà Cả Lễ, làm tỉnh trưởng; hoặc phó tỉnh trưởng hay quận trưởng. Dần dần, mấy ông nầy bị ra rìa, một là vì không chịu “rửa tội” (Có nghĩa là theo đạo), không chịu vô đảng Cần Lao, hoặc là vì tuổi tác, phần lớn cao tuổi, bị đám trẻ hơn đẩy đi, v.v… Đám tay chân của cậu bây giờ, những người mới, trước 1954, khi cậu chưa có quyền hành chi, chẳng ai léo hoánh tới nhà cậu, một phần vì chẳng có “xơ múi” gì, một phần vì sợ. Chắc chi không bị Tây hay đám mật thám Tây theo dõi vì ông Diệm là người chống Tây; tới lui, họ sợ mang họa. Một lý do nữa, nhà cậu Cẩn là nhà quan quyền, văn học, nho phong, chữ nghĩa, bằng cấp, v.v…họ mặc cảm, dốt nát, không lui tới được.

Sau nầy, ở Huế, người ta truyền nhau câu ca dao như vầy:

Một Đ mới đứng ngoài sân
Hai Đ mới được bước chân vô nhà
Ba Đ con cháu ruột rà
Bốn Đ là chủ, là cha trên đời. (4)

Giải thích:

a)- Một Đ là đoàn viên thuộc “Phong Trào Công Chức Cách Mạng Quốc Gia”, “Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa”, “Phong Trào Giáo Chức Cách Mạng Quốc Gia”, v.v…

b)- Hai Đ là đoàn viên các phong trào nói trên, cộng thêm Đảng viên đảng Cần Lao.

c)- Đ thứ ba là Đạo, người đã có đạo Thiên Chúa hay phải xin “rửa tội” theo đạo.

d)- Bốn Đ: Đồng hương, cùng là dân Quảng Bình với cậu Cẩn.

Những người không có chữ Đ nào, hoặc chỉ một Đ mà thôi thì dù có chức, dần dà sẽ bị mất chức, chỉ còn lại nhân viên, sĩ quan thường, “ngồi chơi xơi nước”. Ở ngành công an thì nguy hơn, muốn yên thân cũng không được, bị thuyên chuyển, phát vãng lên cao nguyên: Kontum, Pleiku, Bamêthuột, v.v… Ai là công chức, sĩ quan mà thường đi chùa, hoạt động cho Phật giáo thì căng hơn, bỗng nhiên có giấy… thuyên chuyển khỏi miền Trung, còn như chuyện lên loon, thăng quan, tiến chức thì khó lắm.

Chỉ ở những ngành có chuyên môn cao như Y Tế với các ông bác sĩ, ngành công chánh với mấy ông kỹ sư, ngành giáo dục với mấy ông giáo sư, thì bọn khuyển mã của ông cậu, mặc cảm mình dốt nát, học hành chưa tới đâu, bằng cấp không có gì nên chúng không xía mũi vô dòm ngó, theo dõi báo cáo lên cậu mà thôi. Vả lại, đối với những ngành nầy, cậu cũng biết sở đoản của cậu. Cậu không có bằng cấp gì. Vả cậu cũng có cái tâm lý người Huế là trọng khoa bảng, nên giao khoán cho các vị có uy tín trong ngành đó, tổ chức phong trào, tham gia biểu tình, đừng để ai lập phe, lập đảng chống lại tổng thống là được. Nhờ vậy, vài ba ông có bằng cấp cao, thường vô ra nhà cậu mà giúp đỡ được cho người thuộc quyền của mình, không bị công an quấy rầy.

Gia đình mụ Luyến cũng là môt trường hợp đáng nói. Mụ Luyến được coi như gia nhân nhà cậu từ lâu. Khi đời cậu lên hương, đời mụ cũng như gia đình mụ lên theo. Ái, Ân, hai người con trai của mụ, học hành chẳng ra gì, chưa đậu bằng trung học đệ nhất cấp, cũng đặc cách ngạch tham sự (Ít ra phải có bằng tú tài). Ân làm việc tại nha Thông Tin, làm việc là cho có tên để lãnh lương, chớ anh ta có làm gì đâu, ngoài việc lái xe chạy chơi cà nhỏng tối ngày. Sau đảo chánh, gia đình nầy dọn vào Saigon, mở tiệm bán TV-Radio ở đường Võ Di Nguy.

Từ khi cụ Phan Bội Châu bị giam lỏng ở Bến Ngự, tuy mật thám Tây canh chừng, theo dõi gắt gao, cũng có nhiều người vô ra nhà cụ, nhất là những người đồng chí cũ của Cụ, những người có tinh thần chống Pháp, tinh thần cách mạng, v.v… như cụ cử Võ Bá Hạp, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng. Lớp trẻ thì có ông Võ Như Nguyện là con cụ cử Võ Bá Hạp, các học sinh nam nữ trường Khải Định, Đồng Khánh, v.v… Cũng có dư luận nói rằng, anh học trò Võ Giáp, (sau nầy theo Cộng Sản, thêm vào tên đệm là Nguyên thành Võ Nguyên Giáp - Giáp nầy là một trong “Thập thiên can” chớ không phải áo giáp hay xe thiết giáp. Chưa bị súng đại bác bắn nên còn nguyên), cũng có ra nhà cụ Phan, nhưng chỉ được một năm đầu. Sau đó, Võ Giáp bị đuổi học khỏi trường Khải Định, qua học trường tư, sợ mật thám Tây nên không còn lui tới nhà cụ Phan nữa.

Từ chỗ lui tới làm học trò cụ Phan mà thành ra có quan hệ với ông Ngô Đình Diệm. Tới cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950 thì số nầy còn lại rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay. Khi cụ Ngô ở Saigon hay ngoại quốc về thì họ đến vấn an, khi cụ Ngô đi ngoại quốc thì họ vô ra với cậu Cẩn, thăm viếng, tham dự những bữa tiệc nhỏ trong gia đình mà đếm đi đếm lại, cũng chẳng có bao nhiêu người.

Nguyên thủy họ là những người lui tới với cụ Phan, học chữ Nho với cụ. Qua cụ Phan, họ cũng đặt lòng ngưỡng vọng nơi Kỳ Ngoại Hầu, cũng hy vọng một ngày Kỳ Ngoại Hầu về nước chống Pháp, đánh đuổi quân xâm lược, và Kỳ Ngoại Hầu sẽ ngồi trên ngai vàng. Cũng từ nơi đó, họ được tiếp xúc với cụ Ngô và sẵn lòng ngưỡng mộ cụ Ngô là người có cái tiếng “từ quan chống Pháp”. Đến khi cụ Phan qua đời năm 1941, cụ Ngô trở thành con chim đầu đàn của nhóm người nầy, trở thành người lãnh đạo họ. Sau khi Nhật đảo chánh Pháp và mời cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng thì mối hy vọng của họ đối với Kỳ Ngoại Hầu được Nhật Bản giúp đỡ, hỗ trợ cũng phai dần. Nếu Kỳ Ngoại Hầu có vai vế với người Nhựt, nếu tiếng nói của Kỳ Ngoại Hầu có trọng lượng với người Nhật, thì cụ Ngô, người đại diện cho Kỳ Ngoại Hầu ở Việt Nam sẽ làm thủ tướng hồi đó chứ đâu phải cụ Trần Trọng Kim. Từ đó, họ đặt hy vọng nơi cụ Ngô nhiều hơn, Và với tinh thần chờ đợi một đấng minh quân cứu nước, họ càng thêm hy vọng nơi cụ Ngô, cụ Ngô sẽ là một minh chúa, cứu nước cứu dân. Tuy nhiên, nhóm người nầy thuộc lớp lớn tuổi, sinh vào đầu thế kỷ, từng vào ra cửa Khổng sân Trình nên không được cảm tình của Ngô Đình Nhu. Tập họp quanh ông Nhu là nhóm Xã Hội (tên tờ báo Xã Hội, một tạp chí do Ngô Đình Nhu chủ trương). Nhóm ông Nhu trẻ, có học Tây, gồm những người như Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Đình Thuần, Lâm Lễ Trinh, Trần Chánh Thành, Tôn Thất Trạch, sau nầy nhiều người làm bộ trưởng, tổng giám đốc trong những chính phủ đầu của ông Ngô Đình Diệm.

Những người tập họp quanh cậu Cẩn lúc ấy, một số thuộc bên văn, đỗ đạt trước 1945, nhưng bằng cấp không cao lắm, như các ông Võ Như Nguyện, Ngô Đình Thảng (công chức), Nguyễn Đôn Duyến (công chức), Nguyễn Đình Cẩn (công chức), Ngô Ganh (nhạc sĩ), Thái Quang Hoàng, (quan một - thiếu úy Pháp, tốt nghiệp trường sĩ quan quân sự TON, cùng một khóa với Hà Văn Lâu, sau nầy là đại tá Việt Cộng), Nguyễn Ngọc Lễ (gốc là hạ sĩ quan, lính Khố Đỏ Pháp). Đỗ Mậu (ĐM - nguyên là HSQ lính Khố Xanh), Phùng Ngọc Trưng (như ĐM), Đinh Sơn Thung (như ĐM), Trần Hữu Điểu (Đội trưởng lính Khố Vàng, bảo vệ Đại Nội), Kỳ Quan Liêm, Huỳnh Hữu Hiến… Ông Lê Khương, tốt nghiệp trung học thời Pháp thuộc, khi quân đội Quốc Gia thành lập, ông được đồng hóa đại úy, cùng trong nhóm với các ông Đỗ Mậu, Đinh Sơn Thung…

Các vị nầy, trước khi cụ Ngô về cầm quyền, thường lui tới nhà cậu Cẩn, nhất là trong các dịp lễ tết. Họ chỉ ủng hộ vậy, chớ không có hoạt động gì mạnh, ngoại trừ vài lần rải truyền đơn trong Đại Nội hoặc tại thành phố Huế. Hoạt động của họ bị hạn chế vì số đông là công chức hoặc quân nhân, sĩ quan trong Quân Đội Quốc Gia thời Bảo Đại. Tuy nhiên, khi việc tranh chấp giữa thủ tướng Ngô Đình Diệm và trung tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng, trở nên gay gắt thì họ đứng hẳn về phe thủ tướng Ngô Đình Diệm, chống Nguyễn Văn Hinh và chống cả quốc trưởng Bảo Đại. Đặc biệt, ông Thái Quang Hoàng, lúc đó là thiếu tá hay trung tá, tôi không nhớ rõ, kéo quân lính lên phía tây Phan Rang, lập chiến khu (Sầu Đâu) để chống lại tướng Hinh. Ông Lê Khương, lúc ấy cũng là thiếu tá, chống tướng Nguyễn Văn Hinh, bị bắt đưa vào Saigon để “xử tội”. Nửa đường, ông trốn thoát được.

Những người nầy, một thời gian sau khi ông Diệm cầm quyền, nhất là sau khi ông làm tổng thống được vài năm, họ dang ra, có nghĩa là dần dần không tham gia các cuộc họp đảng, ít lui tới nhà cậu Cẩn hay dinh Độc Lập, rồi chấm dứt hẳn, trước khi nhà Ngô sụp đổ, ngoại trừ ông Đỗ Mậu.

Trước hết, họ bị đám tay chân mới của cậu chơi họ nhiều vố đau và bỉ ổi. Đám khuyển mã mới phải đẩy những người cũ ra thì đám nầy mới ngoi lên được. Những người cũ là những người có tư cách, trọng phẩm giá, không thể đứng chung với đám ong kiến nầy và cũng là sự cản trở con đường tiến thân bất chính của chúng.

Trước tiên, người coi như có uy tín nhứt, tư cách nhứt trong số những người cũ theo cụ Ngô là ông Võ Như Nguyện. Ông bị chụp hình, bị vu cáo chuyện nầy chuyện khác. Ông Ngô Đình Diệm ở trong dinh Độc Lập kín cổng cao tường làm sao biết chuyện gì, còn cậu Cẩn thì lại ưa nghe nịnh. Ông Nhu xưa nay vốn không mặn mà gì với đám người “theo cụ Ngô” nầy. Các vị nầy biết tiến, biết thoái: Hết chim bẻ ná, hết cá quăng nơm. Họ theo gương Phạm Lãi nhưng không có Tây Thi mà thôi.

Trong số nầy chỉ có ông Đỗ Mậu là người “mưu lược”, cố “đeo” lấy cụ cho tới cuối. Biết ông Nhu không thích mình, ông Đỗ Mậu bám vào ông Diệm rất chặt. Biết ông Diệm là người ưa tử vi, ông Mậu nghiên cứu tử vi để tán dốc cho vừa lòng cụ. Có khi nửa đêm, ông Diệm băn khoăn, lo lắng hay buồn bực việc gì đó, bèn gọi ông Mậu vào bàn chuyện tử vi. Ông Mậu bàn tử vi hay lắm, khiến cụ rất vừa lòng. Không biết ông Mậu có cho cụ biết rằng cụ có số chết bất đắc kỳ tử về tay ông Mậu hay không!

Những người cũ nầy khinh ra mặt đám mới theo cụ. Ông Lê Khương, người tôi vừa nói ở trên, sau nầy là đại tá, được bổ nhậm làm phó tư lệnh cho tướng C., ở Cần Thơ. Về nhận việc, thấy văn phòng ông C. ở trên lầu, văn phòng ông Khương ở dưới lầu, ông Khương không chịu, nói: “Tao mà ngồi dưới thằng đó à?” Tuớng C. nổi tiếng với câu nói với ông Diệm: “Thưa cụ, con mộng thấy đức Mẹ chỉ đường cho con đi đánh Việt Cộng.”

Ông Khương là người không chịu “rửa tội”, ít lâu sau bị ra rìa, nên loon lá ông ta chỉ lên tới chừng đó mà thôi.

Người cao thượng nhứt là cụ Võ Như Nguyện. Khi ông Diệm mới về, cần ổn định Nam-Nghĩa-Bình- Phú là vùng mới tiếp thu từ tay Việt Cộng theo hiệp định Genève 1954, nên ông được ông Diệm giao làm tỉnh trưởng Bình Định. Sau đó, ông làm dân biểu khóa 1. Bị xúc xiểm, ông cùng vài người Huế chán nản bèn xin từ chức dân biểu. Ông về làm giáo sư tại Viện Hán Học Huế, cho đến khi miền Nam mất vào tay Cộng Sản.

Những năm cuối đời ông Ngô Đình Diệm, nhiều người thấy chính quyền bây giờ vuột khỏi tay cụ Diệm mất rồi. Ông còn ngồi đó, còn chức tổng thống, nhưng việc nước thì ai khác điều hành, kể cả những việc quan trọng như vụ đàn áp Phật giáo, vụ đánh phá chùa chiền ngày 20 tháng 8 năm 1963, vụ đưa ra tòa xử đám ông Nhất Linh... Những người cũ, từng theo cụ Ngô trước kia, khi cụ còn bôn ba nơi xứ người, thấy cái nguy của cụ Diệm, gặp nhau cùng than thở. Vì vậy, cụ Võ Như Nguyện, cùng tâm trạng như các anh em đồng chí cũ, muốn gặp cụ Diệm nói cho cụ hay.

Cụ Võ Như Nguyện đến nhà cậu Cẩn, nơi trước kia ông từng vô ra không biết bao nhiêu lần. Vậy mà bây giờ lính canh không cho ông ta vào. Tức mình, ông ta đập cổng, la lớn. “Ai dám tới nhà cậu la to dữ ri?” Biết là cụ Võ Như Nguyện, cậu Cẩn bèn mời vào, hỏi han. Lâu lắm, cụ Võ Như Nguyện không vào nơi nầy. Gặp cụ Diệm, ông Nguyện trình bày. Nghe xong, ông Diệm giải thích: “Đức cha cũng có cái sai. Thím Nhu cũng có cái sai. Nhưng để dần dần rồi sửa chữa, kẻo sợ thiên hạ chê cười “bì oa trữ nhục” (Nồi da xáo thịt).

Dần dần gì nữa. Chỉ mấy tháng sau là có đảo chánh. Anh em ông Diệm bị bắn chết. Đức cha và thím Nhu ở bên Tây, có hề hấn gì đâu!

Xin trình bày một điểm quan trọng ở đây: Cụ Diệm là người yêu nước. Những người theo cụ Diệm trước 1954, phần đông là người yêu nước, rõ ràng nhất là cụ Võ Như Nguyện và thân phụ của cụ là cụ cử Võ Bá Hạp. Cả hai cha con đều bị Tây bỏ tù lâu năm vì tội chống Pháp. Nếu ông Ngô Đình Diệm không phải là người yêu nước thì những người như cụ Võ Như Nguyện không đi theo làm gì, cũng như trước 1945, các cụ Hùynh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, không ủng hộ ông Diệm.

Điều đáng nói là lòng yêu nước của ông Diệm cao thấp như thế nào, chớ nói yêu nước thì ai không có, ngoại trừ khi đã yêu “Quốc Tế” thì làm sao yêu nước được nữa. Thứ hai, trong quá trình lãnh đạo đất nước, ông Ngô Đình Diệm đã làm được gì, và đã để cho anh em ông làm hại gì cho dân, cho nước. Các nhà sử học, phần đông lúng túng, sợ mất lòng bên nầy, phật ý bên kia, thành ra không nói rõ ra được công tội của ông Diệm, còn sợ sách mình bán không chạy, theo đuôi quần chúng. Thật ra, không mấy ai có gan như Tư Mã Thiên.

Sau khi ông Ngô Đình Diệm qua đời, nhiều lần tôi cùng bạn bè hoặc bà con, gặp nhau, nói chuyện nầy, chuyện kia và cũng không ít lần nói về anh em nhà Ngô và cụ Diệm. Đối với chế độ cụ Ngô, trong dân chúng, nhiều người bị buộc theo đạo để được yên thân hoặc tự ý theo đạo để được thăng quan tiến chức. Tuy nhiên, có những người như ông Võ Văn Hải, bí thư của ông Diệm hay ông Phạm Thư Đường, bí thư của ông Ngô Đình Nhu có phải là người có đạo Thiên Chúa đâu, có bị buộc phải bỏ đạo Phật đâu! Việc kỳ thị hay đàn áp tôn giáo chỉ xảy ra ở ngoài xã hội, do nhiều viên chức chính quyền, ông tỉnh, ông quận, Công An, Cảnh Sát, hợp đồng với một số linh mục, dưới cái dù của đức cha, v.v… nhận lệnh của những người có thế lực của Ngô triều mà thi hành. Trong khi đó, có lẽ trong thâm tâm ông Diệm, và cả ông Nhu nữa, không có chủ trương ấy. Tôi đưa ra một kết luận, cũng được nhiều người đồng ý: Nói rằng chế độ Ngô Đình Diệm không đàn áp, kỳ thị tôn giáo là sai; mà nói rằng ông Ngô Đình Diệm là người đàn áp, kỳ thị tôn giáo cũng sai luôn. Dĩ nhiên, là tổng thống, cụ Ngô phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra dưới chế độ ấy./

Hoànglonghải




(1) Toàn bộ bài thơ vô danh nầy, theo một người bà con, chị là con gái cụ cử Hoàng Đức Cự, bạn đồng song với ông Tuần Chi (Nguyễn Đình Chi - chồng bà Tuần Chi, thường gọi là bà Tùng Chi, xưa là hiệu trường Đồng Khánh, mẹ vợ tướng Trần Văn Trung) đọc cho tôi chép lại như sau:

Năm cụ khi không rớt cái ình
Đất bằng sống dậy chốn thần kinh
Bài không đeo nữa xin dâng lại
Đàn chẳng ai nghe, khéo dở hình
Liệu thế không xong, binh chẳng được.
Liêm đành giữ tiếng, lễ đừng rinh
Công danh như rứa là hậu hỉ
Đại sự xin nhường kẻ hậu sinh.

Trong “Thuyền ai trước bến Văn Lâu” của giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, chép lại theo “Hương Bình Thi Tập” của cụ Hoàng Trọng Thược, có khác vài chữ như sau:

Câu 2 : Đất bằng sóng dậy đất thần kinh

Câu 7: Công danh thôi thế là hưu hỉ

Câu 8: Đại sự xin nhường lũ hậu sinh

Cũng trong sách nói trên, tác giả chép lại theo “Giai Thoại Làng Nho” của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc như sau:

Năm trụ khi không ngã cái ình
Đất bằng một tiếng thảy đều kinh
Bài không đeo nữa xin dâng lại
Đàn nọ ai nghe, khéo dở hình
Liệu thế không xong, binh chẳng được
Liêm đành giữ tiếng, lễ đừng rinh
Công danh như thế là hưu hỉ
Đại sự xin nhường lũ hậu sinh.

Năm cụ, tiếng Huế thường dùng để gọi các quan, những người lớn tuổi như cụ Ngô, cụ Hồ (năm 1945, 46), cụ Huỳnh, cụ Phan, v.v… là 5 ông thượng thư tại chức khi vua Bảo Đại còn ở bên Pháp. Năm cụ rớt chức thượng thư gồm có:

Câu 3: Nguyễn Hữu Bài, rớt chức thượng thư bộ Lại

4: Tôn Thất Đàn, thượng thư bộ Hình

5: Phạm Liệu, thượng thư bộ Binh

6: Võ Liêm, thượng thư bộ Lễ

7: Vương Tứ Đại, thượng thư bộ Công.

Con cháu ông Nguyễn Hữu Bài, tước quận công, bây giờ còn ai, tôi không biết, nhưng các ông như giáo sư Tôn Thất Thiện, Phạm Biểu Tâm, Võ Văn Hải, là con cháu các cụ thượng thư ỏ Huế, tôi không rõ có quan hệ giữa các ông nói trên với các cụ “rớt cái ình” như thế nào!

Năm trụ: là 5 cột trụ của triều đình.

(2) Phan Bội Châu, một phần trong câu của Khang Lương nói với cụ Phan khi cụ muốn tỏ ý mượn quân Nhật về đánh đuổi quân Pháp.

(3) Công An đánh ông ta đến trí mạng rồi để trên cửa sổ lầu xô xuống đất, báo cáo là “nhảy lầu tự tử”. Chết rồi mà nhảy lầu gì nữa?!

(4) Hò ru em Huế có câu, nói về những thổ sản nổi tiếng ở địa phương:

Ru em cho théc (ngủ) cho muồi
Cho mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim
Kim găm vô áo mất rồi…

Làng Nam Phổ ngày xưa nổi tiếng có nhiều vườn cau ngon. Con gái trèo cau thường thì ở lỗ (ở truồng) nên tục ngữ có câu “Nam gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau” (Xin xem “Nụ Cười Sơn Cước, cùng tác giả, trong VVH. tập 1)

Ca dao Việt Nam có câu:

Cau non khéo bổ cũng dầy
Trầu thêm cánh phượng cho thầy ăn đêm.

Cau non, dĩ nhiên là cau chưa già, giữa hột cau, khi bổ (cắt) ra, ở giữa còn nước, nên miếng cau bị khuyết, cau chưa dầy, có nghĩa là hột cau chưa đầy. Người khéo tay cắt miếng cau như thế nào để không thấy chỗ khuyết đó, mới là người tài. Trầu têm hai bên bày ra như hai cái cánh, thường gọi là cánh phượng.

(5) Bài ca dao nầy tôi cũng thấy in trong cuốn “Về Vùng Chiến Tuyến” của ông Lê Xuân Nhuận. Trong cuốn nầy, tác giả cũng có nhắc tới vài chuyện trái trăng của cậu Cẩn, lãnh chúa miền Trung. Ông Lê Xuân Nhuận là nhà thơ Thanh Thanh, bạn văn với anh cả tôi là Hồng Quang, làm báo ở Huế, năm 1949-50.

(6) Trong bài nầy, tôi có nhắc đến tên vài người, xin nói rõ thêm.

- Về Lê Đức Anh

Trước và sau 1945, Lê Đức Anh có vài thân nhân cư ngụ ở khu vực phía trong cửa Đông Ba. Một người chú (hay bác) làm rể bên phía nhà ông thị Ngô (Còn gọi là cụ Hường Ngô, xin xem lại trong bài). Lê Đức Anh vốn dòng dõi Đoàn Trưng, Đoàn Trực.

Đoàn Trưng, Đoàn Trực là hai người đứng đầu trong vụ Giặc Chày Vôi. Sử chép:

5.- Sự phản nghịch ở Kinh Thành

Việc ngoài bác mới hơi nguôi nguôi, thì Kinh đô lại có việc làm cho náo động lòng người.

Nguyên vua Dực Tông là con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo, phóng đãng, không chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn mưu đồ với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Còn con ông ấy thì được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo.

Đến năm Bính Dần, là năm Tự Đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn Niên Cơ tức là Khiêm Lăng bây giờ, quân lính làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở kinh thành có Đoàn Trưng cùng với em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực và bọn Truơng Trọng Hòa, Phạm Lương, kết làm “Sơn Đông thi tửu hội”, để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm ở Vạn Niên Cơ và cùng với quan hữu quân Tôn Thất Cúc làm nội ứng định ngày khởi sự.

Đến hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả dịch, chực xông vào giết vua Dực Tông. May nhờ có quan chưởng vệ Hồ Oai, đóng cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.

Đinh Đạo phải tội giảo. Tôn Thất Cúc thì tự vẫn chết, còn các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.

(Việt Nam Sử Lược - tập 2. trang 272)

Theo dư luận ở Huế, cháu chắt Đoàn Trưng, Đoàn Trực sợ liên lụy, bèn bỏ Huế chạy trốn, một số về Truồi, phía nam Huế; một số ra Hương Cần, phía bắc Huế, đổi thành họ Lê.

Họ Lê ở Truồi, chính là ở làng Bàn Môn, huyện Phú Lộc (sau nầy đổi thành Vinh Lộc) là họ của Lê Đức Anh. Khi Lê Đức Anh làm tổng bí thư đảng Việt Cộng, có người nói: “Lê Đức Anh là con cháu tên phản nghịch, nay làm trùm đảng cướp. Giòng nào giống đó! Có chi mà thắc mắc?”

- Đoàn Khuê

Đoàn Khuê cũng sinh sống, học hành ở xóm Đông Ba nầy. Y người làng Gia Đẵng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Làng nầy làm nghề đánh cá biển, là làng nghèo nhất tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, cha mẹ Đoàn Khuê thì không nghèo. Họ làm nghề “đầu nậu” ở đây, là nghề cho vay, chủ vựa cá đem bán lại ở thành phố. Do đó, anh em Đoàn Khuê (Khuê còn có một người em, cũng theo Việt Cộng), được theo học ở trường tiểu học Quảng Trị (École Primère de Quảngtri), sau đó vào học trung học ở Huế, chưa đỗ đạt gì thì theo Cộng Sản, trước 1945.

- Cụ Võ Như Nguyện

Nội tổ ông Võ Như Nguyện là cụ Vũ Văn Giáp, (Vũ đổi thành Võ, theo tiếng Huế), được vua cấp cho một vùng đất rộng gần làng Vạn Xuân, ở sông Đào (Sông nối liền cầu An Hòa với cầu Bao Vinh), tục gọi là “Trại bò”. Ông làm nghề đóng giày cho vua và các quan. Hồi xưa, nghề nầy là gia truyền, không phổ biến, chỉ có vua và các quan mới mang giày. Con trai của ông đậu cử nhân, người Huế thường gọi là Cụ cử (đậu cử nhân) Võ Bá Hạp, là thân phụ ông Võ Như Nguyện. Cụ cử Võ Bá Hạp là người yêu nước, chống Pháp, đồng chí của các cụ Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp… Cụ cử Võ Bá Hạp bị Tây bỏ tù 10 năm, giam ở Lao Bảo, một nhà tù nổi tiếng thời Pháp thuộc, trong khi đó cụ Huỳnh Thúc Kháng bị đày đi Côn Đảo. Khi cụ Trần Quí Cáp bị chém ở Bình Định, cụ cử Võ Bá Hạp đem về chôn cất ở cửa Trài, và xây lăng khá lớn. Không biết bây giờ lăng đó như thế nào!

Cụ cử Võ Bá Hạp, đậu cử nhân nhưng không ra làm quan, hoạt động chống Pháp cùng với các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế. Cụ cử Võ bị Tây bỏ tù. Cụ Huỳnh Thúc Kháng bị đày Côn Đảo (cụ Huỳnh rất thông minh. Khi đi tù, cụ mang theo cuốn tự điển Việt Pháp. Trong thời gian ở Côn Đảo, cụ học thuộc lòng cuốn tự điển, nhưng vì thiếu thầy nên cụ đọc, hiểu và dịch được, nhưng không nói được tiếng Pháp). Cụ Võ Như Nguyện cũng bị tù vò tội chống Pháp, bị giam ở Quảng Ngãi. Tôi không rõ thời hạn bao lâu.

Khi cụ Nguyễn Sinh Sắc vào Huế, có mấy điều đáng nói: Thứ nhất, nương náu ở nhà cụ Vũ Văn Giáp; thứ hai: hỏng thi, được xét lại chấm đậu phó bảng là nhờ cụ Ngô Đình Khả (bấy giờ làm thượng thư bộ Lễ). Thứ ba, khi cụ Nguyễn Sinh Sắc, làm tri huyện Bình Khê, can tội say rượu đánh chết dân, cụ Ngô Đình Khả xét tội, xử nhẹ tay, chỉ bị cách chức mà thôi. Cụ cử Võ Bá Hạp, Huỳnh Thúc Kháng thi đậu mà không chịu ra làm quan vì tinh thần chống Pháp, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc thi đậu, đi tri huyệnh Bình Khê, xem ra tinh thần cụ Sắc kém thua hai cụ kia, lại còn say rượu đánh chết dân thì tệ lắm. Trong hàng các “sĩ tử” đồng trang lứa nầy hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nầy, chỉ có cụ Sắc và cụ Ngô Đình Khôi thi đậu ra làm quan mà thôi.

Theo ông Vũ Thư Hiên trong “Đêm Giữa Ban Ngày” thì chính ông Hồ Chí Minh đã tha chết cho cụ Ngô Đình Diệm, khi cụ Diệm bị giam ở Hà Nội. Khi tha, ông Hồ Chí Minh giải thích với ông Vũ Đình Huỳnh, thân phụ ông Vũ Thư Hiên rằng phải biết cái danh tiếng “Đày vua không Khả” là lớn lắm, và ông Hồ cũng nêu ra vài lý do nhân đạo khác. Theo người Huế, khi cụ Nguyễn Sinh Sắc vào đây, ông Nguyễn Tất Thành lúc ấy cũng đã lớn rồi, biết cha con mình mang ơn nhiều người ở Huế, như tôi kể ở trên. Vả xem tư cách cha con ông cũng thua các vị trên khá xa. Có lẽ đó là nguyên nhân, khi mới cầm quyền, ông Hồ Chí Minh phải tha chết cho ông Diệm, và cũng là một mặt (chỉ là một mặt thôi) khiến ông Hồ Chí Minh gởi biếu cụ Diệm cành đào vào dịp tết năm 1962.

Khi cụ Võ Như Nguyện bị tù ở Quảng Ngãi, bà Ngô Đình Khôi (khi đó ông Ngô Đình Khôi là tổng đốc Quảng Nam) đã giúp đỡ bà Võ Như Nguyện, nhất là trong những lần bà đi thăm chồng. Vì vậy, năm 1957, khi cải táng mộ ông Ngô Đình Khôi (và con là ông Ngô Đình Huân) bị Việt Minh giết chôn ở ga Hiền Sĩ về Huế, vì ông Khôi không có con trai nên cụ Võ Như Nguyện làm trưởng nam. Nếu kể về ơn nghĩa như tôi nói ở trên, thì cũng đúng thôi. Người Huế, hồi đó, nhiều người biết chuyện nầy, đâu có bàn tán gì. Không hiểu sao gần đây, cụ Võ Như Nguyện lại cải chính rằng, trong việc cải táng đó, cụ không làm trưởng nam cho ông Khôi./






Tro ve dau trang

==========================================

============================================================


No comments:

Post a Comment

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================