Từ Ngày Ký Hiệp Định Genève 20-7-1954/2009
Nguyễn Hồng Dũng Ph.D
Tình hình Đông Nam Á bấy giờ là mục tiêu nhuộm đỏ từ điện Cẩm Linh qua đàn em Cộng sản Trung quốc đang mặn nồng tình đồng chí vô sản quốc tế, vì vậy ông Hồ Chí Minh được hai nước đàn anh nổ lực ủng hộ bằng mọi giá để hoàn thành sứ mạng quốc tế quan trọng này, vì thế tình hình bất ổn trong lòng đất nước giữa một bên là cực tả Việt Minh và bên còn lại có khuynh hướng dân tộc tự tồn đã manh nha ý thức trái ngược.
Cao trào đòi độc lập từ các nước thuộc địa Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đã khiến cho các chính phủ thực dân đổi chính sách thuộc địa ra chính sách hợp tác và trao trả độc lập cho nhiều quốc gia Á, Phi. Năm 1949 Bảo Đại sang Paris thương thuyết với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol yêu cầu trao trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 8/3/1949, thỏa ước Elysée được ký kết giữa Bảo Đại và Vincent Auriol, theo đó Việt Nam được độc lập và nằm trong Liên Hiệp Pháp, đến ngày 2/7/1949 Bảo Đại về nước thành lập Chính Phủ Quốc Gia.
Giả thuyết nếu không có trường kỳ kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ xảy ra thì Việt Nam cũng đã được trao trả độc lập bởi chính sách nêu trên mà máu xương của lính Trung Cộng và Việt Nam không đổ ra quá nhiều. Trên thực tế xác lính Trung Cộng chồng chất cho trận địa Điện Biên Phủ đã được nhà nước Cộng Sản Việt Nam chi trả và bồi thường bằng lãnh thổ, lãnh hải đến ngày hôm nay vẫn chưa dứt nợ!.
Để đạt đến hội nghị chấm dứt chiến tranh Đông Dương, Pháp là quốc gia lâm chiến vì muốn rút quân nên mời Anh, Hoa Kỳ và Liên Sô tham dự. Trung Cộng bấy giờ chưa nắm ghế chính thức của Liên Hiệp Quốc nên chỉ là quan sát viên, nhưng sau nhiều lần nài nỉ từ ông Viacheslav Molotov, trưởng đoàn Cộng Sản Liên Sô, ba nước Anh do Anthony Eden làm trưởng đoàn, Hoa Kỳ do Bedell Smith làm trưởng đoàn và Pháp do ông Georges Bidault trưởng đoàn mới đồng ý để Trung Cộng tham gia hội nghị do Chu Ân Lai dẫn đầu tới Genève ngày 26 tháng 4 năm 1954 đặng bàn thảo về Đông Dương.
Cuộc họp chưa ngã ngũ thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc, bắt buộc hòa đàm tái nhóm với sự thỏa thuận ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Phạm Văn Đồng là Phó Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm trưởng đoàn đề nghị chia đôi đất nước ở vĩ tuyến mười ba; Hoa Kỳ và Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại làm Quốc trưởng kịch liệt phản đối. Liên Sô, Trung Cộng, Anh và Pháp tán thành ý kiến chia đôi khiến cho toàn dân tại Sài Gòn phẩn nộ bùng phát cuộc biểu tình rầm rộ ngày 26/5/1954 chống lại hành động ngông cuồng của Việt Cộng đang tâm chia cắt Việt Nam.
Mãi đến ngày 20 tháng 7 năm 1954 thì hiệp ước đình chiến soạn thảo xong được gọi là Hiệp Định Genève ký kết bởi Thiếu tướng Henri Delteil, thay mặt Tổng tư lệnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và ông Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng năm chữ ký của phái đoàn Anh (Anthony Eden), Liên Sô (Viacheslav Molotov), Trung Cộng (Chu Ân Lai), Cam bốt (Tep Than) và Lào (Phumi Sananikone). Riêng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bác sĩ Trần Văn Đỗ trưởng đoàn và Hoa Kỳ do ông Bedell Smith dẫn đoàn không chấp nhận chia đôi đất nước nên từ chối đặt bút ký tên.
Nội dung Hiệp định đình chiến Việt Nam có 6 chương và 47 điều khoảng áp đặt vài điểm quan trọng như sau: Chia đôi hai miền Nam Bắc lấy làng Bohushu sát biên giới Lào Việt đến cửa sông Bến Hải tại tỉnh Quảng Trị làm ranh giới, Quốc Gia Việt Nam phía nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phía bắc, hiệu lực thực thi từ ngày 14-8-1954 quy định hai bên rút quân trong vòng 300 ngày.
Sở dĩ chúng ta khẳng định sự liên hệ bất khả phân giữa Trung Cộng và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà không sợ sai lầm là vì bằng chứng cụ thể bởi Đảng Lao Động tức là đảng Cộng Sản chủ trương đưa Việt Nam trở lại làm chư hầu cho Trung Cộng qua tờ truyền đơn rãi khắp nơi vào năm 1951. Nhật báo Tiếng Dội số 462 năm thứ 3, đề ngày Thứ Sáu 24 August 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy (Thiếu) năm Tân Mão do Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc đảm trách, Tòa soạn tại 216 Đường Gia Long Saigon, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký tên như sau:
”Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ VIITổng thư ký Đảng Lao Động Việt Nam,Số 284/LĐHỡi đồng bào thân mến!Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế ?Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
Từ mối lo này mà chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa kỳ phản đối không ký vào vì theo ý kiến Quốc trưởng Bảo Đại thì Việt Minh sẽ cứ tiếp tục chiến tranh, một cuộc chiến mới sẽ tàn phá toàn quốc…với hy vọng hão huyền đặt một ý thức hệ không hợp với cá tính người Việt Nam (**), còn Ủy ban Quốc Gia An Ninh Hoa Kỳ nhận xét vào ngày 12-8-54 rằng “Thỏa hiệp Genève là một thất bại đã chấp nhận một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa Cộng Sản và có thể đưa đến sự mất toàn thể Đông Nam Á Châu” (***)
Sinh viên Sài gòn biểu tình phản đối Hiệp định Geneva, treo cổ hình nộm De Gaulle và Hồ Chí Minh
Hậu quả tệ hại cho một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến lại bị rơi vào tình huống nô lệ từ ý thức đến hành động khởi đi từ tâm thức phe nhóm, đảng phái hơn quyền lợi quốc gia dân tộc. Hãy bỏ tất cả những định kiến về Quốc-Cộng mà hãy nhìn ở góc độ dân tộc thì sau năm 1954 với hai miền Nam Bắc, những người sinh sau Hiệp Định có thể tìm ra những chứng tích cụ thể qua nhiều tư liệu trung thực:
1/ Phía Quốc Gia Việt Nam mà sau này trở thành Việt Nam Cộng Hòa chưa có bằng cớ nào chứng tỏ đem Việt Nam dâng hiến hoặc sang nhượng cho bất cứ một quốc gia ngoại bang dù từng là đồng minh với Hoa Kỳ, Úc, Canada… dù vậy họ không hề tuân thủ ý kiến của ngoại nhân làm tổn thương dân tộc. Chưa có một tội danh nào gọi là bán nước cầu vinh gán cho phía chính phủ miền Nam kể cả cảng Cam Ranh, Chu Lai, Long Bình là những nơi cho Hoa Kỳ thuê mướn, khi Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam thì nơi ấy trở lại chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa từ 1973-1975. Đảo Hoàng Sa là đất của nam Việt Nam bị Trung Cộng xâm lăng năm 1974, Hải quân Việt Nam chống đỡ và nhiều chiến sĩ hy sinh, cuối cùng bị mất vì thua chứ không phải dâng tặng cho ngoại bang. Ngày 30/4/1975 miền Nam sụp đổ vì thiếu đạn dược, quân vụ dẫn đến việc cựu Đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống vi hiến tuyên bố đầu hàng.
2/ Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã có nhiều bằng chứng thể hiện ước mơ của Đảng Cộng Sản đưa Việt Nam trở thành một chư hầu cho khối Cộng Sản Quốc Tế theo tờ truyền đơn kêu gọi dân Việt Nam làm chư hầu Trung Cộng nêu trên. Hành động bán nước được thể hiện từ năm 1958 do ông Phạm văn Đồng ký công hàm chấp nhận Hoàng Sa và Trường Sa KHÔNG phải là của Việt Nam. Hành động này tái diễn vào năm 1999 khi ký kết hiệp định biên giới Trung Việt để hợp thức hóa Trung Cộng chiếm đóng biên giới phía Bắc và vùng biển vịnh Bắc bộ. Cũng từ năm này thì thác Bản Giốc và Ải Nam Quan KHÔNG còn thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Chưa hết, ngày nay còn biết bao nổi nhục nhằn mà con dân Việt Nam phải gánh chịu như sự oan ức của ngư dân Việt bị Trung Cộng hành hung, sát hại ở biển đông; Trường Sa và Hoàng Sa thành Tam Sa ô nhục, Bauxite Tây nguyên bị lợi dụng khai thác để hợp thức số dân Trung Cộng tràn vào Việt Nam như Tây Tạng, Tân Cương. Hối lộ, mại dâm, bán tuổi trẻ thanh xuân ra ngoại quốc, hạ nhân phẩm phụ nữ thua xa thời thực dân phong kiến khi hàng trăm gái trinh cởi truồng cho vài đứa ngoại lai lựa vợ, làm hầu. Văn hóa Việt bỗng chốc sượng sùng, đạo đức luân thường chỉ như bọt nước, thần tượng cá nhân, tôn sùng lãnh tụ và lừa lọc, dối trá để sống dưới vòm trời Chủ Nghĩa Xã Hội thơm tho!
Giờ đây sau 55 năm trôi qua chúng ta được gì và mất gì thì tự trong tâm mỗi người nhận biết, có điều người dân ở hai phía Bắc Nam chưa từng được quyết định vận mạng tương lai chính trị cho mình, sau bao lần can qua hoàn toàn do các thế lực ngoại bang mượn tay định đoạt, Pháp và Việt Minh đẻ ra Hiệp định Genève chia đôi đất nước hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng chân chính của người Việt Nam. Đối với chúng ta thì 55 năm vừa tròn một kiếp nhân sinh nhưng lịch sử dân tộc lại là mốc thời gian trường cửu.
Nguyễn Hồng Dũng20/7/2009,
Tài liệu tham khảo:-U.S. Congress, Senate, Committee on Foreign Relations, 90th Congress, 1st Session, Background Information Relating to Southeast Asia and Vietnam (3d Revised Edition) (Washington, DC: U.S. Government Printing Office, July 1967), pp. 50-62-Negotiations and Vietnam: A Case Study of the 1954 Geneva Conference by Melvin Gurtov.-Việt Sử Khảo Luận: Hoàng Cơ Nghị-Hồi Ký của Võ Nguyên Giáp.-1945-1964:Việc Từng Ngày. Hai Mươi Măm Qua: Đoàn Thêm.-Vietnam War – Ngo Dinh Diem on Geneva Agreement of 1954-(*) Nhật báo Tiếng Dội 1951, Thư Viện tiếng Việt, British Museum, London.-(**) Le Dragon D’Annam Bảo Đại, trang dịch của tác giả từ version English: The Dragon of VN-(***)
Nguồn: Quảng Ngãi Nghiã Thụchttp://tiengnoitudodanchu.org/modules.php?name=News&file=article&sid=7831
No comments:
Post a Comment