Luật Sư JOHN P. LÊ PHONG
(07/25/2010)
III. Việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam không phải là bất ngờ
Năm 1949, Mao Trạch Ðông (với sự hỗ trợ của Liên Xô) đã đánh bại Tưởng Giới Thạch (với sự hỗ trợ của Mỹ), chỉ mới có năm năm trước khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm về Sài Gòn chấp chánh với chức vụ thủ tướng của chính phủ Bảo Ðại. Ðiều oái ăm ố nhưng có thể hiểu được nếu suy luận trong khuông khổ chính trị quốc tế và an ninh quốc gia ố là trong chiến thắng của Mao, công lao của Hoa Kỳ không phải là nhỏ.
Khi Tưởng lên cầm quyền, Chu Ân Lai, lúc đó là tổng thư ký đảng Cộng Sản Trung Hoa, đang ẩn náu ở Thượng Hải và Mao, vẫn còn dưới quyền Chu, đang cố gắng dành quyền chỉ huy “quân đội” cộng sản, vào khoảng vài ngàn người; để so sánh, dưới quyền Tưởng có đến mấy triệu quân. Vậy thì làm thế nào Trung Hoa của Tưởng trở thành Trung Hoa của Mao trong vòng chỉ có 24 năm? Và tại sao Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với Tưởng hay đúng ra tại sao một chính quyền thân tây phương và lãnh đạo bỡi một tín đồ thiên chúa giáo mất sự ủng hộ của Hoa Kỳ?
Những diễn biến đáng ghi nhận và có liên quan đến chủ đề của bài viết này được tóm lược như sau:
Trong lúc phe Tưởng và phe Mao (Mao lúc đó đã qua mặt Chu trở thành thủ lãnh của đảng cộng sản Trung Hoa) đang đánh nhau, Tướng George Marshall, sau này là tổng trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ, qua thămTrung Hoa ố không phải chỉ gặp đồng minh của Hoa Kỳ là Tưởng mà gặp cả Mao. Không những vậy, thái độ của ông thay đổi giữa hai thái cực: khi gặp Tưởng ông tỏ vẻ nghiêm khắc và khó khăn; khi gặp Mao ông hồ hỡi và thân thiện. Mối liên hệ tín cẩn giữa Mỹ và Mao cao độ đến mức Mao từ chối đi tới sứ quán Liên Xô nếu một nhân viên cao cấp của phái bộ Mỹ không cùng đi với ông. (Không phải Mao muốn có bạn đi cho vui mà ông nghi ngờ Liên Xô có ý đồ trên cá nhân ông).
Khi quân Tưởng đánh tan lực lượng của Mao khắp nơi, các đạo quân còn lại của Mao tập trung rút về Mãn Châu. Tưởng đuổi theo, bao vây và sắp tiêu diệt kẻ thù nguy hiểm và dũng mãnh nhất của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng, thì lực lượng của Mao được cứu thoát ố không phải bỡi Liên Xô mà bởi Hoa Kỳ. Hoa Kỳ yêu cầu Tưởng dừng binh. Tưởng phản đối. Hoa Kỳ dùng áp lực buộc Tưởng phải tuân hành, nhả gọng kềm và cuộc đấu tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa đi vào một bước ngoặc từ đó không còn gì ngăn cản sự thành công của Mao và sự tàn lụi của Tưởng.
Liên Xô lo ngại về vũ khí nguyên tử Mao tích tụ ở Trung Hoa và âm thầm tìm cách hủy diệt. Liên Xô thăm dò Hoa Kỳ và đề nghị hai nước đồng tấn công những cơ sở nguyên tử của Trung Hoa. Hoa Kỳ trả lời một cách rõ ràng không ỡm ờ gì cả: nếu Liên Xô tấn công Trung Hoa, thế chiến thứ ba sẽ xảy ra vì Hoa Kỳ sẽ tấn công Liên Xô.
Những diễn biến đó cho thấy Hoa Kỳ đã thay đổi thái độ và lập trường nhiều lần về Tưởng và về Mao, và không phải lần nào thái độ và lập trường của Hoa Kỳ đều phù hợp với tư cách là một đồng minh của Tưởng*. Sai lầm lớn khi nghĩ rằng tình thân giữa cá nhân của các lãnh tụ, những lời hứa (nhất là có điều kiện kèm theo) là nền tảng của chính sách ngoại giao và quốc phòng của một quốc gia. Sự suy nghĩ và hành động từ quan điểm an ninh quốc gia của Hoa Kỳ đôi khi trùng hợp với quan điểm yêu thượng đế và ghét cộng sản. Nhưng khi an ninh quốc gia bị ảnh hưởng, Hoa Kỳ phải thay đổi đường lối và chính sách. An ninh quốc gia lúc nào cũng chiếm ưu tiên và đứng trên ý thức hệ hoặc tôn giáo.
Và trong trường hợp Trung Hoa trong giai đoạn đó, Hoa Kỳ không thể không bỏ Tưởng và không thể không ve vãn Mao. Vì sao?
Hoa Kỳ đã làm việc với Tưởng nhiều năm và thấy rõ những yếu điểm của Tưởng - những yếu điểm then chốt. Nhiều tướng lãnh, tư lệnh vùng của Tưởng bất tài, tham nhũng tràn lan, nhưng Tưởng từ chối không cách chức, trừng trị kỷ luật, hoặc ngay cả thuyên chuyển. Tưởng không làm gì cả để cải thiện tình hình. Một trường hợp rất khó hiểu liên quan tới tướng Hu Tsung-nan, một tướng rất tín cẩn của Tưởng nhưng lại là cán bộ nằm vùng của Mao (Hu không phải là tướng duy nhất của Tưởng là cán bộ nằm vùng của Mao). Trong 22 năm, tướng Hu đã cứu mạng sống của Mao khi Mao sắp bị bắt bởi một sĩ quan dưới quyền Hu; báo cho Mao biết trước những cuộc hành quân của Tưởng; thông đồng với Mao để dàn trận phục kích rồi ra lệnh trực tiếp cho sĩ quan và binh sĩ của chính Hu bước vào ổ phục kích đó. Trong nhật ký, Tưởng ước tính là Hu đã làm tiêu tan một phần ba lộ quân dưới quyền chỉ huy của Hu. Nhưng khi Hu xin từ chức, Tưởng từ chối.
Tưởng không nắm vững được nội bộ cũng như sự trung thành của những người dưới quyền mình. Trong một biến cố có thể dựng thành một phim thriller, một thống chế của Tưởng tìm cách bắt cóc Tưởng lúc Tưởng tới thăm ông này. Tưởng bỏ trốn ra một ngọn đồị và khi bị bắt, người chỉ mặc một bộ đồ ngủ, mặt đầy bùn. Mao muốn giết Tưởng, sai Chu bay đi thuyết phục ông thống chế giết Tưởng. Ai cứu Tưởng? -Liên Xô. Và Mao không giám trái lệnh Mạc Tư Khoa*.
Những yếu kém đó đã xoi mòn và hủy hoại Trung Hoa của Tưởng. Hoa Kỳ cảm thấy là Tưởng sẽ không tự cường tự lập và đứng vững một mình được. Muốn thắng Mao, Hoa Kỳ không những phải viện trợ cho Tưởng đô la và vũ khí mà có thể phải nhảy vào vòng chiến. Trung Hoa là một nước khổng lồ. Hoa Kỳ có thể kiệt quệ về kinh tế để cung ứng viện trợ cho Tưởng. Thiệt hại về quân sự nếu Hoa Kỳ tham chiến chắc chắn sẽ cao hơn là mức độ có thể chấp nhận được bỡi quốc hội và dân chúng. Và hậu quả không thể đoán trước được.
Trung Hoa giáp với Liên Xô và chia nhau một ranh giới khoảng 2600 dặm, chưa kể ranh giới giữa Nội Mông (thuộc Trung Hoa) và Ngoại Mông (thuộc Liên Xô). Liên Xô sẽ là hậu cứ dưỡng quân cũng như là nguồn tiếp liệu nhanh chóng và vô tận cho Mao. Tưởng và Hoa Kỳ không có phương cách gì để bịt cái “lỗ hổng” đó. Tưởng chỉ có thua hoặc kéo dài cuộc chiến với sự hổ trợ của Hoa Kỳ vô hạn định về thời gian, về tiền bạc và khí cụ, và về thương vong, một cuộc chiến không một nhà chiến lược nào của Hoa Kỳ có thể chấp nhận để cho Hoa Kỳ tham gia.
Nga Hoa có thể cùng ý thức hệ nhưng không phải là keo sơn gắn bó. Ngay cả khi đang đánh nhau với Tưởng, Mao công khai phản kích Liên Xô. Hoa Kỳ có thể cảm thấy chơi được trò chơi chia để trị. Với ba cường quốc tranh đua nhau, cán cân lực lượng sẽ quân bình hơn và chính trị trong vùng ổn cố hơn. Hoa Kỳ phải tìm cách khai thác sự bất hòa giữa Liên Xô và Mao, ve vãn Mao và muốn một nước Trung Hoa mạnh. (Sự ve vãn đó không mang lại kết quả ngay lúc đầu vì Hoa Kỳ không lường được đầu óc mánh khóe và tính toán quỷ quyệt của Mao. Nhưng mầm giống đã gieo, và nhờ đó từ năm 1972, Hoa Kỳ và Trung Hoa trở nên thân thiện và hợp tác với nhau trên nhiều lãnh vực rất hệ trọng cho an ninh quốc gia của cả hai. Những gì Hoa Kỳ đã làm từ năm 1972 cho thấy Hoa Kỳ rất đắt lực và hữu hiệu trong sự giúp đỡ Trung Hoa trở nên giàu mạnh).
Dĩ nhiên chiến trường Việt Nam nhỏ bé hơn, nhưng hình thái về địa lý (của chiến trường) và chính trị giống như một bản sao của cuộc chiến quốc cộng bên Trung Hoa. Trong một cuộc họp giữa Stalin, Mao và Hồ Chí Minh, Liên Xô đã đồng ý giúp Trung Hoa xây dựng những nhà máy kỹ nghệ nặng với điều kiện là Trung Hoa phải viện trợ cho Miền Bắc trong cuộc chiến Việt Nam. (Một điều kiện khác nữa là Trung Hoa phải nhượng đất cho Liên Xô mà sau này Ðặng Tiểu Bình cho là sự mất lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa).
Với Việt Nam thay thế Trung Hoa làm bãi chiến trường và Trung Hoa thay Liên Xô làm hậu cứ dưỡng quân, huấn luyện và nguồn tiếp liệu vô tận cho Miền Bắc, từ quan điểm an ninh quốc gia, mối liên hệ của Hoa Kỳ với Việt Nam không khác hơn với Trung Hoa. Hoa Kỳ chỉ có thể cưu mang Miền Nam lâu đủ để tìm một giải pháp ổn thỏa và lâu bền hơn, chẳng hạn, thương thảo với Trung Hoa.
Số mệnh của Miền Nam đã đang được định đoạt bởi các thế lực trên chính trường quốc tế.
Chỉ cần ngó sang nước láng giềng, giới lãnh đạo Việt Nam từ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cho tới Tổng Thống Thiệu phải nhận thức Miền Nam không có gì làm cho nó quan trọng hơn Trung Hoa và không có gì làm Mỹ sẽ không bỏ Miền Nam. Tổng Thống Diệm có 9 năm và Tổng Thống Thiệu có gần 20 năm để chuẩn bị và tăng cường Miền Nam thành một lực lượng đáng kể có thể đứng vững một mình dựa vào chính mình, là một đồng minh tốt và mạnh của Mỹ chớ không phải là một nước dựa và lệ thuộc vào Mỹ.
IV. Khái niệm an ninh Quốc gia Và Miền Nam Việt Nam
Lập trường và hành động của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Quốc Cộng bên Trung Hoa đáng lẽ đã tạo nguyên cớ cho giới lãnh đạo Miền Nam phải lưu tâm tới thực tế chính trị quốc tế, là sự hổ trợ của một quốc gia bạn, ngay cả một cường quốc như Hoa Kỳ, phải có giới hạn. Trong chính trường quốc tế, mỗi quốc gia, đại cường hay nhược tiểu, đều phải cật lực phấn đấu cho an ninh của quốc gia mình. Mỗi quốc gia phải lo cho an ninh của quốc gia đó trước. Và mỗi quốc gia phải tự lực cánh sinh trước. Sự giúp đỡ của một nước bạn là để cho mình có cơ hội xây dựng nền móng quốc gia vững chắc và thực lực đủ để mình có thể tự chèo lái con thuyền quốc gia của mình trong đại dương quốc tế. Trông chờ vào nước bạn để cõng mình đi là một ảo giác mà giới lãnh đạo của một quốc gia không có quyền có.
Ngay từ đầu cuộc chiến ở Ðông Dương, Hoa Kỳ đã không muốn dính dấp vào, tuy Tổng Thống Roosevelt đã chỉ trích Pháp và bênh vực Ðông Dương (“France has milked it for one hundred years. The people of Indochina are entitled to something better than that.”). Ngay cả khi Pháp thấy sắp thất thủ ở Ðiện Biên Phủ đã khẩn cầu Mỹ can thiệp bằng không quân để cứu vãn tình hình, nhưng Tổng Thống Eisenhower từ chối. Chúng ta có thể đoán, không phải là không có cơ sở, là năm 1955 Mỹ bị bắt buộc phải nhảy vào Việt Nam là vì Pháp đang bị đẩy ra khỏi Việt Nam vì quá yếu, trong lúc Cộng Sản Trung Hoa hung hăng muốn bành trướng thế lực nhất là khi họ khuyến khích Bắc Hàn tấn công Nam Hàn, rồi sau đó nhảy vào vòng chiến trực diện với quân lực Mỹ. Năm 1972, khi Chu nhận xét là Hoa Kỳ đã vào Việt Nam “by accident”, Tổng Thống Nixon không đính chính (trích dẫn TTTTT).
Năm 1971, hay ít nhất là từ đầu năm 1972, có rất nhiều dấu hiệu cho thấy tình hình biến chuyển không thuận lợi cho Miền Nam.
Áp lực chính trị trong nước làm cho giải pháp quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam không còn thực tế. Khi quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa bắt đầu cởi mở, đối với Hoa Kỳ, cơ hội thương thuyết đã đến. Trong cố gắng thương thuyết và cố gắng đem Miền Bắc vào bàn thương thuyết, Kissinger đã nói những câu gợi mào báo hiệu điềm gỡ cho Miền Nam: Với Chu: “Nếu chúng tôi (Hoa Kỳ) có thể sống với một chính phủ cộng sản ở Trung Hoa thì chúng tôi cũng có thể chấp nhận nó ở Ðông Dương/If we can live with a communist government in China, we ought to be able to accept it in Indochina.”, “Chúng tôi không muốn họ (Miền Bắc) yếu đi/We don’t want them to be weak.”, và “chúng tôi muốn chấp dứt chiến tranh vì bây giờ nó đòi hỏi một nổ lực không tương xứng với mục tiêu và vì nó liên hệ chúng tôi vào những cuộc đàm phán với những quốc gia mà chúng tôi có những vụ việc quan trọng hơn rất nhiều/we want to end the war because it now requires an effort out of proportion to the objectives and because it involves us in discussions with countries with whom we have much more important business.” Với ngoại trưởng Liên Xô Gromyko: “chúng tôi sẵn sàng rời bỏ (Miền Nam) trong cách thức mà sự chiến thắng của cộng sản là một sự có thể/we are prepared to leave so that a communist victory is not excluded.” (phần Anh Ngữ được trích dẫn từ cuốn TTTTT của Giáo Sư Hưng).
Và như đã nói trên, Hoa Kỳ không bỏ đi “ngày một ngày hai”, mà Miền Nam có đến gần ba năm để chuẩn bị.
V. Nhìn lại 56 năm
Trong cùng cuộc gặp gỡ nói ở trên, Tiền Sĩ Hưng hỏi tôi “Mình có thể làm được gì?” để không mất Miền Nam. Tiền Sĩ Hưng có vẻ đã nghiền ngẫm câu hỏi này từ lâu và “think out loud” mỗi khi có cơ hội, và vì bất ngờ tôi không nói được gì cả. Nhưng nếu có một ý niệm thấu đáo về an ninh quốc gia, câu trả lời rất là hiển nhiên: câu hỏi của Tiền Sĩ Hưng (và tôi chắc rất nhiều người đã hỏi câu này sau tháng tư 1975) được đặt ra 56 năm, hoặc 43 năm, hoặc 42 năm, hoặc 38 năm quá muộn - đối với ông, đối tôi, đối với thế hệ của ông và tôi.
Nó đáng lẽ phải được đặt ra khi Thủ Tướng Diệm lên cầm quyền năm 1954, hoặc khi Trung tướng Thiệu trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia năm 1967. Hoặc chậm lắm là vào năm 1968, khi Hoa kỳ đồng ý ngồi chiếu trên với Miền Bắc và để VNCH ngồi với MTGPMN, hay năm 1972, khi những dấu hiệu trở nên rõ ràng là Hoa Kỳ muốn rút ra khỏi Miền Nam. Và Miền Nam đáng lẽ phải khẫn thiết tự hỏi “Chúng ta phải làm gì” để tạo cho Miền Nam một thế lực, một chân đứng như một hòn núi mà sự hiện diện của nó phải được thừa nhận và những thay đổi trên trường chính trị quốc tế không bứng nó đi được.
Nếu câu hỏi đặt ra đúng lúc, Miền Nam chắc chắn tìm được câu trả lời và đủ thời gian dốc toàn lực và ý chí để thực thi một chính sách quốc phòng hữu hiệu. Ðịnh mệnh của Miền Nam chắc chắn đã ở trong tay người dân và chính quyền Miền Nam, và được định đoạt không phải ở Hoa Thịnh Ðốn, Ba Lê, Bắc Kinh hay Mạc Tư Khoa, mà ở Sài Gòn.
Luật Sư JOHN P. LÊ PHONG
* Việc Liên Xô thay đổi thái độ lúc hổ trợ Mao lúc hổ trợ Tưởng giống như Hoa Kỳ, là bằng chứng rõ rệt định luật “an ninh quốc gia đứng trên đồng minh” là định luật chung cho mọi quốc gia. Một quốc gia sẽ thay đổi và phải thay đổi đồng minh khi an ninh quốc gia đòi hỏi.
No comments:
Post a Comment