Việt Nam: mất nhiều hơn được !
I.- CHỦ TRƯƠNG XÂM LƯỢC CỦA
TRUNG QUỐC.
Một - Năm 1979 - TQ tấn công toàn bộ biên giới phía Bắc Việt Nam.
Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn
bá quyền Bắc Kinh đã đem một lực lượng hùng hậu gồm bộ binh và xe tăng, trọng
pháo tiến vào tấn công Việt Nam. Áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn
thất, quân đội TQ tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Có đến
9 quân đoàn và hai sư đoàn tiến chiếm các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng liên
Sơn, Lai Châu. Quảng Ninh, và Hà Tuyên. Đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, chỉ trong
vòng 11 ngày ngắn ngủi quân Trung Quốc đã chiếm được các thị xã Lào Kay, Cao
Bằng, Hà Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này
bị phá hủy triệt để.
Mãi đến ngày ngày 5 tháng 3 năm 1979, do áp lực và sự phản đối của quốc tế, Bắc
Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh và đã “Dạy cho Việt Nam một bài học” (chic).
Đến ngày 18 tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã hoàn toàn rút khỏi Việt Nam.
Nhưng chưa kịp nhặt xác về hết. Chúng phải điều đình với phía Việt Nam cho thêm
khoảng thời gian một tuần lễ để mang hết xác chết về. Theo
tuyên bố của phía TQ: có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240
người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị
bắt.
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 tuy ngắn ngủi nhưng tổn thất về
người và tài sản của quân đội Việt Nam phải được gọi là nghiêm trọng nếu so với
cuộc chiến chống lại miền Nam kết thúc trước đó 4 năm. Sai lầm chiến lược làm
cho lãnh đạo Hà
Nội mất cảnh giác và xem thường khả năng tiến hành chiến tranh của
Trung Quốc?
- Thứ nhất là tình
báo của chúng ta quá kém.
- Thứ hai nữa là
mình mất cảnh giác.
Hai - Năm 1984 - Lấn đất và tàn sát người Việt.
Từ ngày 2-4 đến 28-4-1984, TQ đã cho quân tập trung pháo binh bắn phá
khu vực Vị Xuyên suốt 26 ngày đêm và đã bắn tổng cộng 30.000 viên đạn pháo cối
các loại súng khác vào các điểm cao phòng thủ của Việt Nam và lấn sâu vào lãnh
thổ VN khoảng 2km.
Cuộc tập kích bất ngờ cao điểm 1509 thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh, tình
Hà Giang có lẽ là dã man nhất của quân đội Trung Quốc.
Bất kể công pháp quốc tế về tội
ác chiến tranh, lính Trung Quốc giết 3.700 bộ đội Việt Nam, dùng súng phun lửa
đốt xác, đốt luôn cả thương binh còn sống vùi xuống mồ tập thể, biến cao điểm
này thành địa danh Lão Sơn của họ.
Những khu vực bị Trung Quốc lấn
sang biên giới cho tới nay vẫn không thể đòi lại được mặc dù nhiều cuộc đàm
phán biên giới kéo dài từ năm 1989 tới nay. Các cột mốc di động vào sâu trong
lãnh thổ Việt Nam khiến toàn bộ Ải Nam Quan và phân nửa thác Bản Giốc biến mất
vẫn đang là nỗi nhức nhối của người Việt.
Ba - Năm 1974 và 1988 -
Trung Quốc đánh chiếm các hải đảo Việt Nam.
Trên biển Trung Quốc đã đánh
chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 khi hòn đảo này đã từ rất lâu được chính quyền miền
Nam (Việt Nam Cộng Hòa) gìn giữ với đầy đủ chứng từ về chủ quyền lãnh thổ.
Trước đó vào năm 1956 lợi dụng thời gian Pháp rút khỏi Việt Nam và Chính quyền
VNCH chưa ổn định, Bắc Kinh đánh chiếm một phần Hoàng Sa. Năm 1974, lợi dụng
thế muốn rút quân của Mỹ, và sự suy yếu của Chính quyền VNCH, Bắc Kinh mặc cả
với Mỹ trên lưng Việt Nam để đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa.
Đảo Hoàng Sa là đảo có người ở. Trên đảo lúc ấy có đài khí tượng và một đại đội
lính VNCH đồn trú.
Trận hải chiến xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng 1974.
Bốn - Trung quốc cấm và bắt ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng
biển thuộc Việt Nam.
Trước đây vài năm đã có nhiều chủ
tàu cá Việt Nam bị Trung quốc bắt cả người lẫn tàu, sau đó bắt chuộc tiền mới
thả người và thả tàu.
Sau đây, khoảng 10 giờ ngày
5/7/2011, tại phía đông bắc quần đảo Hoàng Sa, các ngư dân trên đang đánh lưới
cản thì có một tàu chiến của Trung Quốc mang số hiệu 44861 đuổi theo. Tàu chiến
thả một canô chở 10 lính trang bị tiểu liên và dùi cui xông lên tàu, đánh đập
thuyền trưởng Nguyễn Thừa, thuyền trưởng tàu QNG-98868 TS, và lục soát thu giữ
khoảng một tấn cá. Sau đó, lính TQ đuổi các ngư dân, không cho đánh cá ở vùng
biển này. Ông Thừa cho tàu tiếp tục đi đánh bắt để kiếm tổn phí, sau đó mới vào
bờ và báo cáo sự việc.
Năm - Trung quốc đã cắt cáp (cable) của tàu Việt Nam 2 lần, và
định cắt lần 3 nữa !
Tàu Bình Minh 2 đã bị phía Trung Quốc cắt cáp hồi cuối
tháng Năm ở vùng lãnh hải được cho là thuộc Việt Nam, khiến người dân Việt Nam
giận dữ xuống đường biểu tình phản đối.
Sự
việc xảy ra với tàu của PetroVietnam nhưng không để lại hậu quả vì,
theo mô tả của ba nguồn tin khác nhau, "các tàu hộ tống của Việt
Nam đã vào kịp thời".
Tàu của phía Trung Quốc vì thế đã đổi hướng nên
hai bên không gây ra va chạm.
Sáu - Chiến thuật thực hiện hoá “Đường
Lưỡi Bò” của Trung quốc.
Cuối tháng năm 2011 vừa rồi, căng
thẳng lại gia tăng lên một mức độ cao hơn trên biển Đông khi ba tàu hải giám
của Trung Quốc đe dọa tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam Bình Minh 2 và phá hoại
thiết bị đo địa chấn của Bình Minh 2. Sự kiện này xảy ra cách bờ biển Việt Nam
120 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 340 hải lý, hoàn toàn nằm trong
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Việt Nam.
Sự mập mờ của đường chữ U.
Sự kiện
tàu Bình Minh diễn ra gần bờ biển đất liền Việt Nam hơn quần đảo Hoàng Sa hay
Trường Sa. Theo luật quốc tế và tập quán quốc tế, Quần đảo Hoàng sa và Quần đảo
Trường sa và các bãi đá chỉ được hưởng hoặc là lãnh hải 12 hải lý, hoặc cùng
lắm là lãnh hải cộng với một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) không vượt ra
xa hơn 12 hải lý một cách đáng kể. Do vậy dù giàu trí tưởng tượng đến đâu đi
nữa về sự công bằng thì những vùng đặc quyền kinh tế của hai quần đảo này cũng
không thể vươn tới hay đi qua các đường trung tuyến giữa chúng và các bờ biển
chung quanh Biển Đông.
Cơ
bản Việt Nam đã chỉ ra rằng vùng biển của sự kiện này không nằm trong tranh
chấp Hoàng Sa hay Trường Sa.
Hai ngày sau, TQ trả đũa rằng hành động của nước này là
“hành động thực thi luật pháp của các tàu hải giám Trung Quốc chống lại việc
các tàu Việt Nam vận hành bất hợp pháp là hoàn toàn chính đáng.” Họ còn thúc
giục Việt Nam phải “ngay lập tức ngưng những hành động xâm phạm và không được
gây thêm rắc rối mới.”
Nhưng, thêm một lần nữa, TQ đã không đặt tuyên bố của mình
vào khuôn khổ của các vùng nước UNCLOS. Và nước này cũng không đưa ra ranh giới
cụ thể cho yêu sách của hay trích dẫn luật quốc tế nào để biện minh cho lập
luận của mình.
Một đặc tính chung ở các yêu sách và va chạm này là chúng
đều liên quan đến các vùng nước bên trong đường “chữ U” mập mờ mà Trung Quốc đã
đưa vào bản đồ của họ trong thế kỷ 20 vừa qua. Theo năm tháng, đường chữ U dần
dần bành trướng đến khi nó bao trùm phần lớn biển Đông, vào cách bờ biển của
các nước khác dưới 100 hải lý, mà không hề có một lập luận nào dựa trên luật
pháp hay tập quán quốc tế.
II.- TRUNG QUỐC ĐÁNH KINH TẾ VIỆT NAM.
1- Chủ trương in bạc giả để làm cho đồng bạc Việt-Nam đã mất
giá, càng mất giá thêm.
Cơ quan tình báo Trung
quốc bí mật in bạc giả với số lượng nhiều vô kể rồi cho người mang đến
biên giới tiêu thụ bằng cách bán rẻ cho thương buôn Việt Nam hay những kẻ đấu
cơ tích trữ để mang sang Việt Nam bán kiếm lời. Đã có nhiều trường hợp người đi
mua bạc giả làm lộ liễu quá nên bị bắt. Hầu như được căn dặn từ trước nên những
người này chỉ khai vớ vẩn là: “Mua của một người Tàu, không biết tên họ là
gì?”.
Một điểm khá đặc
biệt là chính quyền Việt Nam không biết vì sao không làm thống kê chính thức về
bạc giả do ai làm ? Và tiêu thụ là bao nhiêu ?
2- Hàng hoá của Trung quốc nhập nội vào nước ta trốn thuế, không qua các cửa khẩu chính thức.
Phần nhiều hàng hoá của Trung quốc bất kể loại nào đều thuê
người gánh (cửu-vạn) gánh qua đường tắt và đi ban đêm, đưọc tổ chức đi từng
đoàn. Một đoàn có cả trăm người hay hơn, và đi thành nhiều đoàn, đi ban đêm,
không qua các cửa khẩu để dễ bề trốn thuế.
Cũng có một số ít đưa qua cửa khầu nhưng lại khai gian số
lượng và khai gian mặt hàng.
Việc này kéo dài hà rằm tháng này qua tháng khác, năm này
qua năm khác mà họ vẫn làm ăn trót lọt làm thiêt hại cho việc thu thuế mỗi năm của
Việt Nam với con số khổng lồ. Thế là thế nào? Nếu không có sự hổ trợ của chính
quyền hay hải quan điạ phương ?
Các cửa khẩu, nhất là ở Lạng Sơn thấy hàng vận chuyển từ
Trung quốc sang Việt Nam thì không biết cơ
man nào, nhìn thấy muốn chóng mặt. Còn hàng hoá từ Việt Nam sang Trung
quốc chỉ bằng 1/3 hàng Trung quốc chuyển sang Việt Nam.
Nếu chúng ta đến biên giới muốn tìm hiểu vấn đề buôn lậu và chuyển hàng qua biên giới Việt Nam ra sao thì
rất là dễ tìm hiểu.
3- Chính phủ Việt Nam không có chế độ kiểm soát hàng hoá
cũng như kiểm dịch thực phẩm, thuốc men có chất độc của Trung quốc bán qua Việt
Nam ?
Thuốc men của Trung quốc nói chung bán
qua Việt Nam không được kiểm soát có
được an toàn hay không. Nhiều thứ thuốc
độc hại, nhất là các chất hoá học độc hại cũng được nhập cảng tự do và buôn bán
tự do. Tại chợ Kim Biên (Chợ Lớn cũ) các chất hoá học độc hại được bán tự do;
ai muốn mua bao nhiêu cũng có.
Thực phẩm cũng vậy, như sữa bột độc hại sản xuất tại Trung
quốc. Nước tương (xì-dầu) do người Hoa
làm cũng vậy hôi thối, bẩn thỉu kông hợp vệ sinh. Thế mà cũng bán được tuốt.
Thậm chí đến ngành y khoa, chữa bệnh của thầy thuốc người Hoa, chính phủ cũng không kiểm
soát cẩn thận, để cho họ mặc tình cũng như tha hồ quảng cáo những chuyện trồi
ơi đất hỡi không đúng sự thật. Nói chung, chính quyền điạ phương không dám đụng
đến người Tàu.
4- Những gói thầu qu.an trọng khắp mọi nơi ở đất nước từ Bắc
vô Nam đều rơi vào tay người Tàu.
Như các nhà máy điện, cầu đường quan trọng và những gói
thầu khác thuộc về điện toán không có
người ngoại quốc nào trúng thầu cả. Tất cả các gói thầu từ lớn đến nhỏ đểu rơi vào
tay người Tâu. Vì sao vậy ? Vì họ biết lo lót và kín mồm kín miệng nên các quan
điạ phương tham nhũng rất ưa chuộng nên họ đã trúng thầu rất dễ dàng.
Nhưng không phải chủ thầu người Tầu đều là những người tử
tế. Món nào dễ ăn thỉ họ làm ngay, còn món nào khó ăn thì họ làm cẩu thả, đế
đấy hoặc có khi bỏ về Tàu mất tăm. Để lại dở dang cho chính quyền, chính quyền
có muốn liên lạc với họ cũng không biết
bây giờ họ ở đâu?
5- Khai thác
Bau-xít chỉ là hình thức che măt chính phủ Việt Nam.
Thật ra, những nhân công người Hoa cho đến Tây-Nguyên khai
thác Bau-xít tất cả đều là người thuộc quân đội Trung quốc trá hình vì
Tây-Nguyên là điểm chiến lược. Ở đây hay bất kỳ nơi nào có đông công nhân người
Hoa tụ tập thì chỗ đấy xem như là chỗ bất khả xâm phạm. Kể cả Công An Việt Nam
hay chính quyền điạ phương cũng không được bén mảng đến đó. Chỗ đó được rào
kín, người Việt Nam không được quyền vào.
Và như thế bên trong họ chưá súng đạn, bom hoặc bất kỳ vũ
khí gì, chính quyền Việt Nam khó mà biết được?
6- Người Tầu thuê đất để làm gì ? Đất bạt ngàn cho thuê giá
rẻ như bèo?
Nhất là đất ở các tỉnh vùng biên giới Tây-Bắc và Đông-Bắc,
Liên khu IV, Liên khu V toàn là những điạ điểm chiến lược hay chiến thuật họ
mới thuê. Không phải chỗ đất nào họ cũng thuê?
Các chính quyền điạ phương bây giờ như chúa tể một vùng hay
như các sứ quân hùng cứ một nơi. Lãnh
đạo (Ban Chấp-Hành T.W Đảng) cũng không dám đụng đến vì đụng thì không được
chia chác hay đến khi bầu thì họ (địa phương) không bầu cho.
Trong lúc nông dân Việt Nam địa phương không có đất để
trồng trọt, phải bỏ nhà cửa bống bế nhau lên tỉnh, lên Hà Nội hay vào TP. Hồ
Chí Minh để bương chãi kiếm sống. Trái lại, chính quyền địa phương lại không
đếm xỉa gì đến đời sống của nông dân. Lấy đất công cho người Tầu thuê để có
tiền chia nhau; phần còn lại rất ít để vào công qũy. Chính quyển địa phương tắc trách chỉ cần tham
nhũng, không cấn biết người Tầu thuê đất
đó để làm gì? Với mục đích gì?
7- Việt Kiều ở nước
ngoài có phải là “khúc ruột ngàn dặm” ?
Người Việt ở nước ngoài nói chung vì chia rẽ, không đoàn
kết thống nhất. Nhất là còn nuôi căm thù cho nên cuộc sống hàng ngày như “lục bình trôi”, như ăn tạm ở
thì ở nước ngoài nên đã bị CSVN lợi dụng sự đóng góp công và của, của Việt Kiều.
Chứ Việt Kiều đích thực không phải là “khúc ruột ngàn dặm” như lời đề cao của CSVN mà người Tầu mới
đích thực là khúc ruột nối liền với 16 chữ vàng và 4 chủ trương tốt trong “tình đồng chí anh
em Trung-Việt”.
Tại sao chúng tôi xác quyết như thế. Vì bất cứ một Việt
Kiều nào muốn về thăm quê hương mình đều phải đóng tiển 50 đô-la và phải làm
đơn xin visa mới được đặt chân lên quê hương của mình. Không những thế, nhiều
khi còn bị các quan trông coi việc xuất nhập hoạnh họe và bắt bẽ đủ điểu. Trái
lại, người Tầu là ngưởi ngoại quốc không phải tốn tiền, không phải làm đơn xin
visa. Họ ưu tiên muốn ra vào Việt Nam lúc nào thì tùy tiện và hoàn toàn tự do,
các quan người Việt sợ, không dám đụng đến họ.
8- Người Tầu không
cần xin phép chính quyền Việt Nam để được làm việc hoặc tự do cư trú, lập làng
Hoa Kiều trên đất Việt.
Gần đây, chúng ta thấy các chủ thầu hay chủ đầu tư người
Tầu có toàn quyền đưa công nhân của họ
vào ở tự do trên đất Việt. Thậm chí còn lập làng Hoa kiều tùy tiện. Đặc biệt
tại tỉnh Bình Dương còn ưu tiên xây một dãy phố sang trọng dành cho người Tầu
buôn bán.
Trên thế giới này, không thấy có một chính phủ nước nào hèn
hạ như chính phủ Việt Nam, chính quyền tự đánh mất chủ quyền của mình, để người
Tầu thao túng làm càn trên đất Việt như chỗ không người?
III.- LÃNH ĐẠO VIỆT NAM BẤT LỰC.
1- So sánh
năng lực của cấp lãnh đạo trước kia và hiện nay.
Thời trước, trong thời kháng chiến chống thực dân vì chiến
tranh, chúng ta thiếu thốn đủ thứ phải nên phải nhờ TQ viện trợ. Nhưng người
đầu nước là Tổng Bí Thư Lê Duẫn với phụ tá là Lê Đức Thọ; phải công nhận rằng tuy
họ lãnh đạo sắt đá, nhưng phải nói là họ có trình độ và biết ứng xử và biết phải
làm thế nào để đối phó với bọn bành trướng Bắc-Kinh (kẻ thù truyền kiếp của dân
Việt) khi bị chúng ăn hiếp.
Còn bây giờ, trong hiện tại nước Việt Nam không phải nhờ vả
Trung quốc và cũng không nhận viện trợ của Trung quốc. Thế mà hiện nay, cấp
lãnh đạo Việt Nam hoàn toàn bất tài, bất lực lại có thái độ ươn hèn với tư
tưởng cầu an, không biết nhục trước sự đe dọa của bọn bá quyền Bắc Kinh.
2- Ban Chấp Hành TƯ Đàng CSVN không xứng đáng giữ vai trò
lãnh đạo đất nước.
Về luật pháp quốc gia: Không có tự do bầu cử. Đảng
chỉ huy và giật dây tất cả mọi mặt: Tư pháp, Hành pháp cho đến Quốc hội, Quản
lý, Hành chánh, Nhân viên. Tất cả nhân sự làm việc trong các bộ máy chính quyền
đều do Đảng chỉ định. Đại biểu Quốc hội không do dân bầu mà do Đảng cử. Cho đền
thủ tướng cũng vậy. Pháp luật thì tùy tiện, mỗi nơi dùng mỗi khác không thống
nhất. Phải nói chế độ hiện hữu của Việt Nam bây giờ là Đảng trị và Công An trị.
Vì CA xem con Người không ra gì, tùy
tiện hành hung và chà đạp nhân phẩm của người dân. Chính phủ muốn bỏ tù ai thì
bỏ, chẳng cần xem xét người đó có phạm tội?
Về khả năng: Dốt, không chịu học hỏi. Nhưng lại thích có
bằng “Tiến sĩ”?
Mọi người và mọi nước trên thế giới đều phải công nhận
những người lãnh đạo một nước phải có tài và biết tiên liệu sự việc những gì
sắp xẩy ra cho đất nước mình ít nhất cũng phải 5 năm sắp tới. Nhưng những người
lãnh đạo của CSVN bây giờ thì không những không có kế hoạch lâu dài mà còn “gặp
đâu xâu đó” và “ăn xổi ở thì” Nhất là về kinh tế, ViệtNam hoàn toàn rập khuôn
của TQ, nhưng chỉ bắt chước nửa vời. Sau mấy chục năm cầm quyền Việt Nam vẫn là
một nước nông nghiệp sơ khai. Tuy có gạo sản xuất ra nước ngoài nhưng nhân dân
vẫn còn nghèo đói.
Về xe gắn máy và DTDĐ có thể nói Viêt Nam chiếm giãi nhất
tro0ng các nước về tiêu dùng, nhưng chính phủ không biết đầu tư hay khyến
khích, giúp đỡ dân chúng đầu tư vào công nghệ nầy? Ngược lại chỉ ngồi chực chờ
cho người ngoại quốc vào đầu tư để tham nhũng.
Mọi ngành nghề đều làm “hạn chế”. Làm cho có chứ không mở
rộng, phát triển và không học hỏi, huấn luyện đi sâu vào chuyên môn như giáo
dục, y tế, giao thông vận tải, nông lâm súc, du lịch, truyền thông, hành chánh
v.v…
Cấp bẳng “tiến sĩ”, “thạc sĩ” ở Việt Nam không có giá trị bởi vì không học đầy đủ mà
học “tại chức”; không biết viết luận án nên phải thuê người viết.
Cái dở hơi cuả chính quyền Việt Nam là quá chú trọng về
bằng cấp mà không chú trọng đến khả năng và sự hiểu biết? Cho nên nhiều người
đã mua bằng giả để dùng.
Về đức tính: Vô cảm,
tham lam, ích kỷ, đố kỵ, nhỏ nhen, chủ quan.
Xã hội suy đồi, đạo đức băng hoại đã sinh ra tính “vô cảm”
của người Việt Nam nói chung và cán bộ CS nói riêng.
Ở Việt Nam bất kể ngành nào. Nếu muốn xin bất cứ loại giấy
tờ gì người dân phải “đút lót” mới mong có được giấy tờ mau chóng. Tham nhũng
là một dịch vụ thường trực từ TW cho đến điạ phương, không nơi nào là không có
tham nhũng. Tính tham lam đã đẻ ra nhỏ
nhen, đố kỵ và chủ quan.
3- Bây giờ ở Việt Nam, Đảng CSVN chỉ còn trên danh từ. Thực
tình Đảng đã biến chất không còn là CS nữa?
Các tổ chức chống Cộng ở nước ngoài đã lầm lẫn gọi chế độ
cai trị ở Việt Nam hiện nay là CS. Thực ra, tử tư tưởng đến hành động họ không
còn là CS nữa : Thứ
nhất, họ không phải là những người đi làm cách mạng để giải phóng Dân
Tộc. Họ không biết hy sinh, họ không đi kháng chiến chống thực dân. Thứ hai,
họ chỉ là thành phần ăn bám xã hội. Nhờ vào thành tích của gia đình để được vào
Đảng mà chúng tôi gọi họ là “đảng theo”. Theo để có quyền lợi, địa vị chứ không
hề là giai cấp vô sản (công nông) thực thụ. Họ không có quan điểm quần chúng. Thứ ba,
họ ích kỷ và vô cảm trước sự dau khổ và nghèo
đói của đại đa số nhân dân Việt Nam. Thứ tư, họ
kéo bè kéo cánh để độc quyển tham nhũng. Độc quyền yêu nước. Độc quyền nắm giữ
những điạ vị quan trọng, then chốt.
Người ngoài Đảng dù có tài, có thiện chí đối với Đất Nước cũng không được dùng.
IV.- ĐẢNG CSVN ĐÃ VÀ ĐANG LÀM GÌ ĐỂ ĐỐI PHÓ
VỚI CHỦ TRƯƠNG XÂM LĂNG CỦA TRUNG QUỐC.
1- Đảng CSVN đã và đang thực hiện chính sách “ru ngủ quần chúng” thay vì động viên
dân chúng chống TQ.
Chúng ta đã thấy rõ âm mưu xâm lược của TQ, nhất là trong
vụ Biển Đông gần đây. Thay vì phải chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm chiếm Việt
Nam củs TQ, nhưng Đảng CS đã ru ngủ quần chúng bằng cách bày ra những cuộc văn
nghệ hát hò, vui chơi như Duyên Dáng Việt
Nam, Áo Dài Việt Nam, Showbiz v.v… Nay mở hội Festival ở nơi này, ngày mai lại
có Festival Huế. Mở ra các cuộc thi hoa hậu liên miên, hết hoa hậu Việt Nam đến
hoa hậu thế giới. Lại còn thi nhảy “Bước Nhảy Hoàn-Vũ”. Bày ra đủ thứ hội hè
đình đám ở thôn quê với mục đích “Ru ngủ quần chúng”! Sợ quần chúng nhân dân nổi lên chống đối vì cuộc sống bị gò bó,
không có tự do, dân chủ. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo quá xa. … !
Thay vì chuẩn bị đề phòng, đề cao cảnh giác trong khi bọn
bành trướng Bắc Kinh đang có âm mưu xâm chiếm, nhưng trái lại mở đài lên toàn
là hát xướng tối ngày. “Thợ hát Đàm Vĩnh Hưng” được đề cao là “thần tượng” (hết biết), trái
lại những chiến sĩ đêm ngày canh gác hải đảo, rừng núi ở biên giới không những
không được đề cao mà còn bị lãng quên.
2- Sợ TQ nên phải dùng chủ trương mạnh để trấn áp biểu tình.
Đáng lý ra, chính phủ phải khuyến khích để dân chúng đi hay
tham gia biểu tình chống TQ đông đảo; đó mới chứng tỏ lòng yêu nước nhưng CA
nhân dân (sic) đã trấn áp biểu tình bằng những hành động thô bạo như đạp vào
mặt người biểu tình khi họ đã bị khoá tay, khoá chân; vác người biểu tình như
vác một con vật, kéo lê xềnh xệch giữa phố; vất người biểu tình lên xe như
quẳng một bao xi-măng …
Những người đi biểu tình chống bọn bá quyền Bắc Kinh là
những người yêu nước, có ông với Tổ Quốc. Họ không phải là những tội phạm, phản
động hay phản quốc? CA không có quyền ngăn cản hay khủng bố họ.
Có tình trạng CA đe dọa và kiếm chuyện làm khó dễ một số
trí thức tham gia biểu tình chống TQ với mục đích ngăn chận việc họ chống đối
bọn bành trướng Bắc Kinh.
Để bào chữa cho hành động phi pháp, vô nhân tính và để
chứng tỏ với bọn bá quyền Bắc Kinh rằng nhà cầm quyền Việt Nam không những cấm
biểu tình chống TQ mà còn bắt bớ họ. Lại có chuyện quá hài hưóc là CA nói với
người biểu tình rằng: “Các bác và các anh
các chị đi biểu tình chống TQ làm gì? Có phải bọn xấu trả tiền cho để đi biểu
tình phải không? Lần sau, ở nhà cho khoẻ, có gì xẩy ra giữa TQ đã có Đảng lo
rồi”.
3- Chính phủ không có kế hoạch hay chủ trương đối phó với âm mưu xâm lược của TQ.
Thay vì tuyên truyền, mở chiến dịch đề phòng sự tấn công
của bọn bá quyền Bắc Kinh, nhưng trái lại cán bộ tỉnh từ Bắc xuống Nam đã và
đang mở chiến dịch “tịch thu ruộng đất, nhà cửa để phát triển đô thị” hầu có cơ
hội tham nhũng, gian lận tiền bồi thường, vơ vét tài sản của dân chúng.
Không có việc tìm hiểu cũng như kiểm kê chính thức của
chính phủ Việt Nam về con số người Tầu hiện diện ở Việt Nam. Và không phải có lẽ
nữa? Trong tất cả các sắc dân nước ngoài đang sống rên lãnh thổ Việt Nam thì
cộng đồng người Tầu chiếm kỷ lục. Không nhũng vậy, ở Bình Dương đã quá ưu đãi
và ưu ái với người Tầu bằng cách xây riêng biệt một khu phố dành riêng cho người Tầu có tên là “Đông Đô Đại Phố”.
4- Truyền thông báo chí nói một chiều, không dám đã động gì
đến Tầu?
Báo chí và truyền thông Việt Nam đã không dám lên tiếng
phản đối nên đã cầu an, im hơi lặng tiếng trước sự đe doạ xâm lăng của bọn bá
quyền Bắc Kinh. Nhưng có điều đáng phàn nàn có một số báo không những không dám
lên tiếng phản đối mà còn tuyên truyền đề cao TQ cái gì cũng nhất. TQ đã qua
mặt Mỹ về vũ khí v.v…và vân vân …
Tệ hại hơn, đa số báo chí đua nhau khai thác những bài viết
về “Sex”, những hình ảnh phụ nữ ăn mặc hở hang, những tin tức có tính chất dâm
dật, phi văn hoá; đảo lộn thuần phong mỹ tục và đạo đức của người Việt Nam.
Nhân dịp này, xin có lời nhắn cùng VTV4 không nên đưa các
thước phim với những cảnh hút sách, rượu chè, cờ bạc, đĩ thoả có tính chất sa
đọa ở Việt Nam hiện thời lên chiếu… để đầu độc con em Việt Kiều? Làm ơn ngưng
ngay những thước phim đáng ghét, đáng mĩa mai đó ! Đó là hình thái diễn tả một xã
hội băng hoại, “vô
văn hoá”, đi ngược lại phong tục, tập quán tốt đẹp của Việt Nam từ
nghìn xưa để lại.
KẾT LUẬN.
Như lịch sử đã viết, nước Việt
Nam đã từng bị quân Hán chiếm đóng và cai trị rất là tàn ác những hai nghìn năm
nhưng nhờ có lòng quật cường và ý chí chiến đấu chống ngoại xâm của Dân Tộc nên
chúng ta gìn giữ được giang san gấm vóc, nhất là không bị bọn người Hán đồng hoá.
Chủ trương xâm lăng của bọn
bành trướng Bắc Kinh ngày càng lộ liễu, nhưng ngược lại Đảng CSVN giờ đây không
còn chính nghĩa để lãnh đạo Đất Nước, họ đã không còn lập trường tam dân (của dân,
vì dân, do dân) mà chỉ ích kỷ nghĩ đến bản thân mình. Họ không có khả năng lãnh
đạo Đất Nước và không có ý chí chống ngoại xâm nên đã ươn hèn để cho Hán tộc lấn
đất, lấn biển cùng ngăn cản lòng yêu nước
của nhân dân Việt Nam bằng cách đàn áp biểu tình những ngày vừa qua.
Trong khi chờ đợi cơ hội tấn
công Việt Nam bằng quân sự, bọn bành trướng Bắc Kinh vẫn thi hành độc kế là đánh
Việt Nam bằng “Kinh tế”. Hàng hoá TQ tràn ngập Việt Nam nhưng bọn lãnh đạo, một
là sợ bọn bành trướng Bắc Kinh nên vẫn làm ngơ, mặc tình như không có chuyện gì
xẩy ra; hai là không thấu hiểu âm mưu của người Hán, hoặc không biết phương sách đối phó.
Nếu như cái đà này còn kéo dài
thì sớm muộn gì nước ta sẽ bị TQ thôn tính để trở thành một tỉnh của TQ hay là
“một An-nam tự trị”.
Chỉ
còn một phương cách duy nhất là phải nhờ vào Mỹ. Nhưng Bộ Chính Trị và TW Đảng
lại sợ xáp lại gần với Mỹ thì xẩy ra “Diễn biến Hoà Bình” thì mất Đảng; mất Đảng
thì mất địa vị và mất tất cả ….
Một
mặt, chúng ta phải làm hết sức mình về mọi mặt để có được sức mạnh. Và sức mạnh
đó là nguồn tài chánh và tinh thần để ủng hộ đồng bào trong nước ồ ạt, ít nhất
là phải có cả trăm nghìn người xuống đường tranh đấu bất bạo động trường kỳ và phải chịu hy sinh để giành lại
quyền làm chủ Đất Nước của mình trong tay những người CS (chỉ có trên danh nghĩa).
Mặt khác, chúng ta phải đoàn
kết, không phân biệt tôn giáo, đảng phái chính kiến …. bỏ tất cả các tị hiềm để
cùng nhau chống “Đại Hán”, đó mới đích thực là kẻ thù duy nhất, một kẻ thù nguy
hiểm và kẻ thù truyền kiếp của Dân Tộc Việt Nam.
Atlanta - Georgia, 25-07-2011.
NGUYỄN VÂN.
Email: nguyenvan1911@gmail.com
-- --
Trước