Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012
F-35B Ship Suitability Testing
Canh buom vuon xuan
Friday, July 22, 2011
Những
đóng góp cho Đất nước sau 1975 của một chứng nhân lịch sử: GS Vũ Quốc
Thúc
Lê Quế
Lâm
Sau
tháng Tư 1975, người dân Miền Nam bắt
đầu gánh chịu thảm họa lớn khi đất nước thống nhất dưới sự cai trị của
Đảng
CSVN. Gần một triệu người thuộc chế độ cũ bị đưa vào các trại cải tạo.
Sự phân
biệt “chính ngụy” còn nhắm vào con cái các thành phần kể trên nhằm triệt
hạ tận
gốc người Quốc gia. Cuộc chiến kéo dài gần 30 năm từ 1946 đến 1975 vừa
chấm dứt,
một cuộc chiến mới lại xảy ra giữa CSVN và Khmer Đỏ. Hàng trăm ngàn
thanh niên
bị cưỡng bách nhập ngũ, đưa đi chiến đấu ở Cam-pu-chia. Nền chuyên chính
vô sản
còn áp dụng đối với cán bộ đảng viên của họ, gần 30 vạn đảng viên được
đào tạo ở
Trung Cộng bị sa thãi khỏi chính quyền khi CSVN bày tỏ thái độ thù địch
với TC.
Hàng chục ngàn gia đình tư sản bị đưa đi các vùng kinh tế mới. Các xí
nghiệp tư
nhân bị quốc hữu hóa, các ngành tiểu công nghiệp và nông nghiệp phải đi
vào con
đường làm ăn tập thể. Miền Nam từng là vựa
lúa lớn của thế giới,
nay bắt đầu bị nạn đói đe dọa, phải ăn độn khoai sắn, bo
bo.
Bị
dồn vào đường cùng, nhân dân không còn con đường nào khác, đành phải mạo
hiểm bỏ
nước ra đi. Nhưng ra đi không phải dễ. Đi đường bộ, phải qua Miên, lúc
bấy giờ
Khmer Đỏ đang có chủ trương “Cáp Duồng” (giết người Việt) trong kế hoạch
diệt
chũng của Pol Pot. Chỉ còn vượt biển bằng những phương tiện thô sơ,
trong khi bộ
máy công an chằng chịt kiểm soát sự đi lại của người dân. Số người ra
đến biển
gần tương đương với số người bị bắt vào tù. Theo thống kê của LHQ có gần
một
triệu đồng bào đến được bến bờ tự do, song cũng có khoảng nửa triệu
người vùi
thây dưới lòng biển.
Trước
nổi tuyệt vọng, đồng bào chỉ còn cầu nguyện ơn trên phù trợ, trong số có
Giáo sư
Vũ Quốc Thúc. Mặc dù không phải tín đồ Thiên Chúa Giáo, song hằng ngày,
ông đã
đến nhà thờ Đức Bà. Và một hôm nhân ngày lễ Pentecôte, ông lên nhà thờ
Bình
Triệu hành hương, cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ xin Đức Mẹ cho gia đình
ông được
thoát khỏi VN toàn vẹn. Ông xin nguyện đem những năm còn lại trong đời
để phục
vụ dân tộc, phục vụ tự do và tất nhiên tự do của Thiên Chúa. Khi ông vừa
dứt lời
cầu nguyện bổng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới, có lẽ
khoảng
vài giây đồng hồ. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt
nước mắt
long lanh.
Ông
ghi lại sự kiện huyền diệu này trong hồi ký Thời Đại Của Tôi: “Sau đó
nhìn
kỹ, thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy giọt nước mắt
mà tôi
nhìn thấy chỉ là một ảo ảnh. Từ lúc đó trở đi, suốt buổi chiều, tôi thấy
trong
lòng hồi hộp như mình đang chờ đợi một việc gì sắp xảy ra. Tôi vội vàng
mở lén
chiếc radio nhỏ, vì trong nhà vẫn còn bộ đội đang chiếm đóng. Tôi nghe
lén
chương trình tiếng Việt của BBC. Tin đầu tiên tôi nghe thấy là ông
Raymond
Barre, một người cùng thi thạc sĩ với tôi năm 1950 đã được tổng thống
Pháp
Valéry Giscard d’Estaing cử làm thủ tướng. Lúc đó không khác chi có
người vỗ vai
tôi và bảo tôi: tại sao không nhờ ông Raymond Barre là một người cùng
thi với
mình. Ông ta là giáo sư đại học, mình cũng là một giáo sư đại học cùng
ngạch với
ông ấy mà bây giờ lại lâm vào cảnh khốn cùng như thế này, nhờ ông can
thiệp
giúp, để cho gia đình sang Pháp”.
Nhờ
cơ duyên trên, Giáo sư VQT và toàn bộ gia đình đến định cư ở Paris
từ ngày 30/6/1978.
Nhờ sự giới thiệu của Thủ tướng Raymond Barre, ông được bổ nhiệm làm
giáo sư
giảng dạy kinh tế và quản trị xí nghiệp Viện Đại học Paris XII. Từ thời
điểm
này, ông dành cuộc đời còn lại để phục vụ dân tộc mang lại tự do cho
đồng bào để
đền ơn Đức Mẹ.
Tranh
đấu cho chính nghĩa của người Việt Quốc Gia
Đầu
thập niên 1980, một nhà báo Pháp có tham vọng viết sử là Henri de
Turenne, đã
đạo diển cho hãng Pathé, phát hành một loạt phim về lịch sử VN từ thời
Pháp
thuộc đến chiến tranh VN giữa HK và CSVN. Loạt phim lịch sử VN của ông
ta dựa
trên tài liệu của nhiều tác giả viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh,
nhưng toàn
là những tác giả có xu hướng bài bác chính quyền quốc gia. Họ coi chính
quyền
này là bù nhìn của Pháp. Thí dụ những ông Thủ tướng bắt đầu bằng những
người
từng làm việc dưới thời chinh phủ Nam Kỳ tự trị, rồi sau này dưới thời
chính phủ
lâm thời của Quốc trưởng Bảo Đại, chẳng hạn các Thủ tướng Nguyễn Văn
Xuân,
Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm là tay sai của Pháp, hoặc
hoàng
thân Bửu Lộc cũng là người du học ở Pháp. Nói tóm lại, những người làm
việc
trong chính quyền quốc gia chẳng ít thì nhiều được coi là thân Pháp, nếu
không
cũng dựa vào thế lực của Pháp, dựa vào quân đội Pháp để cai
trị.
Quả
thật, các thủ tướng đầu tiên của Quốc gia Việt Nam trong giai đoạn
1948-1955 như
kể trên, đều là các thành viên trong chính phủ Nam Kỳ Tự trị của Bác sĩ
Nguyễn
Văn Thinh năm 1946. Họ là những trí thức VN hấp thụ văn hóa Pháp nhưng
đấu tranh
với Pháp giành lại độc lập cho nước nhà bằng con đường hòa bình theo
đúng pháp
lý quốc tế do Đồng minh qui định sau khi Thế chiến II chấm dứt. Trước
đây Nam Kỳ
là thuộc địa của Pháp, nay Pháp trở lại phần đất Nam vĩ tuyến 16 để tái
lập chủ
quyền và thương thảo với người bản xứ để trao trả độc lập cho họ. Bác sĩ
Nguyễn
Văn Thinh thành lập Nam Kỳ tự trị trong bối cảnh trên, trước khi giành
độc lập
hoàn toàn và thống nhất đất nước.
Giáo
sư VQT là một chứng nhân lịch sử. Từ vùng kháng chiến Việt Minh trở về
Hà Nội,
ông được Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cử làm Công cán ủy viên làm việc ở
Paris từ
1948 trong thời gian Chính phủ Trung ương Quốc gia Lâm thời vừa được Cựu
hoàng
Bảo Đại cho thành lập, để thương lượng với Pháp về nền độc lập và thống
nhất
nước nhà. Kết quả là ngày 8/6/1948 trên một chiến hạm bỏ neo tại Vịnh Hạ
Long,
Cao ủy Bollaert, đại diện chính phủ Pháp và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng
Chính phủ
Trung ương Quốc Gia Lâm thời đã ký thỏa ước Vịnh Hạ Long. Pháp nhìn nhận
VN độc
lập và tự do thực hiện sự thống nhất quốc gia. Đến ngày 8/3/1949, tại
Dinh tổng
thống Pháp (Điện Elysée) cựu hoàng Bảo Đại và TT Vincent Auriol ký Hiệp
ước
Elysée. Pháp chính thức nhìn nhận VN là một quốc gia độc lập thống nhất
thuộc
khối Liên Hiệp Pháp.
Lúc
bấy giờ, VN ở trong khối LHP, để tìm sự bảo trợ của khối này nhằm chống
lại mưu
đồ nhuộm đỏ Đông Dương của ông Hồ Chí Minh. Đây là sự đền trả của Pháp
sau hơn
80 năm khai thác nguồn tài nguyên của nước ta. Nay họ có bổn phận chiến
đấu bên
cạnh Quân đội Quốc Gia VN để bảo vệ nền độc lập và Tự do cho dân tộc
Việt. Từ
1949 đến cuối năm 1953, số quân viễn chinh Pháp bị thương vong lên đến
trên 100
ngàn và đã chi cho cuộc chiến hơn hai lần số tiền mà họ đã nhận của HK
qua kế
hoạch Marshall để tái thiết nước Pháp sau Thế chiến II.
Đến
cuối năm 1953, tình hình Đông Dương bước vào một khúc quanh quan trọng:
các
cường quốc quyết định chia cắt ảnh hưởng ở Đông Dương. Lúc bấy giờ ông
VQT đã đô
bằng Thạc sĩ, tham gia Chính phủ Bửu Lộc với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục.
Ông đã
cùng Thủ tướng Bửu Lộc, Giáo sư Nguyễ Quốc Định, bộ trưởng Ngoại giao,
Nguyễn
Văn Đạm Bộ trưởng Tư pháp và Luật sư Nguyễn Đắc Khê Bộ trưởng Bộ Dân chủ
hóa đến
Paris cùng Thủ tướng Pháp Joseph Laniel ký Hiệp ước về Độc lập (Traité
d’Indépendance) ngày 4/6/1954. Nước Pháp công nhận nước VN là một quốc
gia hoàn
toàn độc lập có đầy đủ chủ quyền và thẩm quyền do quốc tế công pháp công
nhận.
Trong
Nội các Bửu Lộc có Bộ Dân Chủ Hóa, khi đất nước sắp bước vào một giai
đoạn lịch
sử mới, cho thấy Quốc trưởng Bảo Đại đã chuẩn bị đưa VN vào thời đại Dân
chủ
thực sự. Hai tuần sau khi Hiệp ước Độc lập được ký kết, QT Bảo Đại đề cử
ông Ngô
Đình Diệm làm thủ tướng với toàn quyền quân sự và dân sự. TT Diệm yêu
cầu Pháp
chính thức rút khỏi VN, nước Việt Nam Cộng Hòa ra đời từ
1956.
Giáo
sư VQT xuất hiện trên đài truyền hình và phát thanh để phản bác những
xuyên tạc
sự thật của bộ phim lịch sử do ông Henri de Turenne làm đạo diễn. Theo
Gs Thúc,
việc làm của ông Turenne “không khác gì công việc của một chứng nhân
trước
tòa án dư luận để xét lại một số lịch sử VN”. Nhưng ông Turenne “không
làm đúng vai trò chứng nhân của một sử gia vì ông ấy đã cố ý bỏ quên một
phần
lớn sự thật là các ưu điểm của chính qưyền Quốc gia VN cũng như của chế
độ thuộc
địa Pháp ngày xưa”. Sau đó ông Turenne đã phải thú nhận ngay trên
đài truyền
hình là ông ta đã thuật lại các sự việc với tư cách một ký giả chớ không
phải
với tư cách một sử gia. Người đời có câu “Nhà báo, nói láo ăn tiền”.
Phản bác
lập luận của Henri de Turenne, chính là phản bác giới báo chí thiếu sự
lương
thiện cùng các phần tử phản chiến đã xuyên tạc sự thật nhằm làm mất uy
tín của
người Quốc gia trong cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua.
Tranh
đấu cho người Việt tị nạn:
Vào
năm 1986, làn sóng thuyền nhân đã bước vào năm thứ 10, các nước Âu, Mỹ, Á
ngày
càng trở nên lãnh đạm, nếu chưa phải là “hằn học” đối với các nạn dân
VN. Họ cho
rằng đám người này kéo nhau di cư, không phải vì lý do chinh trị, mà chỉ
vì lý
do kinh tế. Vì thế Gs VQT cùng thẩm phán Nguyễn Thạch Vân, một cộng sự
viên của
cố TT Trần Văn Hương nêu lên vấn đề Hà Nội vi phạm HĐ Paris 1973, trong
khi các
cường quốc thiếu trách nhiệm vì đã long trọng ký tên bảo đảm sự thi hành
hiệp
định. Chính vì họ “bội ước” cho nên hàng triệu người phải bỏ VN ra đi.
Họ không
có quyền mạt sát nạn dân VN là những kẻ tị nạn chính trị giả
hiệu.
Nhân
kỷ niệm lần thứ 38 Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Gs VQT tổ chức
cuộc hội
thảo ngày 7/12/1986 tại Paris về vấn đề
thuyền nhân. Ông mời một số
luật sư tên tuổi làm thuyết trình viên như Thẩm phán Nguyễn Thạch Vân,
cựu Bộ
trưởng Phủ Tổng thống, Luật sư Vương Văn Bắc, cựu Bộ trưởng Ngoại giao,
Luật sư
Trần Thanh Hiệp, cựu bộ trưởng…Thảm cảnh thuyền nhân theo phân tích của
các luật
gia, xuất phát từ quyền tự quyết của nhân dân bị tước đoạt. Nhà cầm
quyền CS bắt
dân VN chấp nhận nếp sống trái ngược với truyền thống văn hóa mình, trái
ngược
với nguyện vọng dân tộc của mình và tồi tệ hơn nữa, trái hẳn với nhân
phẩm của
mình. Người ta không có lối thoát nào khác nên phải liều mạng ra
đi.
Luật
sư Vương Văn Bắc kết luận: HĐ Paris 1973 cũng như văn kiện ngày 2/3/1973
của Hội
nghị quốc tế về VN đều có chứa đựng một số điều khoản nếu được thi hành
đứng đắn
đã tránh được thảm họa thuyền nhân. Các thỏa hiệp đó chưa hề mất giá
trị. Nếu
bây giờ làm sống lại, người ta có hy vọng thiết lập một nền hòa bình lâu
dài ở
Đông Dương và như vậy sẽ giải quyết một cách dứt khoát thảm trạng thuyền
nhân.
Nếu thảm họa này kéo dài, hiển nhiên đó là một mối đe dọa thường xuyên
đối với
nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Sau ba tiếng đồng hồ hội thảo, các tham
dự viên
đã đi đến quyết định thành lập Ủy ban Luật gia Vận động Vãn hồi Hiệp
định
Paris 1973 do Gs
VQT làm chủ tịch.
Lúc
bấy giờ, thế giới lên án CSVN can dự vào cuộc chiến ở Campuchea và vi
phạm nhân
quyền trầm trọng. Nghị quyết của Đại hội Đồng LHQ năm 1985, yêu cầu quân
ngoại
nhập (CSVN) phải rút khỏi Miên với 114 phiếu thuận, chỉ có 21 phiếu
chống và 16
nước vắng mặt. Với gần 200 ngàn quân đang bị sa lầy ở Miên, nền hòa bình
và
thịnh vượng mà người dân VN mong đợi như là phần thưởng sau mấy chục năm
chiến
tranh vẫn còn là giấc mơ. Trong tình thế đó, việc Vãn hồi HĐ Paris 1973
trở nên
cấp bách. Gs VQT cảnh báo các cường quốc đừng nên lầm tưởng có thể giải
quyết
riêng biệt vấn đề hòa bình ở Campuchea. Muốn tiến tới một nền hòa bình
thực sự ở
Đông Dương cần phải để những người Quốc gia chia sẻ quyền hành với Đảng
CSVN.
Giải pháp thích hợp nhất là trở lại HĐ Paris 1973: không phải mãi mãi
chia đôi
VN, mà là để hoàn thành sự tái thống nhất trong tinh thần hoà hợp, hòa
giải bằng
thương thuyết giữa hai bên đối nghịch.
Vận
động vãn hồi HĐ Paris 1973:
Ngày
23/5/1987 tại Paris, với sự hỗ trợ tích cực của Ủy ban Pháp Quốc yểm trợ
một
nước VN tự do (Comité Francais de soutien pour un Vietnam libre), Gs VQT
đã tổ
chức một cuộc hội thảo công khai về việc trở lại HĐ Paris 1973. Nhân dịp
này Ủy
ban Luật gia VN đặt lại vấn đề hiệu lực của HĐ Paris 1973 (Comité de
juristes
Vietnamiens pour la remise en vigueur des Accords de Paris de 1973) đã
công bố
chính thức Bạch thư (Libre blanc) với tựa đề Guèrre et Paix en Indochine
(Chiến
tranh và hòa bình ở Đông Dương). Để trở lại HĐ Paris 1973, nhằm giải
quyết các
vấn đề nan giải của các nước ĐD, Bạch thư kêu gọi Pháp đứng ra triệu tập
một hội
nghị Paris mở rộng, bao gồm 5 Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo An LHQ,
bốn nước
nguyên thành viên Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến ĐD năm 1954, hai
phe Quốc
Cộng của ba nước Việt Miên Lào.
Cuộc
hội thảo do Gs VQT chủ tọa cùng với Dân biểu Georges Mesmin, Chủ tịch Ủy
ban
Ngoại giao Hạ Nghị Viên Quốc hội Pháp, đồng thời cũng là Thị trưởng Quận
16
Paris. Và dân biểu Pierre Bas, Chủ tịch Ủy ban Pháp Quốc Yểm trợ một
nước VN Tự
do. Ông này là thành viên của Đảng Rassemblement pour la Republique
(RPR) đang
nắm đa số tại Quốc hội. Ngoài chức vụ dân biểu quốc hội, ông Pierre Bas
còn là
thị trưởng của Quận 6 Paris. Mục đích của
buổi hội thảo là giải quyết
vấn đề VN kèm theo vấn đề Cam Bốt trên cơ sở lý luận, không thể giải
quyết vấn
đề hòa bình Cam Bốt một cách riêng rẽ, vì tình hình Cam Bốt với tình
hình VN và
Lào gắn bó mật thiết với nhau.
Trong
hồi ký, Gs VQT thừa nhận: “Dù không tin tưởng triển vọng HĐ Paris
có thể sống lại,
nhưng ít ra nó cũng đem lại cho mọi người một tia sáng nào đó, khi mọi
người còn
đang ở trong đường hầm. Ít nhất người ta thấy có một giải pháp cụ thể
hơn là
những bản tuyên ngôn thông thường. Chúng ta là người VN tự do, chúng ta
có bổn
phận đòi vãn hồi HĐ Paris 1973, vì chúng ta bị tước đoạt một quyền
thiêng liêng
được minh thị bảo đảm trong hiệp định. Đó là quyền tự quyết của nhân dân
MN. Nếu
chúng ta không yêu sách, thì ai đòi hỏi cho chúng ta? Giải pháp do anh
em luật
gia đưa ra dựa trên những nguyên tắc quốc tế công pháp, trên những bản
hiệp định
vẫn còn giá trị theo công pháp quốc tế. Chúng tôi chỉ còn trông mong vào
sự phù
hộ, tin tưởng ở sự huyền diệu của Đức Mẹ. Nếu đạt được phần nào kết quả
cũng là
nhờ ơn thiên điển mà thôi”.
Lúc
bấy giờ, một số người không muốn TT Thiệu trở lại vai trò tổng thống
VNCH trong
đó có Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy không tán thành việc coi ông Thiệu là đại
diện của
phe quốc gia. Trái lại ông Thiệu lại tha thiết với việc làm sống lại HĐ
Paris.
Còn phần HK, trước buổi hội thảo một ngày, một luật sư HK tên David
Steinman xin
gặp ông Thúc,nói rằng ông là cộng sự viên của ông Moynihan, Thượng Nghĩ
Sĩ Đảng
Dân chủ HK Tiểu bang New York, đại diện không chính thức của Kissinger.
Luật sư
Steinman cho biết HK không muốn ông Thiệu tham dự công khai cuộc hội
thảo, vì nó
có thể gây nên nhiều ngờ vực, thắc mắc với những bình luận không có lợi
cho HK.
Ông đề nghị để ông Thiệu tham dự ở hậu trường, đừng ra mặt. Ông Thúc đề
cập với
David Steinman về “công cuộc đấu tranh của chúng tôi để biến VN thành
một nước
tự do”. Ông ta nói “Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp “civil
disobedience” (bất tuân dân sự). Phải có phong trào bất tuân dân sự trên
toàn
quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài”.
Sau
đó ít lâu, vào khoảng 12/1987 một buổi hội thảo tổ chức ở Paris
và lần này có sự
tham dự của Kissinger. Ông ta giải thích sở dĩ HK không phản ứng sau khi
Hà Nội
vi phạm hiệp định vì HK đang bị lúng túng vì vụ Watergate. Dư luận HK
cho rằng
Mỹ đã rút hết quân rồi, việc BV vi phạm hiệp định Paris xâm chiếm MN, là
việc
nội bộ của VN, HK không thể nào nhân cơ hội này trở lại VN để bị lôi
cuốn một
lần nữa vào “vũng bùn chiến tranh” và Quốc hội Mỹ cũng không chấp nhận.
Như vậy
sự ngăn chận không cho ông Thiệu lên tiếng công khai để đặt lại vấn đề
VN cũng
là điều dễ hiểu. Mặc dù vậy, ông Thiệu cũng vẫn tiếp tục sang Paris
nhiều lần sau đó.
Năm 1993, ông cỏn gởi thư đến Tổng Thư ký LHQ yêu cầu thi hành trở lại
HĐ Paris
1973.
Quả
thật, lúc đó HK đã có nổ lực giúp giải quyết vấn đề hòa bình ở Cam Bốt.
Kết quả
là một hiệp định Paris thứ hai ra đời ngày 23/10/1991 để giải quyết cuộc
chiến ở
Cam Bốt. Hiệp này rập khuôn HĐ Paris 1973 về VN, cũng được một hội nghị
quốc tế
thừa nhận, bao gồm 5 nước Ủy viên Thường trực HĐBA, 6 nước ASEAN và các
nước
khác là Nhật, Úc, Gia Nã Đại, Ấn Độ và Zimbabwean ký trước sự hiện diện
của ông
Boutros Boutros Ghali. Năm 1993 cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do có sự
quan sát
của quốc tế được tổ chức, từ đó Cam Bốt trở thành một quốc gia với thể
chế dân
chủ đa đảng.
HĐ
Paris 1991 được ký kết giữa bốn bên người Khmer: Hun Sen (Khmer Đỏ thân
VN)
Khieu Samphan (Khmer Đỏ thân TC), Son Sann (Khmer Tự do) và thái tử
Ranaridh
Sihanouk (trung lập). Theo đó, việc vãn hồi HĐ Paris 1973 chỉ có thể
thành tựu,
nếu có sự hiện diện của 4 phe VN, họ chịu ngồi lại với nhau là: CSVN,
VNCH,
MTGPMN và Thành phần Thứ Ba. Việc này vô cùng khó khăn và cũng không có
cường
quốc nào có khả năng dàn xếp được, vì thế việc Vãn hồi HĐ Paris 1973
thất bại.
Soạn
thảo Hiến Chương 2000
Sau
khi nhận thấy công cuộc vãn hồi HĐ Paris 1973 không đem lại kết quả,
trong khi
HK chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Hà Nội. Việc này đã xảy ra năm
1995
sau những biến chuyển ở Liên Xô và Đông Âu. TT Bill Clinton tuyên bố “Tôi
tin
rằng việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ
và người
VN sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở VN như đã từng diễn ra ở Đông Âu và
Liên Xô
trước đây”. Sự kiện này khiến Gs VQT nhớ đến nhận định của L/sư
David
Steinman sau cuộc hội thảo về HĐ Paris 1973 ngày 23/5/1987. Ông ta đưa
ra ý
kiến: muốn thay đổi thể chế chính trị ở quốc nội VN cần phải tạo được
một phong
trào bất tuân dân sự. Phong trào đó phải được nhiều người trong chính
quyền yểm
trợ, đặc biệt ở thủ đô, nói cách khác không thể trông cậy vào sự can
thiệp từ
bên ngoài.
Cuộc
cách mạng dân chủ hóa ở nhiều nước cựu CS như Tiệp Khắc, Ba Lan Đông
Đức, Hung
Gia Lợi…đã xảy ra nhờ sự tranh đấu ôn hòa nhưng quyết liệt của nhân dân,
trong
đó phương pháp bất tuân dân sự là lợi khí chủ yếu. Nhân dân không tuân
lịnh nhà
cầm quyền, đòi hỏi nhà cầm quyền phải thay đổi thể chế, rốt cuộc, nhà
cầm quyền
đã phải nhượng bộ trước áp lực của quần chúng. Một cuộc cách mạng nhung
(Velvet
Revolution) ở Tiệp Khắc có thể xảy ra ở VN được không? Gs Thúc trả lời:
Có.Tại
sao? Vì có nhiều khả năng quần chúng càng ngày càng ý thức được quyền tự
do
thiên bẩm của mình, rồi chính những kẻ cầm quyền cũng càng ngày càng có
khả năng
phản tỉnh, bỏ dần đường lối độc tài của họ để đi tới đa nguyên đa đảng.
Theo
Gs Thúc, cần phải làm một cái gì để kích thích lòng ham muốn tự do, đánh
thức
tinh thần tranh đấu của những người trong nước. Bắt đầu với những người
cầm
quyền, nghĩa là những đảng viên CS. Phải làm cho họ ý thức được xu hướng
của thế
giới là dân chủ hóa, là tiến tới thể chế chính trị đa đảng đa nguyên
trong đó
người dân thực sự làm chủ đất nước. Khẩu hiệu chế độ “của dân, do dân,
vì dân”
không phải khẩu hiệu suông nữa. Giáo sư Nguyễn Bá Long ở Canada đưa ra ý
kiến
soạn thảo một hiến chương giống như Hiến chương 77 của các nhà dân chủ
Tiệp Khắc
dưới sự lãnh đạo tinh thần của học giả Vaclav Havel. Gs Thúc tán thành,
tham gia
soạn thảo hiến chương và nhận làm đồng sáng lập viên của Phong trào Hiến
chương
2000. Bản HC 2000 được công bố tại Paris
ngày 25/11/2000. Đây là một tuyên ngôn về
dân chủ tự do dưới hình thức một bản hiến chương, để làm cơ sở cho một
thể chế
chính trị mới, một xã hội dân chủ mới.
Từ
chủ trương trên, Gs VQT cho rằng chỉ còn cách là đấu tranh với Đảng CSVN
để
tranh thủ nhân dân. Sau 30/4/1975, người Việt tự do không còn phương
tiện nào cả
thì làm sao tiếp cận và tranh thủ được nhân dân. Tuy nhiên, chế độ đương
quyền ở
VN đã tồn tại, bằng cách “luồn lách”, “đổi màu như con tắc kè” “lột xác”
như rắn
độc. Sau khi LX giải thể, Hà Nội lập tức thay đổi đường lối chạy theo
Bắc Kinh,
không ngần ngại chấp nhận mọi yêu sách của BK. Như vậy VN đã phải trả
một giá
rất đắt để được BK yểm trợ. Càng ngày họ càng thấy bá quyền của TQ nặng
nề hơn,
dù muốn chống lại cũng không phải dễ dàng gì, trong khi nguyện vọng thay
đổi thể
chế vẫn tồn tại trong nhiều tầng lớp nhân dân. Những tiến bộ kỹ thuật
trong lĩnh
vực truyền thông mang lại cho họ niềm hy vọng mới: chính quyền độc tài
không thể
nắm được bộ máy thông tin cũng như bộ máy giáo dục quần chúng một cách
tuyệt đối
nữa. Bằng mọi cách người dân có thể thu nhận tin tức từ các nơi đưa lại.
Nhờ đó,
sớm muộn gì người dân các nước độc tài cũng sẽ trở lại truyền thống, vẫn
thiết
tha đến tự do, đến tư hữu.
Ngoài
ra, nhân số của đảng cầm quyền ngày càng tăng vì có nhiều đặc quyền đặc
lợi.
Nhưng khi đảng viên đông quá làm sao chia “chiếc bánh chung” cho toàn
thể mọi
người được. Lúc đó giữa các đảng viên sẽ xuất hiện sự phân biệt: có
những phe
được lợi nhiều vì chiếm được những địa vị “béo bở”, còn đại đa số đảng
viên khác
không được như vậy. Hiện tượng “trâu buộc ghét trâu ăn” sẽ xuất hiện
ngay trong
nội tâm chế độ, trong đầu óc các đảng viên. Phe nọ phe kia tranh giành
nhau
quyền lực, nên tìm cách mị dân, dùng những khẩu hiệu như tự do, dân chủ,
bảo vệ
những kẻ “thấp cổ bé miệng” chống lại sự lạm dụng quyền hành, chống lại
sự tham
nhũng. Đó là mầm móng đưa tới sự thay đổi thể chế chính trị. Tệ nạn tham
nhũng
khiến cho đảng CS sẽ phải sụp đổ để nhường cho một chế độ dân chủ
hơn.
Giải
pháp để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn: VN xây dựng chế độ Dân
chủ Tự
do và trung lập
Ngày
10/7 vừa qua, tại Bắc Kinh, Đô đốc Mike Mullen, Tổng TMT (Liên quân)
Quân đội HK
tuyên bố: “Mỹ đã hiện diện lâu dài trong khu vực Á Châu, vì thế HK
cũng có
một trách nhiệm lâu dài. Sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu
vực đã rất
quan trọng với các đồng minh của chúng tôi trong nhiều thập kỷ qua và sẽ
tiếp
tục đóng vai trò như vậy”. Lời xác định sự hiện diện của HK ở Biển
Đông,
khiến người ta nhớ lại nhận định của Gs VQT ngày 24/7/2008 về hai cuộc
vận động
ngoại giao cấp cao của chính quyền Hà Nội về chủ quyền của VN trên các
đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Cuối
tháng 5/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cầm đầu phái đoàn sang Bắc Kinh,
gồm hầu
hết các đảng viên cao cấp đang chủ trì các ban ngành trong bộ máy đảng.
Phó
trưởng đoàn là Phạm Gia Khiêm, Uỷ viên Bộ Chính trị, vừa là Phó thủ
tướng kiêm
nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao. Còn phía Đảng CSTQ, những lãnh tụ cao cấp
như Thủ
tướng Ôn Gia Bảo cũng như Bộ trưởng Ngoại giao công khai vắng mặt. Còn
Chủ tịch
Hồ Cẩm Đào chỉ dự buổi tiếp tân, theo đúng nghi lễ mà thôi. Qua cách xử
sự này,
cho thấy nhà cầm quyền BK phân biệt rõ ràng hai tư cách Đảng CSTQ và
Chính phủ
TQ. Do đó các vấn đề đất đai như Hoàng Sa và Trường Sa phải dành lại cho
chính
phủ hai nước điều đình với nhau.
Để
tránh sự đổ vỡ trong quan hệ giữa hai đảng Cộng sản VN và TQ, bản Thông
cáo
chung đề ngày 1/6/2008 nhắc lại khẩu hiệu 16 chữ đã được hai bên long
trọng chấp
nhận làm cơ sở giao hữu. Một điều đáng để ý là ngay trong phần nhập đề,
bản
Thông cáo chung đã gián tiếp xác định một nguyên tắc rất quan trọng. Đó
là mỗi
bên, TC cũng như CSVN, có quyền tùy theo hoàn cảnh đặc thù của nước mình
chọn
một đường lối riêng để tiến tới đích chung là thực hiện xã hội chủ
nghĩa. Nói rõ
hơn là VN không bó buộc phải theo đúng kiểu mẫu cũng như chính sách đối
nội và
đối ngoại của TQ (miễn là không chống TQ) Nếu theo đúng nguyên tắc này,
quan hệ
giữa VN với TQ, rồi đây, có thể giống như một tiền lệ lịch sử là quan hệ
giữa
Nam Tư cũ (Yougoslavie) với Liên Xô cũ. Không những Nam Tư theo thể chế
tự quản
mà lại còn công khai đứng trong hàng ngũ các quốc gia không liên kết,
nghĩa là
đứng trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh giữa HK và LX.
Cuộc
vận động ngoại giao ở BK đã mang lại cho chính quyền Hà Nội một bài học,
đó là
các nhà lãnh đạo TQ dù theo ý thức hệ CS vẫn đặt quyền lợi cụ thể của
nước họ
lên trên hết.
Chỉ
mấy ngày sau khi phái đoàn Nông Đức Mạnh trở về nước, một phái đoàn
chính phủ VN
do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu đã lên đường đi HK. Cùng đi với
Dũng có
Phạm Gia Khiêm, người đã tham dự cuộc vận động ngoại giao ở BK. Các quan
sát
viên vô tư không khỏi thắc mắc: Tổng thống HK G. W. Bush sắp hết nhiệm
kỳ. Người
kế vị có thể là John McCain hay Barack Obama. Dù sáng kiến cuộc gặp gỡ
Mỹ-Việt
này do phía nào chăng nữa, ta vẫn phải tìm hiểu tại sao người ta không
đợi tới
sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ? Phải có một nguyên nhân nào đó khiến cho
cuộc gặp
gỡ trở nên khẩn trương. Tất nhiên nguyên nhân này liên can đến cả hai
nước HK và
VN.
Về
phần VN, việc nổi bật là vụ TQ coi quần đảo Trường Sa của họ rồi. TQ
cũng không
giấu diếm ý định sát nhập Trường Sa, Hoàng Sa và một quần đảo nữa thành
huyện
Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Rồi một số
cơ quan truyền thông
tiết lộ là TQ đã thiết lập tại đảo Hải Nam
một căn cứ hải quân tối tân có
thể dùng làm cứ điểm cho nhiều tàu ngầm và cả hàng không mẫu hạm. Như
vậy TQ
không che dấu tham vọng khống chế toàn khu vực Biển Đông, là một đường
tiếp tế
có tầm quan trọng chiến lược đối với họ.
Về
phần HK, Bản thông cáo chung được phổ biến sau cuộc gặp gỡ giữa ông G.
W. Bush
và Nguyễn Tấn Dũng rất ngắn ngũi và mơ hồ. Tuy nhiên có một điểm khiến
chúng tôi
chú ý đặc biệt, đó là: HK xác nhận nguyên tắc tôn trọng sự toàn vẹn lãnh
thổ của
VN. Khẳng định lập trường này, rõ ràng là ông G.W.Bush muốn gởi một tín
hiệu cho
TQ: Các ông đừng vội coi quần đảo Trường Sa là đất của các ông trong khi
chủ
quyền quần đảo này còn đang là nội dung tranh chấp giữa các ông với
nhiều nước
trong vùng.
Những
sự việc vừa duyệt lại, đưa chúng tôi tới kết luận: tình hình quân
sự-chính trị ở
Biển Đông đang trở nên nghiêm trọng. Một lần nữa quê hương chúng ta lại
lâm vào
thế kẹt, giữa hai lực lượng quốc tế đối nghịch. Đã đến lúc không thể úp
úp mở mở
được nữa mà phải minh bạch hóa thế đứng của mình. Những người Việt tha
thiết với
tiền đồ của dân tộc, có trách nhiệm làm mọi cách để ngăn ngừa thảm họa
chiến
tranh tái diễn trên quê hương đã quá đau khổ của chúng ta. (Paris,
ngày 24/7/2008 –
VQT)
Giải
pháp mà Gs VQT đề nghị từ ba nước là VN phải dân chủ hóa thể chế chính
trị để
kiện toàn nền độc lập của xứ sở. VN đi theo con đường trung lập để tránh
va chạm
với HK và TQ. Sau đó vận động thành lập một khu vực trung lập với các
nước láng
giềng ở phương Nam TQ. Nhờ đó VN dễ dàng hòa nhập với các nước chung
quanh Biển
Đông để cùng nhau thương lương với TQ về chủ quyền các quần đảo trong
khu vực.
Muốn được HK giúp đỡ, VN phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Và xây
dựng thể
chế dân chủ tự do, đó là mục tiêu mà HK đã can thiệp vào VN và được tái
xác nhận
năm 1995 khi HK bình thường hóa bang giao với VN.
Góp ý
của người đọc, tác giả bài viết này:
Qua
nhận định trên của Gs VQT, cho thấy từ giữa năm 2008, thái độ của giới
lãnh đạo
Đảng CSTQ đối với CSVN bắt đầu lạnh nhạt, khác xa cuộc họp thượng đỉnh
Thành Đô
năm 1990. Trong 18 năm sau đó “VN đã phải trả một giá rất đắt để được
BK yểm
trợ Đảng CSVN”. Những gì mà Đảng CSVN đã nhượng bộ và thỏa thuận với
TQ, đặc
biệt là Biển Đông, từ nay nếu có sự tranh chấp, sẽ được giải quyết giữa
hai
chính phủ theo công pháp quốc tế.
Chính
phủ có thể làm được việc này, nhưng Đảng CSVN đành bó tay, vì đã có sự
đồng
thuận ở cấp cao nhất giữa TT Phạm Văn Đồng và TT Chu Ân Lai năm 1958
cũng như
giữa Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười năm 1990. Điều
khó khăn
là Đảng CS đang lãnh đạo toàn diện đất nước.
Trong
Đại hội XI Đảng CSVN vừa qua, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Ủy viên Bộ
Chính trị
Phạm Gia Khiêm đã bị loại, trong khi TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn còn tại vị.
Nguyễn
Phú Trọng, một người thân TQ được bầu làm Tổng Bí thư Đảng, chỉ là một
bóng mờ
trước TT Nguyễn Tấn Dũng mà quyền thế ngày càng gia tăng. Rồi đây, ông
Trương
Tấn Sang đảm nhận vai trò Chủ tịch nước, Hiến pháp có thể được tu chính
để Chủ
tịch nước đảm nhận vai trò lãnh đạo tối cao của nước VN, chớ không phải
Tổng Bí
thư Đảng CSVN. Chủ tịch nước và thủ tướng đều là dân biểu được nhân dân
bầu chọn
và được Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất tấn phong, sẽ thay mặt
nhân dân
thương thảo với chính phủ TQ mới có cơ may thu hồi cương thổ. Chớ Đảng
CS không
làm gì được.
Sự
khẳng định của HK duy trì sự hiện diện lâu dài ở châu Á, cho thấy đã đến
thời
điểm “VN không thể úp úp mở mở được nữa”. Xin nhắc lại, trong diễn văn
trước
phiên họp cuối cùng của Đại hội Đặc biệt toàn Đảng CS Liên Xô hồi cuối
tháng
6/1988, Tổng Bí thư Gorbachev cho rằng hệ thống Xô Viết sẽ sụp đổ nếu họ
không
kịp thời nhận thức bài học của lịch sử và nhìn nhận những sai lầm trầm
trọng mà
các lãnh tụ đảng đã theo đuổi trong mấy chục năm qua. Ông nhấn mạnh “sự
sống
còn của chủ nghia xã hội đang nằm trong tay của đảng. Nó sẽ chết nếu
chúng ta
không trao quyền cho nhân dân”.
Tình
thế VN đã chín muồi. Đảng CSVN dính liền với Công hàm năm 1958 của TT
Phạm Văn
Đồng và 16 chữ vàng từ 1990 đến nay. Nếu Quốc hội không sớm giải quyết,
thì đến
lượt nhân dân phải hành động qua các đòi hỏi ôn hòa để bảo vệ giang sơn
của tiền
nhân để lại. Tính đến nay đã có ba kiến nghị của những trí thức nổi
tiếng trong
nước lên tiếng đòi Bộ Chính trị Đảng CSVN phải có hành động. Đại đa số
đảng viên
CS không có những địa vị “béo bỡ”, sẽ cân phân giữa quyền lợi cá nhân và
quyền
lợi đất nước, họ sẽ đồng tình với toàn dân để cứu nước, vừa để bảo vệ sự
an toàn
cho cá nhân và gia định họ.
Lòng
yêu nước của nhân dân và sự thức tỉnh của những người CS trong bộ máy
chuyên
chính sẽ tạo ra cuộc Cách mạng Nhung, chuyển đổi thể chế độc tài chuyên
chính
sang một nền Dân chủ đích thực tại đất nước ta, trong đó các nhân quyền
và quyền
tự do căn bản phải được tôn trọng, vừa đoàn kết toàn dân bảo vệ đất nước
Hơn
ba thập niên trước, bức linh tượng của Đức Mẹ ở Fatima Bình Triệu, tỏa
hào quang
khi Gs VQT thành tâm nguyện xin được thoát khỏi VN và sẽ cống hiến phần
cuối
cuộc đời cho đất nước. Từ đó ông đã cố gắng thực hiện ước nguyện của
mình qua
những việc làm như tôi đã trình bày, được ghi trong hai cuốn Hồi ký Thời
Đại Của
Tôi. Những dòng cuối cùng trong hồi ký, tác giả nói lên hoài bão của
mình:
“Những người Việt tha thiết với tiền đồ của dân tộc, có trách nhiệm
làm mọi
cách để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn trên quê hương đã quá
đau khổ
của chúng ta”.
Cách
đây hơn hai tháng, một phép lạ lại xảy ra với Gs VQT, được ông thuật lại
cho
Giáo sư Lê Đình Thông, Luật sư Lê Trọng Quát và phu nhân là Giáo sư Trần
Thị
Minh Châu: “Tôi còn nhớ hôm đó là ngày 26/4/2011, vào khoảng 2 giờ
sáng. Tôi
đang ngủ say chợt thấy ngọn bạch lạp bập bùng. Tôi tưởng như mình đã
chết, cháu
con thắp ngọn nến từ biệt. Tôi có cảm giác rờn rợn, bừng tỉnh dậy thấy
trên bàn
giấy có lửa cháy bùng. Tôi lấy tay chụp tắt lửa rồi ngủ tiếp. Lạ lùng
thay vì
buổi sáng thức dậy, tôi thấy các que diêm trong hộp cháy đen nửa đầu
không có
diêm sinh. Trên mặt bàn còn vết cháy đen. Cả căn nhà chỉ có tôi và nhà
tôi. Nhà
tôi ngủ phòng riêng, không thể tự đi lại giữa đêm khuya. Vậy thì ai đốt
cháy hộp
diêm?”
Giáo
sư Thúc đưa cho mọi người xem hộp diêm kỳ lạ. Trời đêm Paris
cuối tháng tư còn
nhiều sương lạnh. Nếu có hỏa hoạn, ông bà không bị chết cháy thì cũng bị
chết
ngạt. Sau phép lạ hộp diêm, phu nhân ông bị bệnh hiểm nghèo được bình
phục, con
gái ông -tiến sĩ Vũ Mộng Lan cũng được cứu chữa hết bệnh. Như vậy là ba
phép lạ
mắt thấy tai nghe, xảy ra cùng một nơi một lúc.
Qua
sự việc trên, tôi có ý nghĩ là tấm lòng thành và hoài bão thiết tha của
Gs VQT
đã được Đức Mẹ chứng giám. Giáo sư chợt tỉnh để dập tắt ngọn lửa trong
nhà để
cứu gia đình. Nói rộng ra, trong tình thế đất nước hiện nay, giải pháp
của Giáo
sư là để dập tắt ngọn lửa chiến tranh bạo tàn để cứu dân, cứu nước.
Lê Quế Lâm
(16/7/2011)
__._,_.___
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California
Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California
3rd Brigade Combat Team Change of Command
Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai
"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý
Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.
Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần
Tôi yêu Tổ quốc tôi
Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa
Lich Su To Quoc Viet Nam
Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du
Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".
14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN
DapLoisongNui.MP4
Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước
Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT
Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa
Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5
Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA
26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11
Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8
Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07
Toi Ac Cong San 2
Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11
bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6
19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi
Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi
6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN
Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011
Xuong duong cung canh hoa Lai
Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011
Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11
Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong
Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011
Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011
LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA
chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc
Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần
Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?
- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều
------------
http://www.bacaytruc.com
Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)
LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM
6/5/11
LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM
Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào
ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân:
- Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang
hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày.
- Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai.
- Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là
thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?!
- Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN.
2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu.
3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào.
4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi !
5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?!
Trân trọng,
===================================
No comments:
Post a Comment