video cuối trang
tka23 post
.
Bộ tư lệnh lực lượng đặc nhiệm hỗn hợp trong một thiên tai hoặc các cuộc hành quân hỗn hợp,
Bộ tư lệnh hành quân của tất cả các lực lượng hải quân trong vùng, và
Bảo vệ Bán đảo Triều Tiên.
Lịch sử
Vùng trách nhiệm của Đệ thất Hạm đội (7F) năm 2007
Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ được hình thành vào ngày 15 tháng 3 năm 1943 tại Brisbane, Úc trong Đệ nhị Thế chiến. Nó phục vụ trong Vùng Tây Nam Thái Bình Dương (South West Pacific Area, viết tắt là SWPA) dưới quyền của Tướng
Douglas MacArthur, và Tư lệnh của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ cũng phục vụ như tư lệnh của các lực lượng hải quân Đồng Minh tại SWPA.
Đa số các chiến hạm của Hải quân Hoàng gia Úc cũng là một phần của hạm đội trong suốt thời gian 1943–1945. Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ thành hình một phần lớn lực lượng Đồng Minh tại Trận vịnh Leyte trong tháng 10 năm 1944. Trận đó được xem là trận chiến hải quân lớn nhất trong lịch sử. Sau khi kết thúc chiến tranh, Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ dời về Nhật Bản.
Hạm đội cũng tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam, và sau đó hoạt động gần Bắc Việt. Tiếp theo sau đó, hành động tác chiến chính kế tiếp là trong Chiến tranh Vịnh Ba Tư nơi mà nó được đặt dưới quyền tư lệnh của Tổng Lực lượng Hải quân, Bộ Tư lệnh miền Trung (Naval Forces, U.S. Central Command). Sau khi chiến tranh kết thúc, nó được trở về Hạm đội Thái Bình Dương.
Tiếp theo sau sự kết thúc Chiến tranh Lạnh, hai kịch bản quân sự chính mà Đệ thất Hạm đội sẽ được sử dụng đó là trong trường hợp xảy ra xung đột tại Triều Tiên hoặc một cuộc xung đột giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) tại Eo biển Đài Loan.
Hoạt động
Trong số 50–60 chiến hạm tiêu biểu ủy nhiệm cho Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ, 18 chiếc hoạt động từ các căn cứ tiền phương của Hoa Kỳ tại Nhật Bản và Guam. Các đơn vị tiền phương này đại diện trung tâm của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. 18 chiến hạm tiền phương thường trực của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ là các phần tử chính yếu của sự hiện diện của Mỹ tại Á châu.
Các chiếm hạm này gần các vị trí ở Á châu hơn các đồng nhiệm của mình có căn cứ ở địa lục Hoa Kỳ đến 17 ngày chạy tàu. Hoa Kỳ phải dùng từ 3 đến 5 lần số chiến hạm thay phiên từ Hoa Kỳ để cân bằng sự hiện diện tương tự và khả năng phản khủng hoảng mà 18 chiến hạm tiền phương có thể làm được.
Trong bất cứ một ngày nào, có khoảng 50% lực lượng của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ được di chuyển trên khắp vùng biển trách nhiệm. Soái hạm của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ là USS Blue Ridge (LCC-19) được đến Yokosuka, Nhật Bản. Năm 2004, Blue Ridge được đưa vào sửa chửa và trách nhiệm chỉ huy được tạm thời chuyển sang
USS Coronado (AGF-11). Blue Ridge trở lại nhiệm vụ vào ngày 27 tháng 9 năm 2004.
Tổ chức hạm đội
USS Kitty Hawk (CV-63), trung tâm của Lực lượng Đặc nhiệm 70 của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ
Với mục đích điều hành và hoạt động, Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ, như các hạm đội mang số khác, được tổ chức thành các lực lượng đặc nhiệm chuyên môn.
Lực lượng Đặc nhiệm 70 — là Lực lượng Chiến đấu của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ, thực sự có hai thành phần riêng biệt.
Một là Lực lượng tham chiến nổi gồm có các tuần dương hạm và khu trục hạm và
Hai là Lực lượng công kích hàng không mẫu hạm bao gồm ít nhất một hàng không mẫu hạm và không đoàn trên mẫu hạm. Lực lượng Chiến đấu hiện tại tập trung quanh hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk (CV-63) và Không đoàn 5 mẫu hạm (CVW-5).
Lực lượng Đặc nhiệm 71 — bao gồm tất cả các đơn vị Chiến tranh đặc biệt Hải quân (Naval Special Warfare hay NSW) và các Đơn vị Lưu động Tháo gở Chất nổ (Explosive Ordnance Disposal Mobile Units hay EODMU) được ủy nhiệm cho Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Lực lượng này có căn cứ tại Guam.
Lực lượng Đặc nhiệm 72 — là Lực lượng Tuần tra và Trinh thám của Đệ thất Hạm đội. Chính yếu gồm có các máy bay chống tàu ngầm và các máy bay quan sát trên không phận biển như máy bay trinh sát P-3 Orion và EP-3 hoạt động từ các căn cứ đất liền.
Lực lượng Đặc nhiệm 73 — là Lực lượng Tiếp vận của Đệ thất Hạm đội gồm các tàu tiếp vận và các tàu hổ trợ hạm đội khác.
Lực lượng Đặc nhiệm 74 — là Lực lượng Tàu ngầm có trách nhiệm hoạch định và điều hợp các hoạt động tàu ngầm trong khu vực hoạt động của Đệ thất Hạm đội.
Lực lượng Đặc nhiệm 75 — là Lực lượng Chiến đấu nổi, có trách nhiệm với các tuần dương hạm và khu trục hạm không làm nhiệm vụ bảo vệ các hàng không mẫu hạm.
Lực lượng Đặc nhiệm 76 — là Lực lượng Đặc nhiệm Tấn công từ biển và trên cạn, có trách nhiệm hổ trợ các cuộc hành quân đổ bộ của Thủy quân lục chiến. Bao gồm các đơn vị có khả năng đưa quân tấn công từ tàu vào bờ.
Lực lượng Đặc nhiệm 77 — là Lực lượng Chiến tranh Mìn bẫy của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ.
Lực lượng Đặc nhiệm 79 — là đơn vị Thủy quân lục chiến viễn chinh hay Lực lượng đổ bộ của Hạm đội, bao gồm ít nhất một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến tăng viện và các trang bị cho nó.
Các tàu tiền phương của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ
Yokosuka, Nhật Bản
USS Kitty Hawk (CV-63)
USS City of Corpus Christi (SSN-705), một tiềm thủy đỉnh nguyên tử của Đệ thất Hạm đội
USS Blue Ridge (LCC-19)
USS Cowpens (CG-63)
USS Curtis Wilbur (DDG-54)
USS John S. McCain (DDG-56)
USS Fitzgerald (DDG-62)
USS Stethem (DDG-63)
USS Lassen (DDG-82)
USS Mustin (DDG-89)
USS Shiloh (CG-67)
USS Gary (FFG-51)
Sasebo, Nhật Bản
USS Essex (LHD-2)
USS Juneau (LPD-10)
USS Harpers Ferry (LSD-49)
USS Tortuga (LSD-46)
USS Guardian (MCM-5)
USS Patriot (MCM-7)
USS Safeguard (ARS-50)
Apra Harbor, Guam
USS Frank Cable (AS-40)
USS City of Corpus Christi (SSN-705)
USS Houston (SSN-713)
No comments:
Post a Comment