VƯỢT NGỤC VÀ BIỆT GIAM
Để tưởng nhớ Anh Lê Thơm, một vị Huynh Trưởng, cũng là một chiến hữu, một người bạn đã vĩnh viễn ra đi lúc đang bị biệt giam trong ngục tù của lũ quỷ đỏ cướp nước.
Nguyễn Chí Mẫn
Tùy từng vùng, từng khu, từng nơi họ bị giam giữa, những người tù “ không bản án” sang ngày bị mất nước đều dùng các cụm từ đặc biệt mỗi khi đề cập đến lũ quỷ đỏ cai tù, kẻ thù của họ có nhiều người gọi những Người tù này là “tù cải tạo”, nhưng hầu hết họ đều tự gọi họ là tù “không bản án” vì họ đâu có bị kẻ thù cướp nước mang ra xét xử, kêu án gì đâu mà vẫn phải bị giam giữ, lưu đày dài dài, không biết được ngày mãn án trong ngục tù, trong biệt giam.
Từ lúc bị đưa ra tận ngoài “miền Bác Xã Hội Chủ Nghĩa”, vùng rừng núi trùng điệp Hoàng Liên Sơn, anh em chúng tôi, những Người tù “không bản án” trong Liên trại 4 (chung quanh Hồ nước Thác Bà) gọi các tên bộ đội cai tù là lũ “bò xanh” vì quân phục của chúng màu xanh lá cây.
Sau khi bị chuyển về đến trại giam huyện Thanh Chương, Nghệ tĩnh để bọn công an “quản lý”, chúng tôi gọi bọn này là lũ “bò vàng” vì chúng mặc sắc phục vàng khè.
Ở ngoài Hoàng Liên Sơn, chúng tôi bị giam trong các “láng trại” bằng cây rừng, nứa, giang, dầu, còn ở trại Thanh Chương này, các nhà đều được xây bằng đá xanh, xi măng, mái lợp bằng tôle, chung quanh toàn khi trại giam được bao bọc bởi một bức tường cao vời vợi, cũng được xây bằng đá xanh; và chót vót còn có một lớp kẽm gai. Đứng ở ngoài , nhìn bao quát trại giam này thì nó giống như một lâu đài thật kiên cố, màu xám xịt ở mmột nước nào đó bên trời Âu, vào thời Trung cổ.
Trong trại này có mười dãy nhá đá dành cho hai thành phần tù nhân “cư trú”: thành phần tù chính trị (là chúng tôi) còn được gọi là Tù Z; và thành phần tù hình sự (là những kẻ đã phạm tôi sát nhân, đâm cha chém chú, hiếp dâm, trộm cắp). Mỗi dãy nhà đá đều được ngăn cách nhau bởi các bức tường cũng được xây bằng đá xanh với xi măng, cao khoãng ba thước. Nhà đá chỉ có một cửa ra vào bằng sắt, được mở vào buổi sáng và đóng khóa lại lúc chiều sau khi điểm danh và kiềm soát nhân số của từng đội lao động “cư trú” trong nhà . Ở trong mỗi nhà có chổ dành riêng cho việc tiểu và đại tiện, chổ này được gọi là “phòng vệ sinh”, có một cửa thông hơi được chắn ngang bởi ba thanh sắt tròn (“phòng vệ sinh” còn được gọi là “buồng”)
Buổi sáng, trước khi mở cửa nhà đá cho chúng tôi ra ngoài rửa mặt đánh răng, tên cán bộ bò vàng trực trại vào trong nhà, đi một vòng, lẩm nhẩm đến số người hiện diện tại đây xem thiếu đủ thế nào, so sánh với nhân số ghi trong sổ tay của hắn.
Buổi chiều, trước khi vào nhà đá (mà chúng tôi thường gọi đùa là “vô chuồng”), chúng tôi phải xếp hàng dọc ở phía ngoài sân, từng người bước vô cửa, vừa đi vừa đếm số thứ tự của mình, theo vị trí đã đứng trong hàng, trong khi tên bò vàng trực trại “ trụ trì” ngay ngưỡng cửa, theo dõi và kiểm soát. Sở dĩ những chi tiết trên đây được đề cập tỉ mỉ vì chúng rất cần thiết liên quan đến cuộc vượt ngục sau này.
Ngoài mười dãy nhà đá, trại giam Thanh Chương còn có hai căn nhà đá khác được xây cất đặc biệt, rất đặc biệt, được gọi là “khu biệt giam”.
Năm 1981, có hai Vị Linh Mục Tuyên Úy Công Giáo bị tống vào khu biệt giam ngay từ lúc hai Ông vừa bị chuyển về trại Thanh Chương này. Có thể lũ bò vàng nhận được lệnh trên của Thưọng cấp phải “cách ly” hai Vị này trước khi họ đến đây. Kẻ thù nơm nớp lo sợ họ rỉ tai, xách động chúng tôi để bạo động chống phá chúng chăng? Do đó, chúng nhốt hai Ông vào khu biệt giam cho…chắc ăn!
Bình thường, những người bị tống giam vào khu nhà đá đặc biệt này (chúng tôi hay tù hình sự) đều là những người đã “vi phạm nội quy của trại”, tù mức độ nặng nhẹ mà bị lũ bò vàng “kêu án”. Những điều nghiêm cấm trong bản nội quy đã do chúng “vẽ rồng vẽ rắn” hồi thời cố lũy nào đó, rồi tùy hứng đem ra áp dụng để trừng phạt tù nhân, tống họ vào khu biệt giam trong một thời gian tùy theo “bản án”.
Còn trường hợp của hai Vị Linh Mục này thì khác: vừa bị chuyển đến đây, họ liền tức khắc bị đẩy vào biệt giam. Chúng tôi ai nất đều hiểu rằng hai ông này sẽ “cư trú” trong đó vô thời hạn; và đều nghĩ rằng nếu để họ phải sống bị cô lập, bị ”cách ly” mãi với anh em chúng tôi thì chắc chắn hai Ông đều sẽ không “thọ” lâu, sẽ được chúa gọi về với Ngài rất sớm. Chúng tôi thường gọi tình trạng của hai vị Linh Mục này là “ở tù trong tù”.
Vì không thể cứ nhắm mắt làm ngơ, cứ để hai Ông lủi thủi mãi trong khu biệt giam như vậy, nên có một số anh em chúng tôi âm thầm tìm cách liên lạc, đua tin và thỉnh thoảng, tùy khả năng của mỗi người khi được “thăm nuôi” hay khi nhận quà cáp từ gia đình gởi bằng bưu điện, tìm cách gói cột thật kỹ chút ít “tặng phẩm” rồi ném liệng vào cho hai Ông để gọi là ”cùng nhau chia xẻ”.
Công việc đưa tin “yểm trợ”, nhóm nào “phụ trách” thì chỉ có nội bộ nhóm ấy biết rõ mà thôi, vì “nếu bị xì ra, nếu bị bể”, để cho bọn chó săn ăng-ten đánh hơi được, rồi báo lên lũ bò vàng, chắc chắn cả nhóm ấy sẽ cùng nhau vào nhà đá biệt giam, đút chân vào cùm sắt, nằm “nghỉ xả hơi” một thời gian nào đó mà kẻ thù tùy nghi, tùy hứng bắt buộc phải “thi hành bản án” do chúng đưa ra.
Tôi là thành viên của một trong các nhóm kể trên. Nhóm tôi gồm có ba đứa. Các ngày nghỉ khỏi phải đi cày cuốc, lao động (thường là vào ngày chủ nhật), nếu thời tiết tương đối tốt, thuận tiện cho việc quan sát lũ bò vàng tuần tra kiểm soát trại, đề phòng bị chúng chộp ót quả tang lúc đang liên lạc với hai Ông Linh Mục, chúng tôi mới “ra tay” và phân nhiệm như sau: Một đứa trực tiếp “đưa tin”, hai đứa còn lại đứng canh chừng, làm “lính gác giặc”, báo động ngay khi thấy có tên bò vàng nào xuất hiện từ xa để cả nhóm kịp thời tản mác, rút lui và “lặn thật sâu” biệt tăm biệt tích, rời khỏi khu cấm địa càng nhanh càng tốt.
Tôi giữ nhiệm vụ canh chừng, quan sát, báo độngvà đứng lẫn quẫn ở một góc, trong khi anh chàng “đưa tin” lượm một cục sỏi nhỏ, liệng qua bức tường đá, rồi rơi trên nóc tôle của can nhà biệt giam, gây nên một tiếng động nho nhỏ. Chừng nửa phút sau, khuôn mặt một ông Linh Mục nhô lên khỏi bức tường. Vì bức tường đá này cao trên hai thước, tôi nghĩ rằng ông linh Mục ấy phải đứng trên vai của bạn mình mới có đủ chiều cao để ló đầu lên cho chúng tôi thấy. Thời gian trao đổi tin tức không lâu quá một phút. Tuy ngắn ngủi nhưng chính trong khoãng thời gian này, hai tên “lính gác giặc” gồm tôi và một đứa bạn phải hết sức thận trọng, đề cao cảnh giác, dồn hết sự chú tâm trong nhiệm vụ quan sát và báo động. Sau đó, cả ba đứa phân tán mỗi đứa một nơi. Chúng tôi luôn luôn bảo với nhau rằng: “Phải đánh nhanh và rút gọn”. câu này chúng tôi đã học được trong các bài chiến thuật trong quân trường và cũng đã từng áp dụng trong thực tế ở ngoài chiến trường, lúc chưa bị mất nước.
Nếu sinh hoạt trong trại giam không có gì “đặc biệt” trong suốt cả tuần lễ, chúng tôi không cần phải mạo hiểm “đưa tin” cho hai vị Linh Mục.
Thỉnh thoảng, nếu được “cải thiện” đọt lá khoai lang hay rau cải luộc, chúng tôi cũng tìm cách gói, cột thật kỹ một ít, rồi liệng qua bức tường đá vào cho hai ông vì ở trong đó, có khi nào hai Ông được “cải thiện, cải ác” gì đâu. (cụm từ “cải thiện”, chúng tôi được biết từ khi vào tù, cụm từ này kẻ thù dùng để nói “cho thêm”. Có khi chúng xài chữ “bồi dưỡng”. Xin được nói cho rõ là cá nhân tôi rất “dị ứng” với ngôn từ, cụm từ của lũ cướp nước. Chỉ trong những trường hợp bất đắc dĩ,bất khả kháng, tôi mới “nhắc” lại chúng mà thôi.
Thời gian sau đó, khi lũ bò vàng cho chúng tôi nhận bưu phẩm, quà cáp của gia đình thì hoàn cảnh chúng tôi tương đối “dễ thở” hơn trong vấn đề nhu cầu dinh dưỡng. Một sự việc đáng mừng cho hai vị linh Mục vì hai Ông nhận được bưu phẩm còn nhiều hơn anh em chúng tôi, nhờ thân nhân và con chiên “yểm trợ”. Có vài lần “đưa tin”, hai ông còn quăng ra cho chúng tôi một số nhu yếu phẩm như đường cát và sữa bột trong các gói quà mà hai Ông đã nhận. Mặc dù chúng tôi có cho hai ông biết rằng chúng tôi cũng liên lạc được với gia đình rồi. Thằng bạn tôi, người có nhiệm vụ thường xuyên liên lạc đưa tin trực tiếp trong những lần “tiếp cận” ấy, thuật lại cho hai đứa chúng tôi (chuyên môn làm “lính gác giặc”) các lời nói của vị Linh Mục như sau:
- Nhờ các anh đem vài món này về chia cho những anh em kém may mắn, chưa nhận được tin tức của gia đình. Chúng ta hãy cố gắng chia xẻ những gì chúng ta có để cùng sống, cùng vượt qua thời gian khốn khổ, đọa đày này. Xin Ơn Trên ban phước lành cho tất cả anh em !
Chúng tôi thường dùng cụm từ “mồ côi” khi đề cập đến các người bạn mình, vì những lý do nào đó mà chỉ có họ mới hiểu mới biết tại sao họ không có tin tức, không thể liên lạc được với gia đình, với người thân của họ ( kể sao cho hết, nói sao cho vừa, đếm sao cho xiết số gia đình của những thành viên trong chính quyền miền Nam đã phải ly tán sau ngày đất nước bị lũ quỷ đỏ xâm lấn cướp mất, Thảm trạng này, nỗi uất hận, nổi nghẹn ngào này, nổi khốn khổ này, ngàn đời sau chắn chắn khó ai quên được. Nếu có ai đó, có thành phần nào đó xu hướng, hô hào cái chiêu bài hãy quên đi quá khứ mà hướng về tương lai, chung sống với lũ quỷ đỏ thì kẻ đó, thành phần đó không còn là con người nữa. Là người, phải có nhân cách, lương tri và liêm sĩ).
Chúng tôi luôn luôn tôn trọng và thông cảm những người bạn đồng cảnh bị “mồ côi”; không bao giờ dám đề cập đến chuyện gia đình riêng tư của họ trong các lần chuyện trò, tiếp xúc. Chỉ khi nào họ “xì ra” thì lúc đó, chúng tôi mới hiểu, mới biết được hoàn cảnh tế nhị của họ mà thôi.
Buổi sáng hôm ấy, như thường lệ chúng tôi đang chuẩn bị chờ tiếng kẻng báo giờ xuất trại để đi lao động, bổng được lệnh “bày hàng” (trưng bày tất cả những gì mình có) để bọn bò vàng khám xét, “kiểm tra tư trang”
Ai nấy đều xôn xao, bàn tán:” có chuyện gì nữa đây?” theo kinh nghiệm qua năm tháng tù đày, chúng tôi thừa hiểu mỗi lần phải “bày hàng” là mỗi lần phải có một sự việc không bình thường xảy ra sau đó như: “biên chế nhân số”, chuyển trại hay tiếp đón một số anh em từ nơi khác dến, Sau lần “bày hàng” này, tất cả chúng tôi sắp xếp đồ đạc cá nhân gọn gàng trong túi đeo lưng, xách tay rồi tập họp trong “hội trường”, một căn nhà thật rộng lớn, không có vách, cột kèo bằng cây và nóc được lợp bằng lá “cây cọ”, một loại lá cây đặc biệt dùng để lợp nhà (lá “cây cọ” rất bền bỉ trong việc chịu đựng nắng mưa. Lá này, tôi đã thấy từ lúc mới bị đày ra ngoài cùng Hoàng Liên Sơn).
Lúc bấy giờ, trong trại chỉ còn lại chúng tôi, còn tất cả tù hình sự đã xuất trại ra “hiện trường lao động”.
Sau khi điểm danh tổng quát, khoảng một phần tư trong tổng số anh em chúng tôi được gọi tên và đứng lên xếp hàng ở một khu riêng biệt trong hội trường, trong số này không có tôi. Nhưng cả hai thằng bạn cùng nhóm liên lạc đưa tin với hai ông Linh Mục lại có tên trong số người đang đứng trong khu riêng biệt ấy. Tôi thầm nghĩ rằng: “hôm nay có chuyển trại”.
Rồi lũ bò vàng ra lệnh cho số anh em này di chuyển ra khỏi hội trường với đội hình hàng dọc, trực chỉ hướng cổng ra vào trại giam. Tôi ngồi nhìn theo họ, nhìn đến lúc người cuối cùng bước ra khỏi cổng. Có thể đây là lần cuối tôi thấy họ. Vì theo kinh nghiệm tù đày, hiếm khi bạn bè còn tái ngộ sau mỗi lần chuyển trại.
Kiếp tù đày, mỗi lần chia tay là mỗi tiếng thở dài, nếu có thời gian có cơ hội thì cũng chỉ thốt lên được với nhau, kẻ ở người đi, đôi lời như: “chúc may mắn, hãy giữ gìn sức khỏe”.
Hiếm có ai dám hẹn ngày tái ngộ, vì là người tù không có bản án, không biết ngày về thì nếu có gặp lại nhau lần nữa thì cũng ở trong tại giam mà thôi!
Tôi ước tính số anh em vừa chuyển trại lần này không dưới sáu mươi người, có thể họ sẽ đến trại giam nào khác bằng xe cam nhông molotova; vì chung quang vùng này, trại Đô Lương và trại Thanh Chương cách xa khoảng cách ít nhất cũng khoảng ba mươi cây số. do đó, họ không thể đi bộ được bởi thời gian di chuyển, vấn đề an ninh canh giữ (vì lũ bò vàng luôn luôn bị ám ảnh, nơm nớp lo sợ họ luôn trốn dọc đường…)
Sau khi nhóm anh em chuyển trại đi rồi, những người còn ở lại, bị “biên chế”, phân chia nhân số lại thành các “đội mới”.
Anh chàng “đội trưởng mới” của tôi bây giờ tên Phạm Đình L. xau61t thân khóa 19 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, cấp bậc cuối cùng trước ngày mất nước là “Bò Tứ” tức Thiếu Tá.
Anh đã phục vụ ở “đơn vị 101” , một cơ quan phụ trách ngành Quân báo trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Trước ngày mất nước, tôi chưa từng nghe biết đơn vị này, có thể vì tôi chỉ là một người lính tác chiến, không rành nhiều về “tên tuổi” các đơn vị thuộc loại “mật”.
Đội của chúng tôi, do Phạm Đình L. làm đội trưởng, cũng “phục vụ” tại “lô” trồng mía. Sau khi “biên chế”, ổn định chổ ngủ nghỉ, tôi có ý định mon men đến khu biệt giam để thông tin cho hai Vị Linh Mục biết về việc chuyển trại vào buổi sáng vừa qua . Tôi vẫn hiểu rằng liên lạc với hai Ông ấy bây giờ rất nguy hiểm vì trong nhóm đưa tin, chỉ còn lại mình tôi.
Theo nguyên tắc chiến thuật, khi tấn công, phải có lực lượng bảo vệ hai bên hông, còn được gọi là “cạnh sườn”; và cũng cần có lực lượng trừ bị ở phía sau để xoay sở khi hữu sự. Lực lượng này rất cần thiết trong việc “phản công” lúc đơn vị bị địch quân “bọc hậu” tấn công. Tôi biết rõ nguyên tắc ấy vì đã từng áp dụng ngòai chiến trường nhưng lần này, vì nóng lòng muốn đưa tin cho hai Ông nên tôi đã phạm sai lầm, không chịu giữ cái nguyên tắc ấy, và hậu quả là tôi đã phải trả một giá rất đắc cho sự sai lầm đó, quyết định “đơn thân độc mã” lò dò đến khu biệt giam.
Nhìn trước ngó sau, không thấy tên bò vàng nào lẫn quẫn chung quang, tôi bèn lượm một hòn sỏi nhỏ cở đầu ngón tay út và cũng như anh bạn tôi đã hành động, tôi ném hòn sỏi đó bay qua bức tường đá rồi rơi trên nóc tôle của nhà đá bên trong khu biệt giam, tôi nghe một tiếng động nhỏ; nín thở, hồi họp đứng chờ, mắt mở thao láo nhìn vào chổ mà tôi đã thấy cái đầu và mặt của vị Linh Mục xuất hiện mỗi lần anh bạn tôi đua tin lúc trước trong khi tôi làm “lính gác giặc” quan sát, canh chừng , giữ an ninh phía sau lưng anh ta. Bây giờ, một mình đứng chờ đưa tin tôi cảm thấy hình như thời gian dài vô tận…rồi thình lình, mặt của vị Linh Mục nhô lên từ phía bên kia bức tường đá, mừng quýnh tôi lên tiếng:
-Thưa Cha, hồi sáng này có khoãng 60,70 người trong trại mình chuyển trại, không biết họ đi đâu…tôi còn muốn nói tiếp, bỗng nhiên mặt của vị Linh Mục thụp xuống bên kia bức tường đá nhanh như chớp, rồi tôi nghe một giọng hét vang lên sau lưng tôi:
-Anh kia đang làm gì thế?
Tôi vội quay người lại, cảm thấy choáng váng, hình như cơ thể tôi bị một luồng khí lạnh nắc xâm nhập. Trước mắt tôi là một tên bò vàng mang súng dài (loại AK của Cộng sản), tuổi ngoài 20, mặt mày sát khí đằng đằng. hắn gằn giọng một lần nữa:
-Anh vừa nói chuyện với tên nào trong khu biệt giam?
-Báo cáo cán bộ, tôi đâu có nói chuyện với ai
Với giọng nặng trịt “mùi rau má” (loại rau mọc quanh năm “tứ mùa” hoang dại như cỏ chung quanh vùng này), tên bò vàng súng dài này gầm gừ, hỏi tôi một lần nữa:
-Anh vừa nói chuyện với tên nào trong khu biệt giam?
(đến đây, tôi xin nói rõ hơn về cụm từ “cái giọng nặng trịt mùi ra má”. Trước kia, chúng tôi, thường gọi đùa rằng người ViệtNam có ba giọng: Rau muống, ớt và giá sống,vì ở miền Bắc ăn nhiều rau muống nên có “giọng rau muống”, ở miền Trung , ăn nhiều ớt nên có “giọng ớt” và ở miền Nam ăn giá sống “thả cửa” nên có “giọng giá sống”. Có một lần, khi mới chuyển về trại giam Thanh Chương, tỉnh Nghệ Tĩnh này, một tên bò vàng súng dài, mặt mày non chẹt, miệng còn hôi sữa đã vênh váo “bô lô bô loa” với anh em trong đội chúng tôi rằng:
- các anh đừng tưởng tôi mặc được bồ đồ là dễ dàng đâu, giòng họ tôi phải ba đời ăn rau má đấy!
Vừa nói hắn vừa chỉ tay vào bộ sắc phục vàng khè của hắn. À ra thế, cả ba đời bần cố nông, nghèo đến nỗi không có rau nào tộng vào bao tử ngoài loại rau má mọc hoang đầy dẫy và cũng có thể vì đã đớp loại rau này đời này qua đời nọ nên cái lưỡi của người dân chung quanh cái làng cha sinh mẹ đẻ của tên tội đồ Hồ chí Minh bị “đớ” nên giọng của hắn nặng trìn trịt “mùi rau má” chăng? một cái giọng rất khó nghe và khó hiểu vì nó “nặng” quá! nhiều lúc anh em chúng tôi đứng ngớ ngưới, không hiểu nổi lũ bò vàng sinh quán tại vùng này muốn nói gì với chúng tôi.)
Xin trở lại thời gian tôi bị tên bò vàng súng dài chất vấn về việc tôi đã liên lạc với vị Linh Mục nào trong khu biệt giam. Sau câu hỏi gằn giọng lần thứ hai của hắn, tôi đã lấy lại chút bình tĩnh và thầm nghĩ rằng: nếu mình khai sự thật là đã liên lạc với người trong khu biệt giam, không phải chỉ một mình tôi sẽ bị “kỷ luật” vì đã “vi phạm” nghiêm trọng vào điều nghiêm cấm trong bản nội quy, mà luôn cả vị Linh Mục cũng sẽ bị “dính chấu”. ông ấy chắc chắn sẽ bị ghép cùng chung với tôi, tuy nhiên hơi khác biệt một chút là ổng đã liên lạc với “người ở bên ngoài khu biệt giam”, còn tôi đã liên lạc với “ngưòi ở bên trong khu biệt giam”. Do đó, tôi nhất quyết chối phăng việc mình đã nói chuyện với vị Linh Mục, và vẫn lập lại câu trả lời hồi nãy:
-Báo cáo cán bộ, tôi đâu có nói chuyện với ai.
-Thế, anh đứng làm gì ở đây?
-Tôi đang đứng “hóng gió” cho mát.
hắn hằn hộc:
-Tôi đã nghe tiếng anh nói chuyện với tên nào đó trong khu biệt giam, anh tưởng tôi bị điếc à?
Vẫn “trước sau như một”, tôi bảo với hắn rằng tôi chỉ ở tại chổ này để “hóng gió cho mát” và đã không nói chuyện với ai cả, vì chỉ có mỗi mình tôi hiện diện nơi đây mà thôi!
Hắn cho tôi là “ngoan cố”, và ra lệnh cho tôi theo hắn đi đến phòng trực của trại giam, nằm sát ngyoài cổng ra vào trại để “làm việc”
Đó là căn nhà kích cở bằng một phần ba căn nhà đá dành cho chúng tôi ở. Nó cũng được xây bằng đá xanh và nóc lợp tôle. Khi xuất trại để đi cày cuốc, tôi đã đi ngang qua căn nhà này biết bao nhiêu lần rồi, nhưng chưa có dịp “hân hạnh” bước vào bên trong. Bây giờ thì dịp ấy đã đến. Tôi theo chân tên bò vàng súng dài, đi qua cửa căn nhà đá nhỏ này dùng làm phòng trực trại giam. Tại đây có một cái bàn làm việc, một cái ghế ngồi. Anh sáng bên ngoài xuyên qua hai cánh cửa sổ không có song sat. Nhờ ánh sáng này tôi thấy được một tên bò vàng khác, đang ngồi trên cái ghế độc nhất ấy.
Tên bò vàng súng dài ra lệnh cho tôi đứng lại tại chổ sau khi vừa bước qua cửa ra vào phòng chừng ba,bốn bước, rồi hắn đến rỉ tai, to nhỏ gì đó với tên đang ngồi trên ghế. Vì ở khoảng cách khá xa nên tôi không thể nghe được chúng thì thầm, trao đổi nội dung câu chuyện. Tôi nghĩ rằng tên ngồi ghế là trưởng toán bò vàng có nhiệm vụ tuần tra canh gác mỗi ngày trong trại giam. Sau một lúc nghe tên súng dài boá cáo nhỏ to, tên ngồi trên ghế lên tiếng hỏi tôi:
-Anh hãy “thành thật khai báo” anh đã nói chuyện với ai trong khu biệt giam?
Tôi nhất định không khai sự thật và trả lời không chút do dự, ngập ngừng:
-Báo cáo cán bộ, tôi không có nói chuyện với ai cả. tôi chỉ đứng “hóng gió” một mình.!
Hắn bèn ra chiêu “dụ khị”:
-Hãy “thành thật khai báo” anh đã “liên hệ” với tên nào trong ấy, rồi anh sẽ được “khoan hồng” vì tội đã vi phạm nội quy (lũ quỷ đỏ dùng cụm từ “liên hệ” thay vì “liên lạc” như người miền Nam Quốc Gia thường nói với nhau)
Tôi nghĩ thầm: mầy tưởng bở rằng tao ngu lắm à? “thành thật khai báo” để “chết chùm” hay sao?
Rồi không chần chừ tôi cương quyết đáp lại:
-Báo cáo cán bộ, tôi không có “liên hệ” với ai cả nên làm sao biết tên người nào mà khai báo.
Đến lúc này, tên bò vàng ngồi trênghế mới để lộ rõ cái bàn chất vô giáo dục, cái bản chất “mất dạy” của lũ quỷ đỏ qua câu quát tháo, trở giọng côn đồ:
-Địt mẹ, mầy không chịu khai báo? Mày “ngoan cố” thì ông cho mày chết.
Vừa thốt xong những lời mất dạy đầy hăm dọa nói trên, hắn liền đứng lên, rời ghế ngồi và hầm hầm tiến đến trước mặt tôi.
Vẫn nghĩ rằng tên này chỉ hù dọa làm tôi mất tinh thần mà khai sự thật, nên tôi cố gắng tự chủ, giữ bình tĩnh, xem hắn sẽ hành động tiếp ra sao. Buông thỏng hai tay, tôi đúng im lặng và chờ.
Khi khoảng cách vừa tôi và hắn còn chừng nửa thước, tên bò vàng vung nắm tay thoi vào mặt tôi. Cũng may vì đã đề phòng nên tôi kịp thời bước lui và né tránh cú đấm ấy. nếu không thì mặt tôi đã phải “lãnh đủ” cú đấm đó rồi.
Tôi vội la lên:
_Cán bộ không được quyền đánh tôi, chính sách của nhà nước không cho phép cán bộ sử dụng vũ lực với chúng tôi!
-Địt mẹ! không có chính sách gì cả! mày không chịu khai, chúng ông phải đánh cho mày khai!
Rồi hắn quay sang tên súng dài và ra lệnh:- Đồng chí hãy giúp tôi, bắt tên này khai báo!
Liền sau đó, cả hai tên, đúa dùng súng A.K , đứa dùng tay chân xong vào để “làm thịt” tôi. Đến lúc này, bản năng sinh tồn của tôi bắt buộc mình phải tự vệ để sống còn…
… Trước ngày mất nước, khoãng thời gian từ giữa năm 1966 đến đầu năm 1969, tôi được “biệt phái ngoại ngạch” sang phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia tại Tổng Nha Cảnh Sát ở đường Võ Tánh Sài Gòn. Mỗi buổi chiều, sau giờ làm việc, tôi được anh Vương Đình Thanh, một sĩ quan trong ngành, giữ chức vụ trưởng ban võ thuật của tổng hành dinh, chỉ dạy môn võ thái cực đạo vì anh cũng là võ sư, huấn luyện viên hai môn nhu đạo và thái cực đạo. Mỗi kỳ thi “lên đai”, tôi đều ghi danh cùng với các thí sinh trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia tại võ đường mà ban giám khảo vào thời gian ấy là các võ sư Đại Hàn. Do đó ‘vốn liếng” về môn thái cực đạo của tôi cũng có thể “tạm đủ” để cho mình tự vệ trong những lúc cần thiết.
…Tuy nhiên, người ta thường nói: “văn ôn, võ luyện” Văn tôi không ôn; và võ tôi cũng không tập luyện thường xuyên vì không có thời giờ, không có điều kiện vì phải chu toàn nhiệm vụ của người lính tác chiến sau khi hết thời gian “biệt phái ngoại ngạch”, trở về quân đội và “ba lô lên vai”. Do không được ôn luyện nên phản xạ của tay chân tôi không còn nhuần nhuyễn và sắc bén nữa, sau hơn cả chục năm không có dịp “múa máy”. Tóm lại, tôi đã bị “lụt nghề”.
…Thêm vào đó, sau ngày mất nước, trên bước đường bị tù đày, thiếu dinh dưỡng, sức khỏe hao mòn, trước sự tấn công dồn dập của hai tên bò vàng khốn nạn, phản xạ của tôi bây giờ thật thảm hại, vừa né tránh, gạt đỡ, tôi vừa hét lên:
-Thằng Hồ chí Minh đã dạy tụi mày đối xử với tao như thế này à?
Nghe những lời tôi vừa quát, cả hai tên trở nên điên tiết vì tôi đã cả gan dám kêu tên “ông cố nội” của chúng bằng “thằng”, nên cố sức tấn công tôi tới tấp.
Bỗng tên tay không, lúc nãy ngồi trên ghế, hô to:
-Cả đồng chí nữa, hãy cùng chúng tôi đập chết tên ‘phản động” này!
Thì ra, vừa có một tên súng dài mới bước vô phòng. Có lẽ tên này đã đi tuần tra, kiểm soát ann ninh lòng vòng ở đậu đó chung quanh khu vực trại giam, hết thời gian trực gác, mới trở về đây. Nghe chỉ thị của thượng cấp, tên này “xung trận”, dùng bángA.K quơ lia, quơ lịa vào tôi. Lúc nãy, một mình mà phải đối đầu với hai tên, tôi đã thấy yếu thế và mệt mỏi rồi, bây giờ thêm một tên nữa, cán cân xem như nghiêng hẳn về phía kẻ thù. Bị dồn vào đường cùng, tôi đành liều mạng: con người ta chỉ chết một lần. vả lại, trong quá khưú tôi cũng đã một đôi lần cận kề với cái chết trong những lần hành quân chạm địch, bị địch phục kích, đã phải chống trả lại với lực lượng đông gấp bội của kẻ thù mà vẫn chưa “hui nhị tỳ”, vẫn chưa “đi đon”, vẫn chưa “phủi cẳng lên bàn thờ” mà ngồi, thì bây giờ, vì bản năng sinh tồn thôi thúc, tay chân tôi bỗng nhiên trở nên linh động nhiều hơn trong các “thế” gạt, đỡ hay “phản đòn”. Các “thế” này thường được gọi là “thế võ”, xuất xứ từ các thế đấu luyện hay các thế thao tác trong các bài quyền của môn thái cực đạo. Tay chân tôi cử động theo phản xạ . tất cả những gì tôi đã học và thực tập ở võ đường , bây giờ cứ “tuôn trào” ra tứ chi mình một cách rất tự nhiên, nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn mà thôi, vì “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhất là “mãnh hổ” này ốm tong teo do thiếu dinh dưỡng, thiếu ôn luyện nên yếu xìu…
…Sau khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đang nằm trên chiếc giường tre ở “trạm xá” của trại giam. Đứng chung quanh giường là ba tên bò vàng đã cùng nhau muốn làm thịt tôi lúc nãy. Tôi nhớ lại những hình ảnh cuối cùng mình đã thấy trước khi ngã xuống nền xi măng trong phòng trực của trại giam…
Lúc quần thão, tôi phải né tránh các cú phang “báng ngang báng dọc” của hai cây súng A.K, mà không dám trực tiếp gạt đỡ vì biết rằng nếu tay mình bị “lãnh” , bị trúng một đòn thì sẽ bị gãy ngay tức thì, tuy nhiên tên bò vàng tay không súng, ngồi trên ghế lúc nãy thì tôi “quyết thua đủ” với hắn. Tôi nghĩ rằng nếu mình có “đi đon”, hắn cũng sẽ rất khó sống, mà nếu hắn còn sống, nhất định hắn sẽ không còn “lành lặng” tôi đã nắm trong tay phần thua; và đến lúc này, câu “chết vinh hơn sống nhục” lại trở về trong tôi. Câu này, chúng tôi thường khắc lên mặt trái của “tấm thẻ bài” còn mặt chính thì có khắc tên họ, cố quân và loại máu của mình. Đã không hy sinh trên chiến trường mà bây giờ bỏ mạng tại đây thì đó cũng là số mạng, cũng không có gì là nhục, là hèn nhát…Tên không súng vừa đưa tay, đấm vào mặt tôi thì bị tôi dùng một tay gạt tay hắn sang một bên, còn tay kia của mình, tôi “phóng” hay ngón tay trỏ và giữa đến cồ họng hắn. Trong “nghề” chúng tôi gọi đòn này “song chỉ” ( hai ngón tay). Tôi đã đánh trúng mục tiêu, nhưng có lẽ vì yếu sức và khoảng cách giữa tôi và hắn hơi xa nên “lực” của hai ngón tay tôi không đủ sức để sát thủ. Từ miệng hắn vang lên một tiếng “khọt”. Hắn khụy xuốngt. Tôi tưởng hắn nằm luôn trên nên xi măng, nhưng chỉ vài ba giây sau, tôi thấy hắn lòm còm bò dậy…trong lúc còn phải đối đầu với hai tên có súng, tôi liếc mắt, thấy tên vừa trúng đòn “song chỉ” hồi nãy, đang cầm trong tay hai thanh gỗ dẹp dùng để cài cánh cửa ra vào phòng trực mà “bửa” vào đầu tôi. Không kịp nhảy tránh, theo phản xạ, tôi đưa cánh tay phải lên đỡ thì cổ tay lãnh trọn “cú bửa” chết người này. Một tiếng “cốp” khô khan vang lên. Sự đau đớn khủng khiếp, tột cùng ở cổ tay mình làm tôi nghẹt thở, vừa quỵ xuống hai chân, tôi lãnh thêm một cú đá như trời giáng của một trong hai tên cầm súng A.K. tôi thấy hình như bỗng có một đống lửa vừa bùng chá sáng lòa trước mắt, rồi bỗng chợt tắt ngấm, tối đen. Trong tích tắc. Sau đó, tôi không còn thấy, không còn biết, không còn cảm giác gì nữa…
Không biết tôi bị bất tĩnh bao lâu và những ai đã khiêng tôi từ trong phòng trực đến “trạm xa” này. Miệng mồn và cổ tay phải, làm tôi đau đớn khủng khiếp. Có lẽ tôi đã bị gãy một, hai cái răng rồi. Đưa bàn tay trái lên sờ hai bên mép, tôi “nghe” có máu đông đặc, dính khô. Liếc nhìn cổ tay phải thì thấy có kẹp hai miếng nứa dẹp, ngắn cỡ gang tay, băng vải băng màu ngà.(Nứa là loại tre vỏ mỏng, không đặc ruột). Bình thường, trong “giờ lao động”, trạm xá này được chỉ huy bởi một nữa y tá bò vàng, thị này có chọn một anh bạn trong trong tôi tên là Thanh, làm “phụ tá”. Anh chàng này là “Bò Tứ” Không quân, “tài xế lái trực thăng” rất đẹp trai. Nhưng bây giờ thì tôi không thấy sự hiện diện của hai nhân vật ấy chung quang đây. Ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện cho tôi biết rằng hiện đã chiều tối rồi.
Thấy tôi vừa hồi tỉnh, tên bò vàng không súng nhìn thẳng vào mặt tôi, mắt trợn từng và lên tiếng hăm dọa, với giọng đặc sệt “mùi rau má” của vùng Nghệ Tĩnh này:
- Nếu mày đi rêu rao đã bị chúng ông đánh đập, chúng ông sẽ giết mày luôn! Đã “liên hệ” với khu biệt giam mà không “thành thật khai báo”, lại còn ngoan cố, chống trả cán bộ trực trại, tôi vi phạm trầm trọng nội qui, mày phải bị “kiên giam” một tháng là ít nhất đấy con ạ! (cụm từ “kiên giam” hay “biệt giam” chỉ có một nghĩa).
Tuy biết rằng thân phận mình bây giờ như cá nằm trên thớt, tôi vẫn trừng mắt nhìn thẳng vào mặt hắn với tất cả nỗi căm hờn vì nghĩ rằng chúng khó lòng “ dứt nọc” được mình do trên lộ trình tôi bị khiêng từ phòng trực về trạm xá này, chắc chắn bạn bè, anh em trong trại cũng đã có người nhìn thấy. Kẻ thù muốn thủ tiêu tôi sẽ không dễ dàng cho chúng thực hiện…
Tên bò vàng sau đó ra lệnh cho tôi rời trạm xá, đi theo hắn, hướng về khu biệt giam. Hai tên đeo súng A.K lẽo đẽo theo sau…
Trời đã tối, chung quanh vắng teo. Qua cổng khu biệt giam, tên bò vàng không súng dùng đèm bấm soi đường đến cửa của một trong hai căn nhà đá trong khu này. Trong chùm chìa khóa của hắn mang theo, hắn chọn một chìa. Đút vào lổ khóa mở cánh cửa. Nhờ ánh sáng của cây đèn bấm quét qua quét lại, tôi thấy trong phòng giam tối thui này có hai cái bệ xi măng cao chừng bốn gang tay tựa như hai cái mả đá.
Mỗi bệ cách xa nhau khoảng một thước. tên không súng ra lệnh cho tôi ngồi lên một trong hai bệ theo chiều ngang, đưa một chân ra, “tra” vào một cái còng ở cổ chân trên mắt cá. Loại còng này bằng sắt dầy nặng trịt tựa như cái khoen tai khổng lồ gồm hai miếng sắt tròn và hai cái lổ để xỏ thanh sắt tròn nhỏ cở ngón chân cái xuyên qua. Ở hai đầu của thanh sắt tròn nhỏ này có dùi hai lổ nhỏ vừa để móc hai ổ khóa. Tóm lại, khi cổ chân đã bị “tra” vào còng rồi thì người bị còng kể như “dính chấu” trên cái mã đá này. Nếu muốn sử dụng cái giò khốn khổ ấy, phải mở hai cái ổ khóa ở hai đầu thanh sắt tròn nhỏ để đi lại bình thường. Người ta dùng cụm từ “còng tay” và “cùm chân”. Trường hợp của tôi là bị cùm một chân.
Sau khi tra chân vào cùm, thanh sắt tròn có hai khóa ở hai đầu sẽ nằm cứng ngắc. Người bị cùm chỉ còn có thể nằm ngữa hay ngồi mà thôi. Cũng may cho tôi là chỉ bị cùm có một giò, nên khi bị quá mỏi lưng vì mãi nằm ngữa, tôi có thể cố gắng xoay sở nghiêng lưng mình nằm một bên trong khoảng một thời gian ngắn, rồi trở lại tư thến nằm ngữa. Tôi không hiểu tại sao tôi lại may mắn chỉ bị cùm một chân, thay vì phải tra cả hai chân vào cùm, chớ dâu phải chỉ còn một giò như Tôn Tẩn “xi cà que” trong truyện Tàu. Tôi không bao giờ nghĩ rằng hắn lại “độ lượng” như vậy, chín hắn đã muốn “làm thịt” tôi cơ mà! Đã bị gãy xương cổ tay, mất một,hai cái răng, nếu bị dính chấu luôn cả hai chân vô cùm, không biết tôi sẽ vượt qua nỗi thời gian bị cực hình này hay không?
Cái may mắn thứ hai của tôi là thuộc vào “loại ròm” nên cổ chân không to lắm. Vòng tròn cái cùm đã nhỏ mà xương cổ chân tôi lại còn nhỏ hơn! Do đó, sự xoay sở chân bị cùm trong lúc thay đổi tư thế nằm ngữa sang nằm nghiêng không làm tôi bị đau đớn ở mắt cá. Những người to xương, sau khi ra khỏi khu biệt giam, đều bị sưng, lở hai cổ chân vì da bị trầy tóc, rồi bị nhiễm trùng, do đã bị gong cùm siết quá chắc sau một thời gian dài bị cực hình…
…Trước khi cả ba tên bò vàng ra khỏi phòng biệt giam, tên không súng một lần nữa lại giở giọng hăm dọa tôi, sau khi hắn đã bóp và kiểm soát xong hai ổ khóa ở hai đầu thanh sắt tròn khóa cùm:
-mày không “giữ mồm” thì sẽ khó sống đấy!
nằm trên bệ xi măng lạnh ngắc, một chân trong cùm, hai mắt mở thao láo, nhưng chẳng thấy được gì, vì trong phòng biệt giam bây giờ tối đen do cánh cửa ra vào đã bị đóng kín sau khi ba tên bò vàng rời khỏi đây, tôi cảm thấy hình như trong miệng mình tất cả răng cỏ đều lung lay. “rà” lưỡi kiểm soát thì thấy có một khoảng trống giữa mấy cái răng ở hàm dưới, ít nhất cũng đã có một cái bị gãy nên “vắng mặt”. Cỗ tay tôi hiện vẫn còn đau nhức khủng khiếp.
Với tâm tư đầy hận thù, thù hận, tôi không biết mình đã ngủ thiếp đi lúc nào…
…mở mắt thức giấc, tôi thấy có chút ánh sáng trong phòng giam nhờ ô cửa sổ vuông nhỏ cở hơn một gang tay có song sắt. Ô cửa này ở trên cao, trong vách tường đá, được xây để “thông hơi”. Tôi nghe có tiếng người lao nhao vọng lại từ xa, không rõ ràng, rời bỗng có tiếng mở khóa cửa. Một tên tù hình sự bước vào, một tay cầm một xấp lá tưoi, mỗi miếng to cở hai bàn tay, còn một tay kia có một cái nồi mhôm nhỏ, đen thui, móp méo, dung tích chừng hơn một lít, lớn hơn hộp nhôm “Guigoz” mà chúng tôi thường dùng để nấu nướng, đựng nước hay thức ăn…(loại hộp nhôm này của hiệu sữa bột “Guigoz” ở Hoà Lan, bày bán ở Miền Nam ngày xưa. Sau ngày mất nước, loại hộp nhôm này đã được anh em chúng tôi sử dụng vào không biết bao nhiêu việc trong cuộc sống hàng ngày của người tù không bản án. Nếu được dịp, chúng tôi sẽ “tuyên dương công trạng” hãng sữa bột Guigoz vì đã cho ra lò loại hộp nhôm đựng sữa quý báu ấy).
…Với giọng đặc sệt mùi rau má của vùng này, tên tù hình sự nói với tôi:
- Lá cây này, anh hãy trải dước đất trước khi ỉa. Anh hứng nước đái trong cái nồi này. Khi ỉa xong, anh hãy gói phân lại cho gọn sạch.
Và không chờ tôi kịp trả lời, hay hỏi han gì, hắn trở ra ngoài cửa, rồi đem vào hai củ khoai lang (mỗi củ to cở ngoán chân cái, dài chưa đến một gang tay), đạt chúng trên nền xi măng, dưới chân tôi và một tô nước bằng sành, dung tích khoãng nửa lít.
Tôi thử hỏi hắn:” Bây giờ là mất giờ rồi?”. Nhưng hắn vẫn im lặng, câm như hến.
Sau khi tên tù hình sự trở ra ngoài, cửa phòng biệt giam đóng lại, tôi nghe tiếng ổ khóa bên ngoài được bóp, bụng thì đói, nhưng miệng tôi không thể “há” ra để cắn hay cạp được củ khoai lang, dù nó mềm xéo và lạnh ngắc.
==============================================
==========================================================
No comments:
Post a Comment