Đối ngoại
Dương Danh Huy và Lê Trung Tĩnh
Theo RFA
Photo courtesy of Lyson Forum
Công an biên phòng Trung Quốc bắt tàu đánh cá Việt Nam hồi năm 2009.
Thế nhưng trong phạm trù tranh chấp Biển Đông chưa có chứng cớ thuyết phục rằng “tinh thần đồng chí, anh em” Việt - Trung đã từng làm cho Trung Quốc đối xử với Việt Nam một cách hữu nghị, hay tôn trọng, hay công bằng hơn với các nước Đông Nam Á khác trong tranh chấp.
Thậm chí, có thể cho rằng Trung Quốc đã lấn lướt Việt Nam nhiều hơn lấn lướt những nước Đông Nam Á trong tranh chấp không phải là đồng chí với nước này.
Việc cấm đánh cá
Trong phỏng vấn trên báo Tiền Phong Online ngày 20/5/2010, một thuyền trưởng ở Quảng Ngãi trả lời về việc Trung Quốc cấm đánh cá năm nay như sau:
“Từ ngày lệnh cấm của Trung Quốc có hiệu lực, chúng tôi phải dạt ra xa quần đảo Hoàng Sa đến 200 - 300 hải lý mới dám đánh bắt. Họ cấm ở tọa độ 12 độ vĩ bắc tới 113 độ kinh đông kéo dài gần đảo Hải Nam đến tận Nha Trang chẳng khác nào “bịt” đường ra biển của ngư dân chúng tôi. Trong khi đó, mùa này cá thường tìm về khu vực có các rạn san hô như ở đảo Hải Nam, Hoàng Sa nếu không được đánh bắt ở đây thì sản lượng sẽ giảm đáng kể” - ông Bay nói.
Qua lời ông Bay nói, chúng ta có thể hiểu được rằng vùng cấm đánh cá nằm phía Bắc kinh độ 112 Bắc và phía Tây kinh độ 113 Đông. Thí dụ, ông Bay nói vùng Trung Quốc cấm đánh cá kéo dài gần đảo Hải Nam đến tận Nha Trang.
Bản đồ 1: Vùng Trung Quốc cấm đánh cá hầu như chỉ ảnh hưởng đến Việt Nam. Photo courtesy of seasfoundation.org
Vẽ kinh độ 113 Đông (đường đen đậm dọc) và vĩ độ 12 Bắc (đường đen đậm ngang) lên bản đồ với các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (các đốm xanh lá cây là lãnh hải 12 hải lý thuộc các đảo này) và phạm vi 200 hải lý từ các vùng lãnh thổ không bị tranh chấp (các đường xanh da trời) cho thấy rõ sự tính toán của Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc nới rộng vùng cấm đánh cá xuống phía Nam vĩ độ 12 Bắc, thì việc cấm đánh cá sẽ ảnh hưởng đến vùng biển lân cận các đảo Trường Sa mà Philippines đòi hỏi chủ quyền, tức là có thể ảnh hưởng đến Philippines, hoặc sẽ ảnh hưởng đến vùng biển cách bờ Việt Nam hơn 200 hải lý, nơi tất cả các nước trên thế giới có thể có quyền đánh cá, tức là sẽ ảnh hưởng đến các nước khác trên thế giới ngoài Việt Nam.
Nếu Trung Quốc nới rộng vùng cấm đánh cá sang phía Đông của kinh dộ 113 Đông, thì việc cấm đánh cá sẽ ảnh hưởng đến vùng biển cách bờ Việt Nam hơn 200 hải lý, nơi tất cả các nước trên thế giới có thể có quyền đánh cá, tức là sẽ ảnh hưởng đến các nước khác trên thế giới ngoài Việt Nam.
Như vậy, kinh độ 113 Đông và vĩ độ 12 Bắc là kinh độ và vĩ độ làm cho việc cấm đánh cá không ảnh hưởng đến các nước khác trên thế giới ngoài Việt Nam. Chỉ có Việt Nam bị ảnh hưởng:
- Vùng cấm đánh cá phủ trùm lên vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam,
- Không phủ trùm lên vùng biển lân cận các đảo Trường Sa mà Philippines, Malaysia và Brunei đòi hỏi chủ quyền,
- Không phủ trùm lên vùng đặc quyền kinh tế thuộc lãnh thổ không bị tranh chấp của các nước Đông Nam Á khác,
- Không phủ trùm lên vùng biển mà tất cả các nước trên thế giới có thể có quyền đánh cá.
Như vậy, Trung Quốc đã thiết kế phạm vi vùng cấm đánh cá với mục đích xâm phạm chủ quyền Việt Nam, và xâm phạm một cách tối đa, trong khi làm sao cho các nước khác ngoài Việt Nam không bị ảnh hưởng.
Tranh chấp dầu khí
Bản đồ 2: Trung Quốc áp lực BP rút khỏi dự án tại các vùng Mộc Tinh (5-03), Hải Thạch (5-02) và ký hợp đồng khảo sát với Crestone trong vùng Tư Chính - Vũng Mây. Photo courtesy of seasfoundation.org
Năm 2007, Trung Quốc gây áp lực buộc BP phải rút lui khỏi các dự án dầu khí Mộc Tinh, Hải Thạch với vốn 2 tỷ USD với Việt Nam. Hai vùng Mộc Tinh, Hải Thạch nằm trong lô 05-3, 05-2 trong Bản đồ 2 và được đánh dấu bằng các ký hiệu M, H trong Bản đồ 1.
Hai vùng này nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và nằm gần các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quý hơn quần đảo Trường Sa, vốn trong tình trạng tranh chấp chủ quyền.
Điều đáng lưu ý là Trung Quốc chưa bao giờ phản đối hay gây áp lực buộc các tập đoàn dầu khí quốc tế rút lui khỏi các dự án với Indonesia, Malaysia, Brunei trong các vùng biển tương đương của các nước này. Mặc dù năm 2009 Trung Quốc có phản đối dự án dầu khí của Philippines tại vùng Reed Bank, cho tới nay chưa có tập đoàn dầu khí quốc tế nào phải rút lui ra khỏi các dự án với Philippines vì áp lực của Trung Quốc.
Tiếp tục đi ngược thời gian, vào năm 1992 Trung Quốc ký hợp đồng khảo sát dầu khí với Crestone trong vùng Tư Chính – Vũng Mây (đường tím trong Bản đồ 1). Khu vực cụ thể của hợp đồng này nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam nhưng tránh thềm lục địa của Indonesia cũng như các yêu sách thềm lục địa của Malaysia (đường cam trong Bản đồ 1) và Brunei. Một lần nữa, Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền Việt Nam trong khi tránh đụng chạm đến các nước Đông Nam Á khác trong tranh chấp.
Cho tới nay, ngoài hợp đồng với Crestone trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc chưa hề đơn phương ký hợp đồng với nước thứ ba trong vùng đặc quyền kinh tế của nước Đông Nam Á nào khác, hay trong vùng biển Trường Sa, mà các nước này có thể đòi hỏi chủ quyền.
Quyền lợi và cơ hội được đặt trên tình đồng chí
Như vậy, mặc dù tồn tại mệnh đề Việt Nam và Trung Quốc “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, Trung Quốc lại lấn lướt Việt Nam nhiều hơn lấn lướt các nước Đông Nam Á khác.
Lịch sử cho thấy Trung Quốc luôn luôn đặt quyền lợi của mình lên trên bất cứ tinh thần xã hội chủ nghĩa quốc tế nào và Trung Quốc thường tận dụng những cơ hội nước này có.
Yếu tố quyền lợi
Tham vọng của Trung Quốc để chiếm đoạt tất cả Hoàng Sa, Trường Sa và 80% Biển Đông bao hàm quá nhiều quyền lợi để có thể bị ràng buộc bởi tình đồng chí. Không những thế, có thể nói rằng tham vọng đó nằm trong ý thức của Trung Quốc còn sâu hơn cả ý thức hệ: nó bắt đầu từ chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, ngày nay Đài Loan cũng có tham vọng đó, và trong khi Trung Quốc trải qua những quan niệm khác nhau về xã hội chủ nghĩa thì tham vọng đó cũng không thay đổi.
Trong khi đó, chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông là chướng ngại vật mà Trung Quốc phải đè bẹp trên đường tiến xuống phía Nam tại Biển Đông. Nếu chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đứng vững thì Trung Quốc khó có cơ sở lý lẽ hay sự kiểm soát trên thực tế để đối đầu với các nước Đông Nam Á khác trong phạm trù tranh chấp chủ quyền.
Đối với Trung Quốc, mặc dù nước này và Việt Nam có cùng ý thức hệ, vai trò của Việt Nam trên thực tế hoàn toàn không hơn gì bất cứ nước Đông Nam Á nào khác cho quyền lợi chiến lược của Trung Quốc.
Yếu tố cơ hội
So với các nước trong khu vực và các cường quốc, về sức mạnh nói chung, sức mạnh quân sự nói riêng, và đặc biệt là về hải quân, ngày nay là lúc Trung Quốc mạnh nhất trong nhiều thế kỷ. Điều này cộng với sự yếu kém riêng lẻ của các nước Đông Nam Á trong tranh chấp, và với việc hiện nay các nước này chưa tạo được sức mạnh tập thể, là cơ hội ngàn năm một thuở cho Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam còn thế cô hơn những nước Đông Nam Á khác trong tranh chấp – điều này tạo thêm cơ hội để Trung Quốc lấn lướt Việt Nam.
Hệ quả và thực tế
Với các yếu tố quyền lợi, cơ hội như trên, không có gì đáng ngạc nhiên khi, mặc dù tồn tại mệnh đề Việt Nam và Trung Quốc “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, Trung Quốc lại lấn lướt Việt Nam nhiều hơn lấn lướt các nước Đông Nam Á khác.
Nếu Việt Nam là anh em với Trung Quốc thì trên thực tế có vẻ như là Việt Nam có vai em. Trong khi đó, lịch sử lại cho thấy Trung Quốc khó có thể là một người anh tốt với Việt Nam. Một người anh xấu sẽ hà hiếp người em thế cô trước khi bắt nạt những người hàng xóm có đồng minh. Trong khi đó, quan hệ “anh em” lại gây ra những rào cản cho cho việc vận động cộng đồng ủng hộ quyền lợi chính đáng của người em.
Việt Nam nên nhìn nhận thực tế là Trung Quốc đã, đang và sẽ luôn luôn đặt tham vọng chiếm đoạt tất cả Hoàng Sa, Trường Sa và 80% Biển Đông lên trên bất cứ tinh thần đồng chí, anh em nào. Tinh thần đồng chí, anh em đó đã không, không, và sẽ không bao giờ là bùa hộ mạng cho chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa và phần Biển Đông của mình.
Tệ hơn, việc tin tuởng hoặc thể hiện như tin tuởng vào tinh thần đồng chí, anh em này sẽ làm Việt Nam càng cô độc hơn trên thế giới.
Điều duy nhất có thể bảo tồn chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa và phần Biển Đông của mình là mỗi người Việt Nam, từ người dân đến lãnh đạo, làm tất cả những gì mình có thể.
Cũng có thể có ý kiến cho rằng con đường “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc có thể đem lại lợi ích nào đó trong phạm trù nào đó khác với tranh chấp Biển Đông và có thể tránh bớt những khó khăn mà Trung Quốc có thể gây ra cho Việt Nam. Nhưng ngay cả trong ý kiến đó thì khái niệm “có thể tránh bớt những khó khăn mà Trung Quốc có thể gây ra cho Việt Nam” cũng nói lên một sự bắt nạt nào đó mà bất cứ dân tộc nào có tinh thần độc lập cũng phải tìm cách thoát khỏi. Và trong phạm trù tranh chấp Biển Đông chắc chắn là con đường đó sẽ dẫn đến cái chết cho chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa và ở Biển Đông.
Vì vậy, một trong những câu hỏi mà dân tộc Việt Nam, từ người dân đến lãnh đạo, phải trả lời là: chúng có nên chọn con đường “vừa là đồng chí, vừa là anh em” đó hay không?
Hồ Gươm gửi hôm Thứ Bảy, 25/12/2010
No comments:
Post a Comment