VÀO NHỮNG NGÀY TẾT MẬU THÂN (1968)
Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Ðiền, Quảng Ðiền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới và Nam Ðồng. Tỉnh Lỵ là thành phố Huế hiện nay có diện tích 380km2 với 209.043 người. Theo từ nguyên, Huế là do Hoá tên nôm của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa tìm được xuất xứ, ngoài tên Huế được đề cập lần đầu trong bài văn viết bằng chữ nôm “ Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” của Ðại đế Lê Thánh Tôn (1460-1497). Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna (Columbia) vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ , đã công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn
Nghĩ về Huế, dù là địa phương hay kẻ viễn khách, ai cũng ưa thích những công trình kiến trúc lịch sử, cung điện và lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 mãi tới năm 1838 đời vua Minh Mạng mới xong. Ðây là một tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 2.223m, bề cao 6,60m, chân thành có hào sâu 4m, phía đông nam sát bờ sông Hương nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra còn có 10 cửa chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vào. Tòa thành được kiến trúc độc đáo, từ kiểu Vauban của Pháp cho tới nghệ thuật xây cất Á Ðộng, biểu hiện nét hoành tráng,lộng lẫy nhưng không kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành,vọng lầu, cửa ngọ môn.. cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài hòa trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.
Ngược dòng lịch sử, từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Ðàng Trong gồm hai Châu Ô, Rí, do vua Chế Mân dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Ðại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Những gì còn lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công trình của cố đô trong đống gạch vụn do CS Bắc Việt và bọn Việt gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968. Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, Chợ Ðông Ba.. thêm trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.
Nói tới Huế để nhớ về những hình ảnh nổi bật dịu dàng của người dân đất thần kinh như mái tóc thề, tà áo dài trắng, chiếc nón bài thơ, những giọng hò, câu hát.. tất cả là những nét đẹp làm Huế miên viễn sống với sông núi thời gian. Ðến Huế để ăn những món vương giả cũng như bình dân tính hơn 600 món vừa chay,vừa mặn, vừa cháo, vừa chè kể cả bánh, mứt và đủ thứ dưa. Ðến Huế đâu quên món bún bò giò heo cọng to rất cay, rồi thì bánh khoái nơi cửa Thượng Tứ, chiều tối đi ăn cơm Âm Phủ là thứ cơm thập cẩm đặc biệt với món dưa gan làm món chua rất ngon. Cũng đâu quên được cơm hến bến Cồn, một hương vị đặc thù của Huế, giống như nem chua An Cựu, mè xửng và ốc gạo bến Cồn, mực Thuận An và sò huyết Lăng Cô. Cuối cùng nhớ Huế là nhớ đến công trình mở nước vĩ đại của các Chúa Nguyễn Hoàng, Sải Vương, Hiền Vương, Phúc Chu, Phúc Trú.. cho ta một giải giang sơn gấm vốc tới tận mũi Cà Mâu no giàu để con cháu về sau một đời sung mãn. Những đấng Tiên Vương c6ng đức và sự nghiệp ngất cao như núi trên, từ khi CSVN lên nắm quyền, đã bị chúng huỷ diệt, để dành công, dành tiếng và dành địa vị độc tôn yêu nước trong dòng sử Việt.
1- Mặt Trận Huế Vào Những Ngày Tết Mậu Thân (1968) .
Từ năm 1967, Hà Nội đã quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968. Trong số 44 tỉnh,thị tại miền Nam bị đột kích, thì Saì Gòn và Huế là quan trọng hơn cả. Vì trại Lực lượng đặc biệt A-Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngõ và Bắc Việt đã lợi dụng dịp này để chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công cố đô với sự dẫn đường chỉ lối của Việt Gian VNCH tại Huế . Trận chiến mở màn vào sáng mồng hai Tết, nhằm ngày 31-1-1968, bằng hai cánh quân : Ðoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2, K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công Bộ Tư Lệnh/ Sư đoàn 1 Bộ Binh tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Ðại Nội. Ðoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía Nam, hửu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía Nam. Ngoài ra còn có Ðoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 hợp với một đơn vị mang tên Ðường 12,t ấn công mặt tây.
Hà Nội đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965, 1966 xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dổ một số học sinh, sinh viện phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của CS ở Huế là mặt trận chính trị. Vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Ðại Nội dù thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNCH. Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Ðoá.
Ngoài ra còn có Nguyễn trung Chính, Nguyễn hửu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-2-1968 đài phát thanh Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do “ Lê văn Hảo làm chủ tịch, còn Ðào thị xuân Yến và Hoàng phương Thảo làm phó “.Lại có “ Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình “ được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do “ Lê văn Hảo “ tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Ðại Học Huế và Sài Gòn làm chủ tịch liên minh. Trong Liên Minh này còn có Hoàng phủ ngọc Tường, Thích Ðôn Hậu, Nguyễn Ðoá, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân.. Tóm lại mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh,Trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, còn Tống hoàng Nguyên và Nguyễn đình Bảy Khiêm chỉ lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế. Theo Bảy Khiêm, chính “ Y và đồng bọn đã giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ, công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Ðức dạy tại Ðại học Y Khoa “ qua chỉ điểm của VC nằm vùng. Sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận Việt Cộng đã tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.
Nhờ lợi dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Dại Nội, chợ Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, An Hòa, Chánh Tây.. ngoại trừ BT/.SD1BB tại đồn Mang Cá, cơ sở MACV, Tiêu khu Thừa Thiên, Ðài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát. Ngày mồng ba Tết 1-2-1968 một ngày sau đó, Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2 ,7 và chi đoàn 2/7 từ phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC cùng 4 chiến xa M48 trong Chiến doàn X-Ray (Hoa Kỳ) đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường phòng thủ MACV.
Chiều ngày mồng 4 Tết, TÐ 9 Du (VN)ợ được trực thăng vận vào chiến trường. Từ đó cho tới ngày 12-2-1968, cuộc chiến trở nên khốc liệt bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất cao của cả hai phía. Cùng ngày đó, Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến VN gồm các tiểu đoàn 3,4,5 thay thế chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp lực VC tại sân bay Tây Lộc và Ðại Nội. Ngày 19/2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BDQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy.
Ngày 25/2/1968 Biệt động quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường xá gần như tử địa với xác người nằm la liệt đã sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn nhẩn, thê lương, từ bàn tay đẳm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm lại không còn lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau gãy xập. Hởi ôi sắt thép, gổ đá còn biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vổ tay cười.
2 ố VC Thảm Sát Ðồng Bào Vô Tội Huế Vào Những Ngày Tết Mậu Thân (1968) :
Những hành động dã man của VC nhắm vào dân lành tại Huế, làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk. Ðiều này chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cọng sản, dù chúng là ai chăng nữa, cũng đều giống nhau vì cùng chung một tổ, một lò.Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sỡ dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng, do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà, lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Maoit .
Ðọc lại những trang sử của VNCH từ 1963 tới tháng 4-1975, ngày nay cả thế giới đều công nhận là VC thua VNCH trên mặt trận quân sự nhưng chúng lại chiếm được miền Nam bằng thủ đoạn chính trị, qua phương cách xách động quần chúng và nặn ra những mặt trận ma như Giải Phóng Miền Nam (MT/GPMN) năm 1960, Hội Ðồng Nhân Dân Cứu Quốc (HÐNDCQ) do phần lớn cọng sản nằm vùng lãnh đạo như Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên,Tôn Thất Hanh, Lê văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân, Tôn Thất Dương Tiềm..
Trong số các hung thần can dự tới thảm sát tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Nguyễn Khoa Ðiềm, Lê văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân. Năm 1966 khi còn là một sinh viên, Nguyễn đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “ Công tác thanh niên ” và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt,để lập cái gọi là “ đoàn nghĩa binh “ .Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa mà lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến tàu,Phú Bài.. Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt xập cầu Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cọng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế nhưng tình hình càng lúc càng tuyệt vọng, nên Lê Minh muốn rút quân. Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại tung bay trên kỳ đài Phú văn Lâu.
Nói chung cọng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị giặc chiếm lâu nhất, từ ngày mùng 2 Tềt đến 22-2-1968 mới được Biệt Ðộng Quân giải tỏa, bởi vậy mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội. Tới nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt tìm được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh duổi khỏi thành phố, tại các địa điểm trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bải Dâu, Cồn Hến, tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Ðức, Ðồng Khánh, cầu An Ninh, cửa Ðông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Vân Chí, chợ Thông, chùa Từ Quang, lăng Gia Long, Ðồng Di, Vịnh Thái, Phù Lương, Phú Xuân,Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Ðá Mài.. tổng cộng đếm được 2326 xác.
Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, còn Võ nguyên Giáp thì đểu giả hơn khi bị các ký giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đã trả lời la “ợ Bắc Việt không hề biết “ vì đó là chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thì động cơ cọng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài một lý do nhỏ là “ sự trả thù “ do hờn oán trước đây “ giữa cá nhân và cá nhân “.Do đó, CS Bắc Việt tàn sát đồng bào Huế theo kế hoạch phá huỷ và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH. Ðiều này đã được ghi lại trong một tài liệu của cán bộ VC, bị Sư đoàn 1/ Không kỵ Hoa Kỳ bát được tại Thừa Thiên ngày 12-6-1968 .Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng tòng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Thiên Chúa Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền Nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày Hà Nội cưởng chiếm dược miền Nam ngày 30/4/1975 mới chấm dứt vì CSVN độc tài đảng trị, cấm biểu tình xuống đường, nên “ bốn bên bốn phía “ đành bình đẳng chịu sống chung “ hòa bình, hòa giải, nối vòng tay lớn “.Cuối cùng tàn sát dân chúng miền Nam để gây tiếng vang với thế giới văn minh.
Trong dòng Việt Sử, từ thời Vua Hùng dựng nước cho tới ngày nay, chỉ thấy có ghi lại một cuộc ràn sát tập thể tôn thất nhà Hậu Lý do Trần Thủ Ðộ gây ra vào năm 1232 bằng thủ đoạn cho giựt xập nhà trai đàn, giết chết chừng vài chục người trong tôn thất nhà Lý. Hành vi trên dù đã thuộc vào quá khứ nhưng đến nay vẫn bị đời nguyền rủa, dù mặt thật của lịch sử, nếu không có Trần Thủ Ðộ sẽ không có Trần Thái Tông quyết chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng Ðại Việt lần thứ 1 với câu nói vang danh thiên cổ ” đầu Ðộ chưa rơi, không thể đầu hàng giặc Mông ”. Cũng qua dòng Việt sử, ta thấy kinh thành Thăng Long từ lúc được Vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô vào năm 1010 cho tới thời Pháp thuộc vào năm 1884, đã 10 lần bị giặc Tàu, giặc Chiêm cả Pháp tàn phá chiếm đóng. Riêng kinh thành Huế thất thủ năm Ất Dậu 1885 nhưng tuyệt nhiên không thấy sử nói tới việc quân ngoại quốc tàn sát người Ðại Việt khi làm chủ thành. Tóm lại dù bị kết tội như thế nào chăng nữa, giặc ngoại xâm lúc trước (chứ không phải Tàu đỏ, Khmer đỏ ngày nay), cũng còn nhân đạo hơn VC trăm ngàn lần, về cung cách đối xử với thường dân trong chiến tranh.
Ðem các biến cố năm1885 tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với Mậu Thân 1968 tại Huế ,bổng thấy lạnh mình về những lời chạy tội của Ðại tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn sát của VC đối với thường dân tại Huế năm 1968, qua nhận xét của Nguyễn đức Phương trong “ chiến tranh toàn tập “ thi Bùi Tín không biết gì về “ qui ước Geneve dành cho tù binh chiến tranh “ hoặc biết nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lý do bào chửa sự tàn ác dã mang của cán binh VC. Ðó cũng là chính sách của Hà Nội, luôn “ qui chụp “ tất cả những ai chống đối họ, đều bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là phải được chết để giữ gìn bí mật quốc phòng.
Tóm lại chỉ vì dã tâm xâm lăng cho được VNCH, mà Hà Nội trong cuộc chiến Mậu Thân đã giết hại hàng chục ngàn người trên toàn quốc và chỉ riêng tại Huế lại chôn sống đồng bào, vậy mà tới nay từ Hà Nội cho tới bọn cộng sản tại Huế vẫn coi như không hề xãy ra một chuyện gì và cũng chẳng có ai nhận trách nhiệu, ngoài việc công khai đổ hết nợ máu cho Nguyễn Khoa Ðiềm, Lê văn Hảo, Hoàng phủ ngọc Tường, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn Ðoá, Nguyễn đắc Xuân.
Năm 1998, ngày giổ chung của gần 100.000 người VN chết trong cuộc chiến cũng là ngàyVC ăn mừng chiến thắng Mậu Thân, ca tụng bài thơ của Hồ viết chúc Tết đồng thời cũng là mật hiệu cho cán binh tại miền Nam mở cuộc tiệc máu. Chính Bộ Trưởng quốc phòng Bắc Việt lúc đó là Võ nguyên Giáp soạn thảo kế hoạch, Phạm Hùng Ủy viên Bộ Chính trị, chỉ đạo Trung Ương Cục Miên Nam chỉ huy trận tổng tấn công, vậy mà cũng chính Võ nguyên Giáp đã trân tráo dám nói láo với nhà báo Tây Phương vào năm 1969 là hoàn toàn vô can, vô trách nhiệm. Ðây là một tội danh thiên cổ của VC đã gây ra trong dòng sử Việt, được các sử gia xếp chung với bốn cuộc tàn sát lớn trên thế giới cận đại như “ vụ quân Nhật tàn sát 300.000 người Hoa tại thành Nam Kinh ngày 13-12-1937, việc Ðức quốc xã giết hàng triệu dân Do Thái trong đệ nhị thế chiến 1939-1945, kế đến là cộng sản Liên Xô tàn sát 15.000 tù binh Ba Lan năm 1940 và Khmer đỏ tàn sát hơn 2 triệu dân lành sau năm 1975 khi chiếm được Cao Mên “.
Theo Nguyễn Lý Tưởng, thì những hành động dã man của Việt Cộng tại Thành Nội và Gia Hội, do cái gọi là “ Toà Án Nhân Dân “ được quyết định bởi các chóp bu trong “ Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình “ là Lê văn Hảo, Thích Ðôn Hậu, bà Nguyễn Ðình Chi.. nhưng chủ chốt và dã man tàn bạo vẫn là bọn theo “ phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966 “ sau đó theo VC và quay về Huế như “ Hoàng phủ ngọc Tường (giáo sư), Hoàng phủ ngọc Phan (sinh viên y khoa), Nguyễn đắc Xuân (sinh viên sư phạm), Trần quan Long (sinh viên sư phạm), Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân (sinh viên).. dẫn an ninh VC như Tống hoàng Nhân, Bảy Khiêm.. đi lùng bắt bạn bè, thân nhân, các thành phần quân, công, cán, chính VNCH cũng như các đảng phái bị kẹt lại tại Huế.
Hiện nay tất cả những bí mật của lịch sử gần như được khai quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền rủa của đời, nên không ngớt tìm đủ mọi cách để biện minh về tội lỗi của mình. Năm 1988,trên báo Sông Hương và được dịch đăng lại trên tờ Newswwek ở Hoa Kỳ, Ðại Tá Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận Thừa Thiên-Huế, đã “ xác nhận và chịu trách nhiệm “ về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra lý do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không kiểm soát được . Còn thủ phạm chính Hoàng phủ ngọc Tường thì đổ thừa cho cục bộ,địa phương chứ không phải tại đảng, vẫn giữ nguyên ý là miền nam mất vì cách mạng chứ không bị cộng sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997 Tường “ công khai chối tội “ là không tham dự mặt trận Huế. Y còn nói vì Hoàng phủ Ngọc Phan rất giống mình, nên người Huế tưởng lầm ? Còn Lê văn Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối tội. Riêng Nguyễn Khoa Ðiềm đứng trong bóng tối chỉ huy nên chỉ có đồng bọn mới nhận diện được. Sau rốt chỉ có Hoàng phủ Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân vì lúc đó gần như là công an, cai tù, chánh án và đao phủ thủ.. nên người Huế ai cũng nhận được,vì vậy phải chịu tai tiếng nhơ nhớp muôn đời.
Ngày nay ai cũng biết Tết Mậu Thân VC thua lớn và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử vì đã cố tình tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức., gây tử vong cho nhiều người có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.
Sau năm 1975, hầu hết bọn phản tặc VNCH đều bị Hà Nội cho ra rìa, trong số này có anh em nhà Hoàng Phủ. Con người dù có trái tim cao su hay nhân tạo, đôi lúc trong một thoáng bâng quơ nào đó. cũng tịnh tâm xúc động về tội ác của mình, huống chi Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là một trí thức, giáo sư, vương tôn công tư, được sinh ra và sống trên đầu hàng triệu triệu người lầm than đen đói VN, nên chắc cũng hàng đêm sám hối về tội phản quốc và sát nhân của mình đối với đồng bào vô tội, để sám hối cuối đời trước khi gặp lại “ bác “ nơi cõi A Tỳ .
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Cuối năm 2010
MƯỜNG GIANG
=======================================
===================================================
No comments:
Post a Comment