phạm trần anh
Báo Trung Cộng viết:
“ Lý Công Uẩn nguyên tịch Phúc Kiến, kiều cư thôn Cổ Pháp, Bắc Việt, rất được sự coi trọng của tầng lớp thống trị triều Lê, trao chức đầu nhai Điện tiền đô chỉ huy sứ, thống lĩnh cấm quân. Năm 1006, nhà sáng lập triều Lê là Lê Hoàn bệnh chết, con là Lê Long Việt, Lê Long Đĩnh lần lượt lên ngôi, nhưng hổ phụ sinh cẩu tử, quân chính đại quyền của triều Lê chưa được 4 năm đã chuyển về tay đại tướng Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn thấy con trai Lê Hoàn không hề kém cạnh, dã tâm liền nảy sinh từ đó. Năm 1010, Lý Công Uẩn định đô ở Đại Long Thành, kiến lập triều Lý trong lịch sử An Nam.
Bản thân Lý Công Uẩn thực ra là người Trung Quốc. Cho nên, trong thời gian tại vị ông ta hết sức đề cao văn hóa nội địa Trung Quốc, mở rộng chính sách Hán hóa. Vì thế, mặc dù giai đoạn này An Nam thoát li khỏi Trung Quốc, nhưng, mối liên thông về mặt văn hóa giữa hai bên không hề nhạt đi”.
Bài báo Trung Cộng viết rằng Lý Công Uẩn tức vua Lý Thái Tổ là người tỉnh Phúc Kiến bên Trung Quốc khiến dư luận trong và ngoài nước xôn xao và hết sức phẫn uất trước việc tập đoàn Việt gian Bán nước tổ chức “Cáì gọi là Ngàn Năm Thăng Long” đúng vào ngày quốc khánh 1-10-2010 của Tầu Cộng. Thế mà Tầu Cộng vẫn cố tình xuyên tạc bóp méo lịch sử Việt.
Ngón đòn tuyên truyền xuyên tạc lịch sử là món nghề của Tầu Cộng, tuy nhiên nó cũng làm người dân hết sức hoang mang, nhất là giới trẻ Việt Nam bị nhồi nhét lịch sử đảng từ bao lâu nay nên không hiểu rõ về lịch sử Việt bằng những bộ phim truyện truyền hình của Trung Quốc. Như chúng ta đã biết chính viện Sử học và viện KHXH CS đã phải viết theo nghị quyết của đảng CS nhất loạt cho rằng thời Hùng Vương chỉ kéo dài khoảng 300 năm và bắt đầu từ thời Trang Vương triều Chu (696-682TCN) như sách Đại Việt Sử lược do một tác giả vô danh biên soạn đã bị giặc Minh tịch thu tiêu hủy và chỉ còn có một bản lưu trữ trong “Thủ sơn các Tùng thư và Khâm định Tứ khố Toàn thư” đời Thanh. Bộ sử này được hiệu đính bởi Tiền Hi Tộ, sử quan triều Thanh nên đã sửa chữa nội dung kể cả tên sách Đại Việt Sử lược cũng bị sửa lại là Việt sử lược.
Chúng ta thấy rõ ngay bản chất thâm độc quỉ quyệt của Hán tộc xâm lược, các sử gia Hán đã sửa đổi niên đại thành lập nước Văn Lang, kéo lùi lại hàng ngàn năm hòng xóa bỏ vết tích cội nguồn quê hương xa xưa của Việt tộc ở Trung nguyên. Đồng thời xuyên tạc ý nghĩa cao đẹp của sự thành lập quốc gia Văn Lang qua việc một người lạ, dùng ảo thuật áp phục … Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập dân tộc thì chúng viết là bất mãn Tô Định bạo tàn nổi lên làm loạn !!! Sử quan triều Thanh là Tiền Hi Tộ, sửa đổi xuyên tạc, bóp méo lịch sử theo ý đồ “Đại Hán xâm bành trướng” đã chép về sự thành lập của quốc gia Văn Lang như sau:
“Đến đời Chu Trang Vương (696-682TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dung ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương, đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Phong tục thuần hậu, chất phác. Chính sự dung lối thắt nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương …”.
Cho tới ngày hôm nay, vẫn chưa có một bài báo phản bác nào của đảng CSVN mà ngay cả các nhà sử học Mác Xít dường như “Há miệng mắc quai” nên đành ngậm đắng nuốt cay mà thôi. Chính cái gọi là “Sử quan đóng khung” viết theo nghị quyết của đảng Cộng sản Việt Nam bán nước đã phủ nhận cội nguồn và đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội tồ quốc là một chứng tích tội ác, một vết nhơ của lịch sử Việt. Vấn đề của chúng ta là phải phục hồi sự thật của lịch sử dù bị khống chế bởi sức mạnh của kẻ thắng đã bị lớp mây mù của thời gian hang nghìn năm che phủ, sự thật của lịch sử sẽ được phục hồi dưới ánh sáng văn minh của nhân loại.
Để trả lời câu hỏi: “ Lý Công Uẩn có phải là người Phúc Kiến hay không?” Chúng ta phải tìm về nguồn gốc dân tộc Việt, địa bàn cư trú đầu tiên của Việt tộc thì chúng ta sẽ có một nhận thức rõ ràng hơn. Sự thật là không chỉ một mình Lý Công Uẩn mà còn dòng họ Trần cũng quê ở Phúc Kiến và cả Hồ Quý Ly, Hồ Thơm Nguyễn Huệ cũng người quê quán ở Nam Trung Quốc như sử gia Trần Trọng Kim đã chép trong Việt Nam Sử Lược. Đây là luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của đế quốc Tầu Hán ngày xưa và đế quốc Trung Cộng ngày nay.
Tuyên truyền để tuyên truyền nhưng sự thật lịch sử vẫn là sự thật muôn đời. Điều oái oăm nhất là chính cổ sử của Trung Quốc lại ghi rõ những sự thật lịch sử không phản bác được. Sử triều Thương là triều đại lập quốc của Hán tộc đã ghi rõ “Đời Cao Tông triều Ân, vượt Hoàng Hà đánh nước Quỉ Phương 3 năm không thắng”. Kinh Thư, Sử Ký Tư Mã Thiên và Bộ Trúc Thư Kỷ Niên chép Đời Vũ Định là vị vua thứ 22, lấy hiệu là Cao Tông năm thứ 32, đem quân đánh nước Qủi Phương và đóng quân tại Kinh (đất Kinh Việt thuộc châu Kinh sau này, thời Xuân Thu Chiến Quốc là nước Sở)Lãnh thổ tiều Thương lúc đó chỉ vỏn vẹn có hơn 2 tỉnh ở hạ lưu sông Hoàng Hà. Chung quanh là cộng đồng Bách Việt trải rộng khắp Trung nguyên tức lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Thực tế lịch sử này được Hội nghị Quốc tế các nhà Trung Hoa học (Sinology) trên khắp thế giới kể cả Trung Quốc và Đài Loan hội thảo tại đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 thừa nhận là Di Việt làm chủ Trung nguyên trước Hán tộc và các triều đại Thương, Chu tiếp thu văn hóa của Di Việt ở phương Nam. Sự thật lịch sử này được bản đồ National Geographic Company ấn hành năm 1991 ghi rõ từ hạ lưu lưu vực sông Hoàng Hà trở xuống là Di Việt với nền văn minh lúa nước đầu tiên trên thế giới.
Sách “Hậu Hán Thư” và sách “Địa lý Chí” chép rõ ràng hơn về cộng đồng Bách Việt như sau:: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên bảy tám nghìn dặm, người Bách Việt ở xen nhau, đều có chủng tính. Tên của các nhóm trong Bách Việt được sách “Lộ Sử”�tức sử của người Lạc Việt của La Tất đời Tống liệt kê như sau:�Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cầu, Bắc Đái, Khu Ngô.. gọi là Bách Việt. Trong những nhóm Bách Việt ấy thì Dương Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, nhóm Thương Ngô ở miền Nam tỉnh Quảng Tây. Nhóm Sản Lý tức Xa Lý ở miền Tây Nam tỉnh Vân Nam. Như vậy, theo sử sách Trung Quốc xưa gọi là Bách Việt là những nhóm người Việt ở rải rác khắp miền Hoa Nam phía Tây gồm cả đất Vân Nam, phía Nam gồm cả miền Bắc và Bắc Trung Việt. Sử sách thường gọi chung là miền Giang Nam và miền Lĩnh Nam”. Trong bộ Sử ký, Tư Mã Thiên sử gia chính thống của Trung Quốc viết rõ: “ Đông Việt hay Đông Âu trong thời Tần Hán đóng đô ở Vĩnh Ninh tức Vĩnh Gia là miền Triết Giang, Mân Việt thì ở đất Mân Trung tức miền Phúc Kiến, Nam Việt đô ở Quảng Châu miền Quảng Tây, Tây Âu (Âu Việt ở phiá Tây) ở phía Nam sông Ly miền Quảng Tây….”
Thư tịch cổ Trung Quốc đã thừa nhận một thực tế lịch sử đó là sự thành lập của các quốc gia thời Chiến quốc mà họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt (còn gọi là Vu Việt) của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà lên tới miền Giang Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi Dương Việt mà kinh đô là Cối Kê. Lý Tế Xuyên đã viết “Việt Điện U Linh” về nước Việt cổ xưa. Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Điền Việt ở Vân Nam, Quì Việt ở Tứ Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc VN.
Trong suốt dòng lịch sử Việt, mỗi lần Hán tộc xâm lược thì Việt tộc phải lui dần xuống phương Nam. Cuộc di tản ồ ạt nhất xảy ra vào thời Chiến Quốc năm 223 TDL, Tần đem đại quân tiến chiếm nước Sở. Tướng Tần là Vương Tiễn đánh chiếm Hồ Bắc, Hồ Nam rồi đem quân đuổi theo truy kích tàn quân Sở tới An Huy giáp biển Đông. Quân dân Sở kể cả Ngô, Việt phải di tản theo đường biển ra Đài Loan, xuống đảo Hải Nam và vào đất cổ Việt để hội nhập với cư dân Lạc Việt của Văn Lang đã định cư ở vùng châu thổ 2 con sông Hồng và sông Mã. Năm 2001, giáo sư Lâm Mã Lý một nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu: “Người Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần vói người Việt, Thái và các tộc người Mongoloid Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt trong đại chủng Bách Việt hoàn toàn khác với Hán tộc”.* Chính vì vậy, Tổng Thống Đài Loan, người Mân Việt Trần Thuỷ Biển chủ trương tách khỏi Trung Quốc thành lập một quốc gia riêng biệt không thuần túy vì lý do chính trị mà chính vì vấn đề chủng tộc.
Từ kết quả của các công trình nghiên cứu về văn hóa, dân tộc, khảo cổ, khảo Tiền sử và kết qủa có tính thuyết phục cao nhất là phân tích cấu trúc di truyền DNA đã xác định rõ rang là Việt tộc làm chủ Trung nguyên trước khi Hán tộc từ Tây Bắc tràn vào và cư dân Hoa Nam, Đài Loan, Việt Nam và cả Đông Nam Á là cùng một chủng tộc Việt.
Sự thật lịch sử này đã làm đảo lộn nhận thức sai lầm từ mấy ngàn năm nay về 2 chủng tộc Việt và Hán. Quan niệm sai lầm từ trước đến nay cứ cho rằng người Tàu Hoa Nam là người Tàu. Thực ra họ là những người Việt cổ còn ở lại Hoa Nam, qua hàng ngàn năm đã bị đồng hoá là người Hoa nhưng tuy bị đồng (giống) nhưng vẫn không hoá thành người Tàu được. Chúng ta phải gọi họ là “Người Hoa gốc Việt”, đồng bào của chúng ta. Nền văn hóa Hoa Bắc khác hẳn Hoa Nam, văn hóa Hoa Nam giống như văn hóa Việt vì đồng bào Hoa Nam chính là hậu duệ của người Việt cổ của chúng ta còn ở lại Nam Trung Hoa. Thế mà Sử sách xưa thường chép sai lầm rằng dòng họ Trần, họ Hồ … nguyên ở bên Tàu … sang Việt Nam lập nghiệp nên mới có quan niệm cho rằng vua ta ở bên Tàu sang Do đó, việc báo chí Trung Cộng viết Lý Công uẩn là người Phúc Kiến là đúng vì người Phúc Kiến chính là người Mân Việt. Từ trước đến nay, sách sử và chúng ta thường gọi sai lầm là cư dân Hoa Nam tức Nam Trung Hoa và Mã Lai Á, Tân Gia ba là người Hoa là sai lầm. Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi với những kết qủa thuyết phục nhất của khoa phân tích cấu trúc Di truyền DNA đã chứng minh rằng : “ Cư dân Nam Trung Quốc bây giờ chính là người Hoa gốc Việt mới đúng với sự thật lịch sử và người Hoa ở Chợ Lớn mà chúng ta thường gọi là người Việt gốc Hoa là một sự sai lầm. Họ chính là “Người Hoa gốc Việt”, đồng bào ruột thịt trong cộng đồng Bách Việt của chúng ta”.
tro ve dau trang
No comments:
Post a Comment