LỊCH SỬ NGÀY LỄ ÐỘC LẬP CỦA HOA KỲ
US Independence Day
- William Hoàng
*
Trong khoảng 10 năm kể từ 1775, mười ba tiểu bang đầu tiên ở Bắc Mỹ Châu đã kết hợp với nhau tiến hành một cuộc chiến chống Mẫu Quốc Anh để thành lập một quốc gia mới, trẻ trung, và lấy tên là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (The United States Of America).
Hàng năm, cứ đến Ngày 4 Tháng 7, Hoa Kỳ cử hành Lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ tức Independence Day để nhớ lại rằng sau nhiều năm thương thảo chỉ gặp những áp chế càng ngày càng khắc nghiệt hơn, Quốc Hội Lục Ðịa cuối cùng đã vùng lên đồng thanh chấp thuận đưa ra Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập (Declaration of Independence) vào ngày 4 Tháng 7, 1776, hai ngày sau khi đại biểu các tiểu bang biểu quyết dứt khoát đoạn tuyệt với Mẫu Quốc.
Vào ngày tuyên ngôn này, Hoa Kỳ chưa chuẩn bị để có lá quốc kỳ và bài quốc ca mới. Bài ca hồi đó là “Hail, Columbia”, lá cờ là Grand Union Flag có 13 sọc cùng hình lá cờ Anh ở góc trái, và chưa có ngôi sao nào. Cho tới ngày 14 tháng 7 năm 1777 Quốc Hội II Lục Ðịa Mỹ Châu mới ra nghị quyết nhìn nhận lá cờ hình chữ nhật có 13 sọc trắng và đỏ với 13 ngôi sao kết thành một vòng tròn trên nền xanh dương.
Nhân Ngày Lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ, xin cùng nhìn lại một số biến cố lịch sử đáng nhớ trong tiến trình hình thành Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ như:
Ai đã khám phá ra Châu Mỹ?
Tại sao Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu đã bùng nổ?
Tầm mức quan trọng của Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ như thế nào?
Và cuối cùng là Lòng ái quốc của nữ giới trong Cuộc Chiến Cách Mạng HK thể hiện như thế nào?
Ai là người khám phá ra Châu Mỹ?
Vào cuối thế kỷ 15, vua chúa ở Âu Châu quyết định tìm những lộ trình mới đi tới Ðông Phương. Tây Ban Nha (Spain, TBN) là nước đầu tiên mở rộng quyền lực về kinh tế và chính trị tại Tân Thế Giới (New World, Bắc Mỹ Châu).
Giương ngọn cờ biểu hiệu “Vàng, Chiến Thắng, và Chúa” (Gold, Victory, and God), các nhà chinh phục TBN đã chiếm lãnh nhiều vùng đất trù phú nhất ở Tân Thế Giới và đã khai thác rất nhiều tài nguyên thiên nhiên (vàng, bạc, đồng) khiến cho TBN trở thành một quốc gia mạnh nhất thế giới trong hầu hết ba trăm năm.
Có ba nhân vật khám phá Châu Mỹ trong giai đoạn đầu là:
(1) Leif Ericson, người Na Uy, đặt chân lên Châu Mỹ khoảng năm 1000. Cuộc khám phá của Ericson ít người để ý trong mấy thế kỷ.
(2) Amerigo Vespucci, người Ý, đến thăm bờ biển phía bắc Nam Mỹ Châu vào năm 1499. Bản tường trình về chuyến đi của ông được phổ biến rộng rãi. Năm 1507, ông Martin Waldseemüller, một nhà địa dư người Ðức, đọc một bản sao méo mó về câu chuyện của Vespucci, bèn kết luận Amerigo Vespucci là người khám phá ra Châu Mỹ và đề nghị đặt tên Châu Mỹ là America để vinh danh Vespucci. Ngày nay, nhiều người gọi mình là Americans nhưng ít người biết về Amerigo Vespucci.
(3) Cristoforo Colombo, nhà hàng hải người Ý, đặt chân lên Châu Mỹ (vùng biển Caribbean, Trung Mỹ) ngày 12 Tháng Mười, 1492 nhưng ông lại tưởng đó là những đảo ở Phương Ðông. Chính vì vậy, ông đã gọi thổ dân Mỹ Châu là Indians và danh từ không chính xác này đã trở thành thông dụng.
Tóm Lược Cuộc Ðời Christopher Columbus (1451 – 1506)
Trong ba nhân vật kể trên, Columbus được nhiều người chấp nhận là nhân vật có công nhiều nhất trong nỗ lực khám phá Châu Mỹ. Tại sao? Có lẽ bởi vì những bản tường trình chi tiết của ông về những miền đất ông khám phá ra qua những chuyến hải hành đã đặc biệt giúp cho Vua, Chúa Âu Châu cơ hội bằng vàng để bành trướng đế quốc.
Columbus sinh năm 1451, con của một thợ dệt ở Genoa (Ý). Ngay từ lúc còn trẻ, ông đã rất thạo nghề đi biển trong vùng Ðịa Trung Hải. Ông có thể là người đầu tiên tới Châu Á qua ngả Châu Phi vào năm 1488. Ông thuyết phục được Hoàng Hậu Isabella, Tây Ban Nha, chấp thuận trang bị cho chuyến thám hiểm của ông theo hướng tây để tới Châu Á.
Ngày 3, Tháng Tám, 1492, đoàn thuyền của ông gồm Santa Maria, Nina, và Pinta khởi hành rời cảng Palos có Vua Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella đưa tiễn. Columbus cứ yên trí rằng ông có thể tới quần đảo Indies (Á Châu) trên một lộ trình ngắn hơn theo hướng tây. Ông cứ giữ mãi định kiến này cả trong những chuyến đi tiếp sau này. Tất cả những nơi ông đặt chân không phải là vùng đảo Indies mà là một thế giới mới với những cây cỏ lạ và những sắc dân da đỏ như đồng mà ông gọi là Indians.
Ngày 12.10.1492, ông đổ bộ lên Ðảo Walting trong vùng Habamas. Sau khi khám phá ra Cuba và Hispaniola, ông trở về Tây Ban Nha (Spain) và được phong Ðô Ðốc (Admiral) và Thống Ðốc của các vùng đất mới khám phá và sẽ khám phá.
Ông tiếp tục tiến hành ba cuộc thám hiểm vùng Tân Thế Giới (New World). Tháng Mười 1493, ông khởi hành từ Tây Ban Nha với đoàn tầu 17 chiếc và chở theo hàng trăm người khai thác thuộc địa (colonists). Ông lập thuộc địa ở Hispaniola, khám phá ra Puerto Rico, Jamaica, Virgin Islands, và thám hiểm bờ biển Miền Nam Cuba. Trong chuyến đi lần thứ ba, 1498, ông nhìn thấy Nam Mỹ và khám phá ra Trinidad. Cuộc thám hiểm lần thứ tư và là lần cuối cùng (1502 – 04), ông cũng vẫn tiếp tục tìm con đường mới và ngắn nhất đi về hướng Tây để kiếm các vùng đất East Indies. Kết quả ông đã tới vùng bờ biển Trung Mỹ (Central America) ở Honduras và Panama.
Danh vọng và địa vị của ông lên rất cao nên đã gây nhiều ghen tị với nhiều quan chức trong nước cũng như ở các thuộc địa nên ông bị nhiều kẻ dèm pha. Vua Tây Ban Nha thất sủng ông và cử Francisco de Bobadilla thay thế ông làm Thống Ðốc. Ông bị xiềng xích chở về Tây Ban Nha rồi chết trong cảnh nghèo và uất ức vì tài sản và công lao của ông đã bị hầu như mất hết! Thật là vô cùng bất hạnh cho một nhà thám hiểm tiên phong đầy gan dạ, kiên trì, và nhiệt thành, đã đem lại cho Tây Ban Nha nói riêng và Âu Châu nói chung không biết bao nhiêu là vàng bạc lấy ở Tân Thế Giới. Ông mất năm 1506 trong nghèo nàn và hầu như bị lãng quên.
Columbus bị lãng quên mất một thời gian, nhưng cường quốc ở Âu Châu bấy giờ lại rất nhớ miền đất lạ đầy tài nguyên hấp dẫn ở Châu Mỹ và người ta đã đổ xô đến đó tìm vàng và lập thuộc địa. Năm 1620, con Tầu Mayflower rời cảng Plymouth, Anh Quốc, chở theo 102 di dân, vượt 3000 dặm xuyên Ðại Tây Dương, đổ bộ tại Princetown, Massachusetts. Rồi, các di dân định cư tại nơi ngày nay có tên là Plymouth, Mass. và được mệnh danh là “The Pilgrim Fathers” hay “Những Người Cha Hành Hương Tị Nạn”. Khoảng một nửa trong số Pilgrims đã chết trong mùa đông lạnh buốt năm đó.
Tuy nhiên một vài chi tiết lịch sử đáng nhớ là:
(1) Những người Pilgrims chọn William Bradford làm Thống Ðốc đầu tiên của họ và ông được tái cử 30 lần kể từ 1621.
(2) Bốn mươi mốt người trong số 102 Người Cha Hành Hương Tị Nạn, trước khi rời tầu, đã cùng nhau ký bản kết ước “Mayflower Compact” rằng họ sẽ tạo dựng tại Châu Mỹ một cơ cấu chính trị dân sự (a civil body politic) bảo đảm những luật lệ công minh và bình đẳng. Ðây là một tư tưởng hết sức tiến bộ và hẳn đã là ngọn lửa nung nấu ý chí tranh đấu trong cuộc chiến cách mạng ở Châu Mỹ và là tư tưởng nền tảng trong Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập.
*
Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu (CCCMMC)
và Tuyên Ngôn Ðộc Lập
Nguyên nhân và những yếu tố
đưa cuộc cách mạng đến thành công
Cuộc Chiến Cách mạng Mỹ Châu năm 1775 không kéo dài và ít đổ máu nhưng sự thành công của Cuộc Chiến Cách Mạng đó cùng với Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập đã có một ý nghĩa hết sức quan trọng không riêng chỉ đối với Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà còn đối với cả thế giới năm châu: sự thành công đó tạo một niềm hứng khởi say mê cho những con người vốn khao khát Tự Do của thời đại Bừng Sáng (Enlightenment) và là nguồn hy vọng tuyệt vời của những con người bị áp chế muốn vùng dậy đòi lại quyền làm người.
Tình hình Châu Mỹ La Tinh trước CCCMMC bùng nổ
Nhờ Christopher Columbus tình cờ khám phá ra Châu Mỹ trong những năm 1490, dân Âu Châu đổ xô đến đây để tìm vàng và lập nghiệp. Có hai sự kiện lịch sử:
(1) Jamestown ở Ðông Nam Virginia là ngôi làng đầu tiên của một số dân thuộc địa (colonist) người Anh ở Bắc Mỹ định cư vĩnh viễn vào năm 1607,
(2) Plymouth ở Ðông Nam Massachusetts là nơi những vị Tiền Bối Tị Nạn Tôn Giáo - the Pilgrim Fathers - đổ bộ từ con Tầu Mayflower vào năm 1620.
Từ đó, các nước cường thịnh ở Âu Châu như Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Bồ Ðào Nha, v.v. đã dần dần thiết lập các thuộc địa trên khắp dải đất rộng lớn và nhiều tài nguyên của Mỹ Châu với diên tích khoảng 17 triệu dặm vuông, đứng hàng thứ nhì thế giới sau Châu Á. Hoa Kỳ có diện tích khoảng 3 triệu 6 trăm ngàn dặm vuông đứng hàng thứ nhì sau Canada với 3 triệu 8 trăm ngàn dặm vuông. Miền Bắc Mỹ Châu lúc đó có 13 tiểu bang, mỗi bang đứng đầu là vị Thống Ðốc.
Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu bắt đầu bùng nổ với Trận Lexington và Concord (Tháng Tư, 1775) và với tiếng hô hào rất lớn của Patrick Henry “Cho Tôi Tự Do hay là Cho Tôi Chết” (Give Me Liberty or Give Me Death). Thi sĩ Emerson đặt hai câu thơ:
Hence once the embattled farmers stood
And fired the shot heard round the world
Nhập cuộc chiến các nông gia đứng dậy
Phát súng đầu nghe thấy khắp năm châu
Tại sao xẩy ra Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu?
Nguyên nhân dẫn đến Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu là sự bất mãn cao độ về chính sách thuế khóa quá cưỡng ép và không khoan nhượng, cùng với vấn đề quyền hạn của thuộc địa bị hạn chế qua sự kiện “đánh thuế mà không có sự đại diện” (taxation without representation) . Nguyên nhân sâu xa là người dân thuộc địa từ lâu vẫn hoài bão một cuộc sống tự do, bình đẳng, và độc lập đối với Mẫu Quốc Anh.
Cuộc cách nạng thành công nhờ những yếu tố nào?
Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu thành công nhờ 5 yếu tố chính:
Lòng bất mãn cao độ của dân thuộc địa Mỹ Châu trước sự ngoan cố của Anh Hoàng và Nghị Viện Anh.
Cuộc chiến được lãnh đạo bởi những nhân vật có tài và có đức, tiêu biểu là George Washington.
Ảnh hưởng của tham luận “Common Sense” cổ võ cho một nền cộng hòa độc lập.
Ảng hưởng của Bản Tuyên Ngôn Ðộc lập của nhóm Thomas Jefferson.
Lòng ái quốc của các bà trong Cuộc Cách Mạng Mỹ Châu.
(1) Tính Ngoan Cố của Anh Hoàng và Nghị Viện Anh quốc
Anh Hoàng, George III có tiếng là đần độn từ nhỏ (học dốt) và chuyên chế; các triều thần tỏ ra bảo thủ không chịu lắng nghe nguyện vọng của các thuộc địa và quyết tâm dẹp trừ phản loạn. Hai sử gia Hoa Kỳ ghi về George III, đại ý là “Năm 1760, George III lên ngôi. Ông vua 22 tuổi này không muốn chấp nhận ý kiến quyền hành của vua nên bị hạn chế. Mẹ ông ta nói với ông ta: ‘George, con phải là Vua’ và ông ta đã thực hiện câu nói đó của mẹ.”
Anh Hoàng ban hành các điều luật mới như Sugar Act, Stamp Act, Tea Act, Declaratory Act (thuộc địa là thuộc cấp, Nghị Viện có thể ban hành luật buộc dân thuộc địa phải tuân theo.), và Thuế Quan Townsenhd (đánh vào hàng hóa xuất nhập cảng) nhằm tăng giá biểu các loại thuế đánh vào thuộc địa để bù đắp cho cuộc chiến với Pháp (1754-1763).
Sự bất mãn bùng nổ qua sự kiện có tên là “Boston Tea”: Ngày 27.11.1773, Tầu Dartmouth chở 1700 thùng trà tới Boston. Ðám dân chống không cho đem trà xuống trong khi Thống Ðốc Hutchinson buộc phải thu thuế trà. Tới ngày 16.12, dân biểu tình giả làm những thổ dân lên tầu và đổ hết trà xuống biển. Tin này bay tới London, nhiều người ở Anh nghĩ là phải dạy thuộc địa một bài học. Anh Hoàng George III nói: “Ta phải buộc chúng phục tùng hay bỏ mặc chúng” (We must master them or leave them to themselves).
Mùa xuân năm sau (1784), Nghị Viện Anh ra “Những Ðạo Luật Cưỡng Chế” (Coercive Acts) và chuẩn bị đưa binh sĩ vượt 3000 dặm sang Mỹ Châu để dẹp loạn. Tại Mỹ Châu, Massachusetts, thủ phủ của dân thuộc địa tị nạn, kêu gọi một cuộc họp các đại biểu của tất cả các thuộc địa để nghiên cứu đưa ra hành động chung.
Quốc Hội Lục Ðịa Ðầu Tiên (First Continental Congresss) nhóm tại Philadelphia vào tháng Chín, 1774. Có nhiều tranh cãi về “Hòa” hay “Chiến”. Cuối cùng đa số chấp nhận lý luận của John Adams (sau này là Tổng Thống kế TT Washington): dân chúng thuộc địa phải cầm súng để bảo vệ các quyền của họ. Lúc đó, John Adams phát biểu: “Cuộc cách mạng đã hoàn tất trong tâm trí của dân chúng và Khối thuộc địa, trước khi cuộc chiến khởi sự. (The revolution was complete in the minds of the people and the Union of the colonies before the war commenced.)”
(2) Thân Thế và Sự Nghiệp
của George Washington (1732 – 1799)
(TC: The American Nation, tr. 106)
Dường như Washington sinh ra để trở thành một vị lãnh đạo có công lao lớn nhất dẫn dắt Cuộc Chiến Cách Mạng Châu Mỹ tới thành công. Ông thực sự xứng đáng được mọi người Hoa Kỳ gọi là “Cha của Ðất Nước” – “Father of His Country”.
Ông sinh ngày 22.2.1732 trong một gia đình trồng trọt thuốc lá giầu có ở Westmoreland, Virginia. Cha mẹ ông sở hữu chừng 10 ngàn mẫu và khoảng 50 nô lệ. Ông đối xử với các nô lệ rất tử tế và lịch sự, và không bao giờ đặt vấn đề ông có quyền sở hữu nô lệ. Ông không theo học chính thức trường lớp nhiều, nhưng có thày dạy kèm (tutors), đặc biệt dạy ông về công dân giáo dục. Ông siêng năng và rất kỷ luật.
Ông có một thân thể rất tráng kiện như cha ông: cao 6 feet và cân nặng 200 pounds. Giống như các bạn đồng lứa, ông rất ngưỡng mộ các vị anh hùng của thời Cộng Hòa La Mã tỉ như Cato the Young, nổi tiếng về tính thật thà và tận tụy với công vụ.
Ông không thích môn Văn nhưng giỏi Toán. Từ nhỏ đã có khiếu về khảo sát địa hình (survey). Năm 1749, ông làm trắc địa viên (surveyor) cho Công Ty Culpeper.
Năm 1752, ông gia nhập dân quân Virginia. Ông được phái tới Ohio River Valley ở đông Pennsylvanyia để tấn công một lực lượng nhỏ của Pháp để khởi sự Cuộc Chiến Pháp và Thổ Dân (French & Indian War) và trở thành Tư Lệnh của Dân Quân Virginia (1755- 58). Cuối 1758, ông từ nhiệm nghĩa vụ này vì: là một dân Mỹ Châu, ông sẽ không thể thăng tiến trong quân đội Anh Quốc mặc dầu ông dũng cảm và có tài quân sự.
Ông chuyển sang sự nghiệp chính trị bằng cách nhận một ghế trong Hạ Viện của Nhóm Burgesses (Ðại Biểu Thị Xã, 1759- 74), làm thẩm phán tòa hòa giải (1760- 74), quản lý sở đất Virginia của ông ở Mount Venon, và cưới bà Martha Dandrid ngày 6.1.1759.
Khi Cuộc Cách Mạng Châu Mỹ sắp bùng nổ trong giữa những năm 1770, ông đắc cử vào Quốc Hội Lục Ðịa Kỳ I (1774 – 75). Ngày 15.6.1775, Quốc Hội Lục Ðịa Kỳ II bổ nhiệm ông là Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Lục Ðịa. Ông nắm quyền chỉ huy vào ngày 3.7.1775. Ông đã xây dựng từ những binh đoàn kém huấn luyện và thiếu trang bị thành những đơn vị có kỷ luật và tác chiến tốt, và bảo vệ được Boston (1776). Tuy nhiên ông suýt bị tiêu tan sự nghiệp vì thất trận ở Long Island.
Sau những thành công trong các trận ở Trenton và Princeton, ông gỡ được một chút tín nhiệm. Ông tránh khỏi được một toan tính bãi nhiệm ông. Trong các năm 1777- 78, ông rút các đơn vị về thủ ở Valley Forge. Nhờ kết đồng minh với Pháp (1778) và Tây Ban Nha (1779), lực lượng của ông chiếm được Yorktown (1781). Khi hòa bình ký kết (1783), ông từ chức trở về trang trại ở Mount Vernon.
Bất bình với những Ðiều Khoản về Liên Hiệp Chế (Confederacy) 1781, ông đóng vai trò chính trong nỗ lực bảo vệ chấp nhận Hiến Pháp Hiệp Chủng Quốc và được Quốc Hội nhất loạt bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên. Ông làm lễ nhậm chức Tổng Thống vào ngày 30 Tháng 4, 1789. Tin tưởng mãnh liệt vào một chính quyền trung ương mạnh, ông thành lập ngành tư pháp liên bang (1789) và một ngân hàng quốc gia (1791). Năm 1792, ông lại được Quốc Hội nhất loạt bầu làm Tổng Thống nhiệm kỳ hai.
Trong nhiệm kỳ hai, nhìn thấy đã có nhiều dấu hiệu chia rẽ đảng phái, TT Washington đã đưa ra lời tiên đoán rằng “đất nước sau này chắc chắn sẽ rơi vào nạn chia rẽ đảng phái rất trầm trọng” và trong bài diễn văn từ giã cuối nhiệm kỳ hai vào Tháng Chín, 1796, ông phát biểu sẽ không nhận đề cử làm TT cho nhiệm kỳ ba và ông biện bác cho một quốc gia đoàn kết hơn là chia rẽ bởi các đảng phái, bởi các chính sách kinh tế, hay đối ngoại. Hết nhiệm kỳ hai, ông trở lại Mount Vernon vui thú điền viên.
Với đức tính liêm khiết, lòng kiên nhẫn, trái tim yêu công lý, và tinh thần trách nhiệm cao, ông là một vị lãnh đạo vĩ đại và rất xứng đáng với danh hiệu “Cha của Ðất Nước”. Ông qua đời ngày 14.12.1799.
Nhưng Cuộc Chiến Cách Mạng giành độc lập thành công hẳn nhiên còn nhờ tới những bài luận thuyết nẩy lửa của những nhân vật tài ba viết làm bùng lên khí thế đấu tranh rất mãnh liệt và kiên cường của đông đảo quần chúng.
(3) Ảnh Hưởng của Bản Tham Luận
“Common Sense” của Thomas Paine (1737- 1809)
Thomas Paine sinh trưởng ở Anh và là một nhà văn cấp tiến, một khuôn mặt lãnh đạo của Cuộc cách Mạng Mỹ Châu. Ông di cư sang Mỹ Châu năm 1774. Hơn 150 ngàn ấn bản tham luận (pamplet) Common Sense (Ý Thức Thông Thường) rất có ảnh hưởng của ông được bán ra năm 1776 thúc đẩy các thuộc địa tuyên bố hoàn toàn độc lập. Ông gọi Anh Hoàng George III là “Bạo Chúa” (Royal Brute) và nói với những người còn e ngại, sợ xệt: “Một chính quyền của chính chúng ta là quyền tự nhiên của chúng ta” (A government of our own is our natural right”).
Ông nhấn mạnh: “Hỡi nhân loại yêu quý! Chúng ta dám chống không phải chỉ với sự bạo ngược mà chống ngay cả tên bạo ngược nữa” (O! ye that love mankind! Ye that dare oppose not only tyrany but the tyrant itself!). Bản Common Sense ảnh hưởng mạnh trong Quốc Hội. Tháng 3, 1776, Quốc Hội phái các tầu võ trang chống thương thuyền Anh; cho mở các cửa cảng châu Mỹ cho tầu ngoại quốc vào; thúc đẩy các đại hội tỉnh hình thành hiến pháp và chính quyền tiểu bang. Ngày 7.6.1976, Richard Lee đưa ra bản quyết nghị của đại hội Virginia như sau:
Quyết Nghị: Rằng các thuộc địa thống nhất là và có quyền là những tiểu bang tự do và độc lập; rằng các thuộc địa xóa bỏ hết mọi liên thuộc với Vương Quốc Anh; và rằng mối liên lạc chính trị giữa các thuộc địa và Anh Quốc thì và phải là hoàn toàn giải tán.
(4) Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
Ðể chính thức tuyên bố cắt đứt mọi dính líu và lệ thuộc vào mẫu quốc, Quốc Hội Lục Ðịa thành lập một nhóm gồm năm nhân vật: Thomas Jefferson, Benjamin Flanklin, John Adam, Roger Sherman, và Robert Livingston với nhiệm vụ soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập. Thomas Jefferson được coi như là soạn thảo viên chính vì ông là một luật gia có văn tài và thông minh. Sau đó ông được cử làm Thống Ðốc bang VA (1779- 81) và bầu làm Tổng Thống hai nhiệm kỳ (1801 – 1809).
Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập (Declaration of Independence) được ký kết ngày 4 tháng 7 năm 1776 là một văn kiện đánh dấu kỷ nguyên mới của nhân loại trong thế kỷ 18 nói lên tiếng nói đoạn tuyệt với chế độ quân chủ để xây dựng một chính thể mới gọi là chính thể cộng hòa (the republic) với nội dung quyền hành của đất nước là của toàn dân. Ý niệm này xuất phát từ những tư tưởng trong các luận thuyết của các triết gia điển hình là Jean Jacque Rousseau (Pháp) viết cuốn “Nguồn Gốc của Sự Bất Bình Ðẳng của Con Người (Origin of Inequality of Man, 1755).
Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ vang dội khắp thế giới. Ðặc biệt là ở Pháp, Cuộc Cách Mạng 1789 đã đưa ra bản tuyên ngôn tương tự gọi là Tuyên Ngôn của Pháp Quốc về Quyền của Con Người (French Declaration of the Rights of Man).
Nội dung Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ như sau:
Chúng tôi coi những sự thật sau đây là hiển nhiên rằng mọi người sinh ra là bình đẳng, rằng Tạo Hóa ban cho họ một số quyền bất khả chuyển nhượng, rằng trong những quyền đó có quyền Sống, quyền Tự Do, và quyền theo đuổi Hạnh Phúc. Rằng để bảo đảm những quyền này, Chính Quyền phải được xây dựng bởi luật pháp và quyền hạn chính đáng của chính quyền phải xuất phát từ sự đồng ý của những Người Dân. Rằng bất cứ khi nào bất cứ một Hình Thức Chính Quyền trở nên phá hoại đối với những cứu cánh này thì Người Dân có Quyền thay đổi hay hủy bỏ chính quyền đó, và thiết lập Chánh Quyền mới. ...
Xin thưởng thức hai bài thơ xướng họa:
Mừng Lễ Ðộc Lập Hoa Kỳ
- Ngô Phủ, AZ, Bài Xướng
“Hai trăm hăm chín” tuổi chào đời
So với năm châu quá trẻ thôi
Dân Chủ phân quyền xa cựu chế
Công Hòa hợp chủng dựng tân thời
Văn minh Mỹ Quốc lừng muôn cõi
Kỹ thuật Hoa Kỳ vọng khắp nơi
Fourth of July mừng Quốc Khánh
“Hậu sinh khả úy” đúng như lời
*
Mừng Hoa Kỳ Ðộc Lập
-Hải Bằng.HDB, Bài Họa
Quyết rời mẫu quốc tái xây đời
Dân chủ đa nguyên đạt mới thôi
Ðộc Lập châm ngôn soi vạn thế
Tự Do lý tưởng sáng muôn thời
Phát huy Bình Ðẳng trên toàn cõi
Bảo vệ Nhân Quyền tại khắp nơi
Mở rộng vòng tay ôm tị nạn
Tạ ơn Nước Mỹ bút thay lời
*
Ngoài những lực lượng kiên cường và các bài viết hùng hồn, cuộc chiến giành độc lập cho Mỹ Châu còn dựa vào sự góp sức hết lòng của phụ nữ Hoa Kỳ. Họ đã toàn bộ đứng lên làm những công tác nâng cao tinh thần binh sĩ lúc đó đang xuống thấp và phải lui về tái bố trí ở Valley Forge.
(5) Lòng Ái Quốc của Các Bà
trong Cuộc Cách Mạng Mỹ Châu
Thật ra không phải tất cả mọi người đều hưởng ứng ngay phong trào cách mạng. Trái lại còn khá nhiều phân tử trung thành với mẫu quốc gọi là “bảo hoàng” (loyalists) vì tâm lý sợ hãi thế lực còn mạnh của Anh Quốc và vả lại họ chưa ý thức được thế nào là hạnh phúc, là tự do, và bình đẳng bởi vì họ đã quá quen với những nếp sống cũ: phục tùng và chịu đựng. Ngay cả đối với mười ba tiểu bang bỏ phiếu biểu quyết cho bản Tuyên ngôn Ðộc Lập, cũng chỉ có 9 đại biểu bỏ phiếu thuận; còn hai đại biểu bỏ phiếu chống là Pennsylvania và South Carolina và hai đại biểu lưng chừng là Delaware và New York.
Cuộc chiến ban đầu gây nhiều tổn thất cho thuộc địa vì quân số ít và trang bị thiếu thốn. Tin về quân Anh đã chiếm Chaleston, South Carolina, truyền tới Philadelphia trong tháng Năm, 1780, chính quyền và các thương gia lập tức tìm mọi cách gây quỹ yểm trợ cuộc chiến và nâng tinh thần của binh đội. Bỗng có một cuộc vận động không ai ngờ được là các bà ở Phila lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đứng ra lập hội nhằm kêu gọi tất cả các thuộc địa yểm trợ cuộc chiến. Cuộc vận động bắt đầu từ ngày 10.6.1780 và người có sáng kiến lập hội này là bà Esther de Berdt Reed 33 tuổi và là một người yêu nước kiên cường viết một bài vận động tâm lý có nhan đề là “Tâm Tình của một Phụ Nữ Mỹ” (The Sentiments of An American Woman) và trở thành chủ tịch của Hội Của Quý Bà (Ladies Association) .
Trong bản “Tâm Tình”, bà Berdt xác định rằng phụ nữ Mỹ phải cương quyết làm nhiều hơn là hứa suông (barren wishes). Bà nêu lên sự nghiệp vĩ đại của vị Nữ Anh Hùng Joan of Arc của Pháp (1412 – 1431), người nữ nông dân nghèo đã đứng lên hô hào giải phóng nước Pháp khỏi Anh Quốc. Bà hô hào phụ nữ Mỹ nên từ bỏ “các món trang sức tầm thường” (vain ornaments) và dành món tiền mua sắm quần áo lòe loẹt hay làm tóc kiểu để mua quà tặng cho binh sĩ gọi là “quà của Quý Bà” (the offering of the Ladies).
Lời kêu gọi này được đáp ứng ngay lập tức. Ba ngày sau khi bài “Tâm Tình của Một Phụ Nữ” xuất hiện, ba mươi sáu bà ở Philadelphia hội lại để quyết định làm thế nào tiến hành những đề xuất của bà Berdt. Những quyết nghị của họ in trong một phụ chương của bài Những Tâm Tình đăng tải trên báo Pennsylvania Zazette ngày 21.6.1780. Bản kế hoạch có nhan đề “ Những Ý Kiến, liên quan tới cách gửi tới Các Binh Sĩ Mỹ, các Món Quà của các Phụ Nữ Mỹ” và bản kế hoạch không đề nghị gì hơn là động viên toàn bộ nữ giới. Những đóng góp sẽ được nhận từ bất cứ một phụ nữ nào với bất kỳ số lượng nào. Môt “Nữ thủ quỹ” sẽ được chỉ định trong mỗi quận kiểm tra thu góp tiền bạc, ghi cẩn thận tất cả những khoản tiền thu. Kiểm tra những công việc của những nữ thủ quỹ quận sẽ là phu nhân của Thống Ðốc trong chức vụ “Nữ Tổng Thủ Quỹ”. Nhất loạt, tất cả các món quyên góp sẽ được gửi cho Martha Washington (phu nhân của George Washington) để tặng binh sĩ.
Công tác quyên góp được tiến hành ngay. Thành phố Phila chia thành mười khu, mỗi khu có hai tới năm bà phụ trách. Từng cặp vận động viên như vậy đi đến từng nhà quyên góp không trừ một ai. Nhóm vận động viên bao gồm đủ thành phần xã hội. Vào đầu tháng Bẩy, số tiền lạc quyên lên tới ba trăm ngàn đô la thuộc địa ($300, 000. dollars thuộc địa). Trong tháng Bẩy, báo chí khắp nơi tái đăng bài “Những Tâm Tình” kèm theo kế hoạch chi tiết về lạc quyên.
Các bà ở Trenton, New Jersey, là nhóm đầu tiên theo gương Philadelphia. Họ cũng cho đăng tải bài kêu gọi lấy tên là “Tâm Tình của Các Bà ở New Jersey”. Trung tuần tháng Bẩy, New Jersey chuyển số tiền khởi thủy $15,500. cho George Washington. Ở Maryland, hội các bà gửi $16,000. mới chỉ quyên góp ở thành phố Annapolis thôi. Chủ bút báo Pennsylvania Packet viết một bài đặc biệt gửi cho cư dân Matyland: “Phụ nữ ở mọi nơi trên hoàn cầu đang mắc nợ các phụ nữ ở Mỹ Châu vì họ đã tỏ ra rằng nữ giới có khả năng làm công đức chính trị cao nhất.” (the women of every part of the globe are under obligations to those of America for having shown that females are capable of the highest political virtue).
Số tiền quyên góp đã được dùng để làm gì? Kế hoạch sử dụng tiền quyên góp của các bà rất khác với kế hoạch của vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, George Washington. Ông muốn làm các áo sơ mi cho binh sĩ hơn bất cứ các món quà nào khác. Nhưng bà Esther Reed báo cáo rằng không những vải rất khó kiếm mà hơn nữa Pennsylvania đang có kế hoạch gửi hai ngàn áo sơ mi cho binh sĩ và hàng đã được chở từ Pháp qua nhiều rồi. Bà thêm rằng một số người đưa ý kiến là đổi hết số tiền ra dollar nặng và tặng cho binh sĩ mỗi người hai đồng để tùy nghi sử dụng. Tuy nhiên, bà viết thêm cho vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, George Washington, rằng nếu binh sĩ còn cần sơ mi thì Hội Các bà sẽ dành một khoản tiền để thực hiện.
Washington trả lời đại ý rằng: tặng tiền có thể sẽ tạo cho binh sĩ phạm ký luật nếu họ uống rượu. Nếu quý bà muốn sử dụng tiền tặng dữ làm phước đó tốt đẹp, thì nên mua sơ mi tặng cho binh sĩ. Rút cục các bà thực hiện đúng ý Washington. Bất hạnh thay, công việc chưa thực hiện xong thì bà Esther de Berdt qua đời vì bịnh kiết lỵ (1780) và công việc điều hành hội trao cho bà Sarah Flanklin Bache (con gái của Benjamin Flanklin) đảm nhiệm. Cho tới đầu tháng 12 thì đã hoàn tất hơn 2000 sơ mi có in tên của một bà đã lập gia đình hay chưa lập gia đình may tấm áo đó. Cuối tháng 12, số sơ mi được trao cho viên Tổng Quân Nhu ở Philadelphia.
Một người dân Philadelphia dấu tên viết: “Tôi thú nhận rằng chúng tôi đã tiến hành công việc một cách nghiêm trang và với lý do cao quý. Chúng tôi hy sinh từng giờ phút mà chúng tôi có thể dành ra từ những công việc nhà cho công ích. Chúng tôi quên tất cả những mệt nhọc vì sung sướng và hãnh diện là trong khi các binh sĩ chịu gian khổ và hiểm nguy trên chiến địa để bảo vệ chúng tôi thì chúng tôi ở nhà chỉ làm những lao động nhỏ thôi nhằm tạo những phút thoải mái và làm nhẹ đi những nỗi nhọc nhằn của họ.”
*
Tóm lại, Cuộc Chiến Cách Mạng Châu Mỹ mở đầu một kỷ nguyên mới của nhân loại, kỷ nguyên của Tự Do, Bình Ðẳng, và Tiến Bộ với một quốc gia mới, rất trẻ trung được khai sinh, đó là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (The United States of America). Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập minh định “Mọi người sinh ra bình đẳng” và “Quyền hạn của chính quyền phải xuất phát từ sợ đồng ý của người dân”. Ðó là những tư tưởng hoàn toàn mới mẻ và đầy hấp dẫn khi mà những hình thức và tập tục của chế độ quân chủ vẫn còn ngự trị trong tâm trí nhiều người.
Pháp là nước đầu tiên noi gương Hoa Kỳ tiến hành Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 nhằm triệt hạ chế độ quân chủ của Louis XVI và nhân ngày lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ thứ 100, nước Pháp tặng Mỹ Quốc bức Tượng Nữ Thần Tự Do hiện đặt trong cảng New York.
Hoa Kỳ vẫn phải tự cho mình trách nhiệm bảo vệ và phát huy những lý tưởng nêu trong bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập trên mô hình toàn cầu trong ý niệm về Một Nền Trật Tự Mới Thế Giới (A New World Order).
*
Trân trọng cảm tạ,
William Hoang
====================================================
========================================================