Một Quỷ luận mất công phí sức:
“Hãy Can Đảm Định Hướng Đi Ra Biển.”
Tuệ VânTâm Thức Việt Nam
Jun 3, 2009
NgheTải xuống để lưu giữ
Bài viết 13 trang “Hãy Can Đảm Định Hướng Đi Ra Biển” ký tên Nguyễn Văn Lục đã cho người đọc một cảm giác bàng hoàng. Tên thì là tên Việt mà ý thì lại như ý của một kẻ theo Tầu vừa đe dọa vừa giải thích về những mối nguy hiểm, sự lợi hại trong vấn đề tranh chấp lãnh hải lãnh thổ với Trung Quốc:
Thôi thì Trung quốc vĩ đại có ưu thế tuyệt đối trên đất liền, Việt nam không còn cách nào khác chống cự ngoài cách nhào ra biển tìm lối sống. Nội dung thuyết phục có thể tóm tắt trong sáu điểm chính như sau.
Thứ nhất, sức mạnh siêu đẳng của Trung Quốc; thứ hai, sự thất thế của VN khi có chiến tranh với TQ vì khối người Hoa có mặt tại VN; thứ ba, sự vô dụng của Liên hiệp quốc và của luật pháp quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp ranh giới biển giữa VN và TQ; thứ tư vị trí yếu kém hiện nay của VN so với TQ, mà nguyên do là vì lãnh đạo CSVN đã phụ thuộc xin xỏ TQ trong quá khứ ; thứ năm, TQ có ưu thế tuyệt đối trên đất liền, Việt Nam không còn đất Nam tiến như xưa; thứ sáu, tài nguyên biển phong phú đủ mặt, tương lai mới cho VN là biển, hãy quay lưng bỏ đi 6 tỉnh miền Bắc có chung biên giới với Tàu cho TQ vốn có sự phát triển gắn liền với đất mà đi về phiá biển là tiềm năng để phát triển đất nước Việt Nam tương lai.
Những gì chứng minh cho những nhận định trên? - Thứ nhất, về sức mạnh siêu đẳng của đại cường Trung Quốc, Nguyễn Văn Lục nêu ra số dân khổng lồ, và cụ thể là qua khả năng phô trương tạo khâm phục trong Thế vận hội Bắc Kinh, trong vấn đề Tây Tạng, trong các thách thức Mỹ qua việc giữ tầu Mỹ Impeccable và bắt máy bay Mỹ EP3, vân vân…
Tất cả được tóm tắt bằng dẫn chứng kết quả thăm dò của viện Harris năm 2008: “Trung Quốc là mối đe dọa số một của thế giới.” - Thứ hai, về sự thất thế khi đối đầu và có chiến tranh với Trung Quốc, thì có ba lý do: lực lượng Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam sẽ trở thành đạo quân thứ năm, lũng đoạn từ bên trong; Lê Duẩn đã tìm cách “xích xê” ra khỏi TC mà không dễ, và chỉ nhận được những bài học đớn đau.
Ngoài ra thì là sự chênh lệch to lớn của lực lượng quân đội hai bên VN /TQ, thêm vào đó là mấy xa lộ nối liền VN và TQ mới xây, giúp TQ chuyển quân nhanh chóng. - Thứ ba, sự vô dụng của Liên hiệp quốc và luật pháp thế giới trong vấn để xác định ranh giới biển, không đưa bằng cớ nhưng ai cũng có thể thấy. -Thứ tư, là tư thế yếu kém của lãnh đạo VC so với TC mà NVLục cho là vì đã nhờ vả lệ thuộc vào TQ trong quá khứ, như Hồ chí Minh đi sang Tầu cầu viện chống Pháp.
Nhân đây thì cũng nói ngay rằng điểm này không phải là đặc thù của tương quan Hà nội - Bắc Kinh, mà là sự yếu kém của lãnh đạo hiện nay đối với tất cả các nước trên thế giới. Nếu những người này mà có được đón tiếp khi đi ra ngoại quốc thì chỉ vì là lý do ký kết giao kèo buôn bán hay khai thác đất nước có lợi cho những nước đón tiếp họ mà thôi.
-Điểm thứ năm, là Việt Nam đã hết đất Nam tiến rồi, không còn có thể Nam tiến như quá khứ nữa. -Điểm thứ sáu, tài nguyên biển phong phú, chi bằng bỏ đất, bỏ 6 tỉnh miền Bắc giáp tiếp với Tầu, và phóng ra biển. NVL viết “Ít lắm có một số định hướng căn bản cho tương lai biển ở các lãnh vực sau đây: đánh bắt hải sản, hàng hải bao gồm vận tải, đóng tầu biển và cảng biển, khoáng sản biển, du lịch biển và lấn biển.” Và, “Nhưng có lẽ cái điều tối quan trọng liên quan đến sinh mạng đất nước lại là vấn đề địa lý chính trị bắt buộc Việt Nam không nên bám vào đất.
Nhất là mỏm đất 6 tỉnh dính liền biên giới với Tầu cộng sản. Lịch sử Việt tộc là lịch sử ngàn năm hệ lụy, đắng cay ở quá khứ và ô nhục của hiện tại. Chỉ vì dính dáng đến đất liền. Nay cộng thêm với giòng sông Cửu Long đầu nguồn cho thấy Trung Cộng có ưu thế tuyệt đối trên đất liền." Không cần nói đúng sai, những luận cử của NVLục không thể nào có tính thuyết phục đối với những người Việt Nam cho tới nay đã luôn luôn chiến thắng mọi kẻ thù mạnh mẽ hung hiểm hơn mình gấp trăm, ngàn lần, và được hun đúc bằng những danh ngôn bất hủ.
Như của Trần Hưng Đạo “nếu đầu hàng xin hãy lấy đầu thần đi trước”, hay của Trần Bình Trọng “ta thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc”, hay của Triệu Trinh Nương “ta muốn vượt biển Đông, đạp làn sóng dữ chứ quyết không cam tâm lảm tỳ thiếp cho người”. Và cũng không quên lời dặn của một vị vua đã đánh bại quân Mông Cổ bách chiến bách thắng là Trần Nhân Tông “một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.
Chắc cũng hiểu điều này cho nên NVL đã viết, viết để thuyết phục, bằng cách khích động cái can đảm thiếu suy nghĩ: “Phải có can đảm và có đủ lòng yêu nước để quay lưng lại với phương Bắc và tìm đường ra biển.”
Nhưng vô ích, thiếu suy nghĩ cân nhắc chưa bao giờ là một đặc tính Việt Nam. Rút cục thì “Hãy cam đảm định hướng đi ra biển” xem ra chỉ là một quỷ luận tốn công phí sức. Tuệ Vân Ngày 3 tháng 6 năm 2009 LTS: Bài viết ký tên Nguyễn Văn Lục được đăng kính kèm.
------------ --------- --------- -----
Hãy can đảm định hướng đi ra biển Nguyễn Văn Lục
Trước những biểu dương quân sự và những lời công bố có tính cách “cảnh báo” trên biển Đông của Trung Quốc trong những ngày gần đây, các quốc gia trong vùng đang lo ngai. Nhất là các quốc gia Châu Á lục địa có biên giới đất liền với Trung Quốc.
Thứ đến là các quốc gia mà có nhiều người gốc Tàu cư ngụ làm ăn. Nhưng kẻ lo ngại nhất vẫn là Việt Nam. Bởi vì Trung Quốc có thể tự coi mình là NATO phương Đông và coi Việt Nam trở thành Cuba phương Đông. Việt Nam bị du vào cái thế tiền đồn, đứng mũi chịu sào mỗi khi có khủng hoảng chính trị. Thực tế, VN có đủ thứ để lo ngại.
Lo ngại vì có biên giới đất liền và biên giới biển với Trung Quốc. Chưa kể có hàng ngàn năm lịch sử chung và nửa thế kỷ là đồng chí “môi hở răng lạnh”. Trong quá khứ, mối giao hảo giữa VN và Trung Quốc không lành mạnh. Lúc nào cũng ở thế nước mạnh-nước chư hầu.
Trong 1000 năm độc lập của VN, 5 lần Trung Quốc xua quân sang Việt Nam. Không kể một lần quân Mông Cổ làm chủ Trung Hoa cũng xua quân sang đánh VN. Dù sao những cuộc chinh phạt ấy cũng chỉ đòi hỏi có một điều là: ý chí thần phục bằng cách Triều cống. Mất mát của ta cùng lắm là cái thể diện.
Cái lần thứ năm vào năm 1979, Trung Quốc cũng chỉ muốn dạy cho VN một bài học “luân lý” là phải biết “nhớ ơn”. Còn phía VN thì gọi đó là bọn “Bành trướng Bắc Kinh.”
Nhưng nay nếu có chiến tranh thì đã hẳn không phải như vậy nữa. “Hiểm họa dân số” Trong số gần một tỉ rưỡi người Trung Hoa hiện nay, có khoảng 10% dân số người Hoa ở các nước Đông Nam Á. Nhưng lại chiếm đến 80% tài sản của các nước ấy. Ở đây không kể đến người Tàu Đài Loan và Hồng Kông.
Cũng không muốn nói tới tình trạng xâm lăng bằng đồng hóa chủng tộc như hiện nay ở Tây Tạng. Có nơi thì tỉ lệ ấy lên đến 25%. Nhưng có trường hợp như Singapore, 90% dân số ở Singapore là người gốc Hoa. Những người gốc Hoa ấy lại giàu và mạnh.
Đã có một tổng thống Mỹ da đen, đến một lúc nào, ai có thể nói trước là có một tổng thống người gốc Hoa ở Indonésia, Malaysia, Thái Lan? Bình thường thì không sao cả. Nhưng hễ có chuyện thì những người Hoa ấy sẽ ngả về phía nào? Đó là trường hợp không ngoại lệ đã xảy ra cho VN vào năm 1979.
Trước 1975, có 200. 000 người Hoa ở phía Bắc và 1.200.000 ở phía Nam là có vấn đề chứ không phải là không có. Trong cuộc chiến tranh biên giới. Phiá VN cũng bắt được một văn kiện tuyệt mật của Quân Ủy Trung Ương đảng cộng sản Trung Quốc do tên Lê Xuân Thành, sinh 1949, tại Quảng, Đông Trung Quốc cung khai. Trong văn kiện có đoạn như sau: “Nước ta và nhân dân Việt-Nam có mối hận thù dân tộc hàng ngàn năm nay. Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ.
Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yêu nước, nhờ đó có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay. Về bề ngoài, chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta. ”
Việt Nam cũng tịch thu được một thư của sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội xúi giục người Hoa ở Đà Nẵng chống Việt Nam, thư do can phạm tên Hàng Phú Quang, bị bắt tháng 7, 1978. Xin trích một số đoạn:
1/ Toàn thể Hoa Kiều tại miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam phải đoàn kết, nhất trí để đối phó với hoàn cảnh đặc biệt. 2/ Phải chú ý theo dõi đài phát thanh của Tổ Quốc. 3/ Hoa kiều về nước thì phải đợi chỉ thị, chờ nhân viên ngoại giao đến có chỉ thị rõ ràng để lo liệu. Sau đó tuần tự lên tàu về nước. 4/ Không nghe chính quyền địa phương lừa gạt ghi là người Việt gốc Hoa làm thủ tục xin xuất cảnh về Trung Quốc. Vì như vậy sẽ bị tổn thất nặng nề về động sản và bất động sản của tư nhân. (Trích tóm lược chương 5, từ trang 100-111 trong Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quôc. Một văn kiện do Bộ Ngoại Giao nước CHXHCN Việt Nam công bố ngày 04/10/1979, do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành tháng 10-1979. In 65. 000 ấn bản, tại nhà máy in Trần Phú, TP Hồ Chí Minh).
Chính phủ Trung Quốc đã dùng vấn đề người Hoa để chống VN từ bên trong. Lãnh đạo Trung Quốc coi người Hoa ở VN là kiều dân Trung Quốc để đòi quyền lãnh đạo những người ấy. Họ đã tổ chức màng lưới gián điệp người Hoa trên đất VN. Họ cũng đã phát động phong trào trở về Trung Quốc hàng loạt.
Phải nhìn nhận, đây là một hiểm họa tiềm ẩn. Người Hoa tại nước ngoài cũng như ở VN trở thành đạo quân thứ năm của Trung Quốc nhằm phá rối VN. Hiểm họa về mối liên hệ Đồng chí-Kẻ thù Nếu không nhờ vả, nếu không lệ thuộc, nếu không là đồng chí, mối giao hảo giữa hai bên có thể quân bình hơn.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, cộng sản VN hiểu rõ cái thế và vai trò của họ giữa hai nước đàn anh lớn. Có lẽ chỉ mình Hồ Chí Minh đóng trọn vẹn vai trò đi dây này, cố gắng giữ được thế quân bằng quyền lực giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Vì thế, giai đoạn từ 1950, do sự phải nhờ cậy Bắc Kinh trong cuộc chiến tranh Đông Dương và cũng do sự khéo léo, mềm dẻo của Hồ Chí Minh mà mối liên hệ Việt-Trung tạm được yên ổn. Nay những tài liệu phía Trung Quốc tiết lộ cho biết nhiều điều. Xin tóm tắt trong: Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống pháp.
Hồi ký những người trong cuộc. Bài viết của La Quý Ba(1): Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Người dịch: Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy. Dương Danh Dy hiệu đính. Dương Danh Dy nguyên là bí thư chính trị tòa đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc).
‒ Tháng 1-1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương đảng cộng sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp…
‒ Bước đầu tiên viện trợ VN là để khai thông giao thông biên giới Trung Việt, vì có thể vật tư viện trợ mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi. ‒ Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14/10/1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông: “Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn chiến dịch Thất Khê-Cao Bằng (Chỉ chiến dịch biên giới).
Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của đảng Cộng sản Trung Quốc, đảng cộng sản Liên Xô... Tóm lại tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông, cách mạng quốc tế chủ nghĩa.” Viện trợ của Trung Quốc là viện trợ không điều kiện, chính phủ Trung Quốc không lấy tiền, đòi nợ Việt Nam, không ký bất cứ thỏa thuận hoặc hiệp định bất bình đẳng nào với Việt Nam.
Trong những bài viết khác của Trương Quảng Hoa, ông ta kê khai từng chi tiết một về sự giúp đỡ của Trung Quốc cho VN đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Chỉ nhắc lại một điều thôi. phái đoàn Phạm Văn Đồng đi phó hội Geneva gồm 30 người đến Bắc kinh. Bọn họ không có ai có lấy một bộ áo veste. Trung Quốc đã may cho mỗi người hai bộ veste để đi phó hội Geneva.
Lệ thuộc đến thế thì thôi nên không lạ gì các quyết định quan trọng đều do Chu Ân Lai đề xướng ra cả (Đọc thêm tài liệu: Chu Ân Lai và Hội Nghị Geneva của Tiền Giang (Qian Jiang, Zhou Enlai yu Rineiwa huiyi [Zhou Enlai and the Geneva Conference] - DCVOnline), người dịch Trần Thu Minh. Người hiệu đính: Dương Danh Dy, do Trung Cộng Đảng xứ xuất bản xã, 2005, tài liệu tham khảo nội bộ). ‒
Trong đại hội lần thứ hai của Đảng, người ta còn ghi lại được những đoạn như sau: “Đảng Lao động Việt Nam lấy học thuyết của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng VN làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam của tất cả mọi hành động.
Có thể nói đó là sự thể hiện tình hữu nghị chiến đấu khắng khít giữa hai nước Việt-Trung như môi với răng.” ‒ Trong kỳ Đại hội thành lập đảng lao động VN, bức điện gửi cho cộng sản Trung Quốc có đoạn sau:
“Đảng Lao động VN nguyện noi gương anh dũng đảng cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường Đôc lập và tự chủ”. (Trích tóm tắt trong Hồi ký Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan. Hồi ký Cách Mạng, trong Talawas.org, 12/10/2006) ‒
Ngay cả võ Nguyên Giáp khi còn ở bên Tàu cũng cắp sách đi học người Tàu ở học viện Mác Xít do người Tàu truyền thu. Điều này, ông không hề tiết lộ ra trong các sách của ông. Nhưng chắc là ông có kể lại cho tác giả người Mỹ, Peter Mcdonald, người được độc quyền phỏng vấn Võ Nguyên Giáp. Peter Macdonald viết lại như sau: “Because of his lack of formal training, it was Ho Chi Minh’s intention that Giap should study at the Institute of Marxism-Leninism in Yenan in China, but two weeks after he set off to go there, in June 1940, the Germans captured Paris...”
Ở một đoạn kế tiếp McDonald viết: “With Phạm Văn Đồng, he went to Chinghi in China. There, Giap-whose alias at the time was Duong Huai-nan learned to speak and write Chinese and also studied the strategy and tactics of the communist Chinese army, putting what he learned into print in a pamphlet called “Chinese Military Affairs” (Trích The victor in Viet Nam GIAP, Peter Macdonald, trang 26-27).
Với sự tiết lộ của Peter Macdonald giúp làm rõ điều mà các tác giả Tây Phương vẫn cho rằng, ông Giáp là một thiên tài quân sự, chỉ học hỏi qua sách vở những chiến thắng quân sự của Napoléon hoặc do thu thập bởi kinh nghiệm mà không kinh qua bất cứ trường ốc nào.
Mặc dầu được sự giúp đỡ tối đa, vô điều kiện của Mao Trạch Đông, trong sách của ông Võ Nguyên Giáp như cuốn: Đường Tới Điện Biên hay: Điện Biên Phủ-Điểm Hẹn Lịch Sử, tướng Giáp thường né tránh khéo léo những trợ giúp của Mao Trạch Đông. Cũng vậy, ba cuốn: Điện Biên Phủ, Qua Những Trang Hồi Ức, Các Sĩ Quan đã từng tham dự chiến trận Điện Biên Phủ hầu như không một ai nhắc xa gần đến sự tiếp viện quân sự vô điều kiện và không hoàn lại của cộng sản Tàu.
Phải chăng, đây là một trong những nguyên cớ làm Trung Quốc bực bội về sự “vô ơn” và phản bội về phía Việt Nam? Và phải chăng cũng vì thế, nay tài liệu sử liệu của Trung Cộng cố tình bạch hóa công khai sự giúp đỡ này? Sau đó, mối liên hệ đồng chí anh-em với Trung Quốc trở nên lạnh nhạt và căng thẳng nhất là khi Lê Duẩn ngả theo Liên Xô, ký thông cáo chung năm 1964.
Lê Duẩn kéo theo một đám đồng chí có luận điệu chống Trung Quốc trong ngành Tuyên Huấn như Tố Hữu, Trần Quỳnh, Hoàng Tùng. Trong ngành ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch. Trong quân đội có Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Vịnh.
Trong ngành Công an như Trần Quốc Hoàn, Trong Viện Kiểm sát như Hoàng Quốc Việt. Và quan trọng nhất và đáng tin câỵ nhất là Lê Đức Thọ, Trưởng Ban tổ chức Trung Ương đảng. Sự trả đũa của Trung Quốc Năm 1974, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của miền Nam.
Hà Nội đành im lặng, nhưng không phải là chấp nhận hay đống ý. Mối nghi ngờ giữa hai bên thêm trầm trọng. Nhưng Trung Quốc khó có thể chấp nhận việc VN ngả theo Lỉên Xô. Nhất là kể từ khi Liên Xô viện trợ ồ ạt xe tăng, võ khí, đạn dược cho cuộc xâm chiếm miền Nam.
Vì thế, Đặng Tiểu Bình tuyên bố với các nhà báo ở Bắc Kinh như sau: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt Nam, miễn là 30% dành cho Trung Quốc.” Càng ngày mối liên lạc hai bên càng xấu đi. Ngay khi Sài Gòn vừa mất sau ngày 30/04/1975, nòng súng bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì ngày 04/05, quân đội Pol Pot xua quân chiếm đảo Phú Quốc, ngày 08/05 đột nhập vào Tây Ninh, ngày 10/05, chiếm đảo Thổ Châu.
Quân đội Bắc Việt được lệnh quay nòng súng về phía Cam pu Chia. Đằng sau Cam Pu Chia có sự yểm trợ quân sự của Trung Quốc và Thái Lan. Sau này vào ngày 31/07/1978,ông Hua Guofeng (Hoa Quốc Phong) nói: “Cuộc chiến đấu của nhân dân Kam-Pu-Chia là chính đáng và cuối cùng nhân dân Kam-pu-chia sẽ chiến thắng, chúng tôi ủng hộ nhân dân Kam-pu-Chia.”
Hầu như toàn thể nhân dân miền Nam sau 30/04/1975 đều không hề hay biết có một cuộc chiến tranh ở biên giới phía tây VN. Hà Nội đã dấu kín việc này. Thật sự là đánh nhau với Pol-Pot, nhưng gián tiếp là đánh nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tình hình giữa hai bên càng căng thẳng. Ngay từ 1975, Trung Quốc cắt các khoản viện trợ không hoàn lại. Ngưng các công trình xây dựng như cầu cống, đường lộ.
Nhất là kể từ năm 1978, cắt các khoản viện trợ về trang thiết bi. Trả về các sinh viên đang theo học ở bên Tàu. Ngày 22-12-1978,cắt đường xe lửa nối liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cuối cùng, đóng cửa toà Lãnh sự VN tại Quảng Châu. Gọi đại sứ Tàu về nước. Và rồi việc phải đến đã đến. 1979, Trung Quốc xua quân sang xâm chiếm biên giới VN, ngay sau khi Đặng Tiểu Bình từ Washington trở về, để dạy cho VN một bài học. Phải chăng đó là bài học phải biết ơn và không được phản bội? Câu nói của Hồ Chí Minh thật là vô nghĩa trong lúc này: “Việt-Trung hai nước thắm tình hữu nghị, vừa là bạn bè, vừa là đống chí.” Nay thì phải thêm vào cho đủ nghĩa: Vừa là kẻ thù.
Có lẽ người hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc chiến Trung-Việt vẫn là Mỹ, vì họ phá vỡ được khối Liên Minh Cộng Sản Châu Á mà không tốn một viên đạn. Mối hiểm nguy địa lý-chính trị (Geopolitics) Việt Nam có chung biên giới phía Bắc với Trung Quốc, giáp ranh các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của họ. Họ tự coi Trung Quốc là trung tâm mà chung quanh là chư hầu.
Trong nước, họ rao truyền một chủ nghĩa Đại Dân Tộc đi theo với chủ nghĩa Bành trướng đại dân tộc và và chủ nghĩa bá quyền nước lớn. Bá quyền nước lớn nói theo ngôn ngữ ngoại giao bây giờ thì gọi đó là những “vùng ảnh hưởng.” Trung Quốc càng phát triển thì càng có tham vọng chủ quyền: Phát triển đi đôi với Chủ quyền. Ý đồ đó đã có từ lâu, từ lúc còn nghèo nàn, chậm tiến qua lời tuyên bố của Mao Trạch Đông năm 1956: “Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học và kỹ thuật, công nghiệp. Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.” Ở chỗ khác, nói thẳng thừng hơn: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta.” “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ma-lai-xia và Singapore.
Một vùng như Đông Nam Á Châu rất giầu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy.” Chu Ân Lai có lần nói với các đại biểu đảng Cộng sản Việt Nam: “Nước chúng tôi thì lớn, nhưng không có đường ra, cho nên rất mong đảng Lao động VN mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Châu Á”. (Trích lại trong chương 1, Việt Nam trong chiến lược của Trung Quốc, trang 5-21 trong sách Sự Thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, nxb Sự Thật) Trong bản đồ của họ, những đường “vẽ chấm” là biên giới của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng.
Những vùng đánh số l à những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1,17,18), Miến Điện (số 6) Nê Phan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Cam-pu-chia v. v… (Trích sách đã dẫn). Thôi thì toàn vùng vừa nêu, trên đất liền cũng như trên biển đều là vùng ảnh hưởng mà Trung Quốc muốn Việt Nam, các nước trong vùng đến Mỹ phải nhìn nhận.
Vụ máy bay Mỹ EP3 bắt buộc phải đáp xuống Hải Nam là lần đầu. Và lần thứ hai, một tàu khảo cứu biển của Mỹ Impeccable lại thêm một rắc rối nữa. Và mới đây Trung Quốc đưa tàu ngư chính ra hoạt động ở Biển Đông. Tất cả những rắc rối ấy Trung Quốc muốn chứng tỏ họ là chủ quản các vùng biển Đông mà bất cứ ai cũng phải biết rõ chủ nhà là ai? Cái nguy hiểm của VN là nằm lọt thỏm trong Vùng ảnh hưởng mà muốn nhích xê ra một chút cho dễ thở cũng không hẳn dễ. Lê Duẩn đã muốn và đã làm.
Nhưng kết quả là đã nhận được những bài học đắt giá. Và tiếp theo là biết bao nhiêu bài học? Xâm chiến VN rồi gây căng thẳng ở biên giới. Tiếp tục chiếm đóng trên 10 địa điểm trên lãnh thổ VN, vi phạm trắng trợn đường biên giới do lịch sử để lại mà cả hai bên đã thỏa thuận.
Nhưng đừng tưởng bây giờ họ mới có ý đồ xâm chiến VN. Cách đây hơn 30 năm, ngày 18/01/1974, họ đã đòi VN không được tiến hành thăm dò dầu khí tại vịnh Bắc Bộ trong một khu vực rộng 20.000 kilô mét vuông. Đến ngày 19/01/1974, một ngày sau khi họ nhận đàm phán với VN về vịnh Bắc Bộ, họ đã dùng lực lượng hải quân và không quân tiến đánh “quân ngụy” Sài Gòn và chiếm quần đảo Hoàng Sa từ lâu vẫn là bộ phận lãnh thổ VN” (Trích chương 4, từ trang 76-90, sách đã dẫn).
Tìm một lối ra cho Việt Nam Mối giao hảo giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn luôn có những bất ổn chính trị, quân sự và nay là vấn đề biên giới đất liền, nhất là biên giới Biển. Biên gìới đất liền thì coi như “tạm xong” với lễ ký kết cắm cọc mốc. Mặc dầu vậy, ngay các đại biểu Quốc Hội cũng không được bá cáo đầy đủ về nội dung các bản Hiệp định đã được ký kết. Cho nên, vào ngày 25/03 vừa qua, Thường vụ Quốc Hội phát biểu muốn được nghe báo cáo về tình hình cắm mốc biên giới. Biên giới biển vấn đề chưa được giải quyết ổn thỏa bằng luật pháp Quốc tế hay sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. Những giải pháp trên xem càng ngày càng khó thực hiện.
Chỉ còn con đường ngoại giao, nếu VN ở thế mạnh. Và nếu không được nữa thì chỉ có thể nói với nhau bằng sức mạnh của khẩu súng? Mới đây, có cuộc Hội Thảo tại Hà Nội, Việt Nam ngày 17/03/2009với đề tài: “Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, lịch sử, địa chính trị và luật pháp Quốc tế” cho thấy tầm quan trọng của Biển Đông trong tương lai như thế nào.
Việt Nam với chiều dài 3200 km biển chạy dọc theo các miền đất nước, diện tích biển gấp ba lần diện tích đất liềt. Biển sẽ là định hướng chiến lược quân sự, chính trị, kinh tế về sự sống còn cũng như tương lai cho Việt Nam. Ít lắm có một số định hướng căn bản cho tương lai biển ở các lãnh vực sau đây: đánh bắt hải sản, Hàng hải bao gồm vận tải, đóng tàu biển và cảng biển, khoáng sản biển, du lịch biển và lấn biển. Đã đến lúc phải coi biển như một giải pháp cứu nguy cho bối cảnh chính tri, kinh tế và quân sự hiện nay.
Không thể chần chờ được nữa. Chần chờ nữa là trễ lắm rồi. Không thể ngồi bó gối trông chờ vào giải đất liền của đồng bằng Bắc bộ và đồng bằng sông Cửu Long được nữa. Đã đủ rồi, đã hai lần có cuộc Nam tiến trên đất liền, Một lần là mảnh đất Thuận Hóa. Lần thứ hai là cuộc di cư 1954-1955 Cả hai lần đã mở ra tương lai của người Việt. Nay đất đâu nữa mà Nam tiến? Sau mỏm Cà Mâu là biển và đó là hướng đi ra của VN? Chỗ dựa của ta nay là biển xét về mọi mặt như một tiềm năng và một hy vọng phát triển. Trước đây, những vùng dân cư ven biển thường có cuộc sống nghèo nàn, ít học. Sự khai thác tài nguyên biển rất hạn chế, lạc hậu.
Tại sao thế? Vì trước đây các chính quyền ít quan tâm đến việc khai thác tài nguyên biển (2). Ở trong Nam, trước 1975, nói đến phát triển kinh tế là phát triển vùng nông thôn, các khu trù mật, các khu dinh điền, đồng bằng sông cửu Long. Sau 1975, người ta lúc đầu cũng không có cái nhìn gì khác hơn, nói đến các vùng kinh tế mới. Phát triển lúa gạo. các cây trồng là chính.
Người ta đánh giá sự giàu có, sự phát triển của VN trên tổng số lượng gạo sản xuất mỗi năm là bao nhiêu. Nhưng trong tương lai, VN phải giàu lên từ biển, mạnh lên từ biển. Trời đã ưu đãi cho đất nước VN một bề dài là biển mà ta chưa tận dụng hết. Biển với kinh tế hải sản ‒ Với lợi thế bề mặt mà ta có thể khai thác cá tôm, vô số hải sản mà trên thực tế mới chỉ giới hạn vào việc khai thác bắt cá ven bờ.
Bắt con tôm, cái tép thay vì bắt cá lớn. Bao giờ có được những đội tàu đánh cá trang bị kỹ thuật tân tiến ra khơi? Chưa nghe nói VN một năm đánh bắt được bao nhiêu tấn cá? Bao giờ Phan Thiết trở thành thành phố giàu lên vì biển thay vì du lịch với những sân Golf? Bao giờ có những sản phẩm cá đóng hộp thay vì chì làm nước mắm như Phú Quốc? Biển với du lịch ‒ VN có nhiều bờ biển đẹp. Khí hậu thuận lợi. Bờ biển Việt Nam với nhiều bãi biển thiên nhiên trải dài khắp nơi trở thành địa điểm du lịch lý tưởng sau này. Dĩ nhiên để có khách du lịch, còn cần đầu tư vào hạ tầng cơ sở như đường lộ hệ thống khách sạn đủ loại thích hợp chon từng khu vực, khu du lịch thắng cảnh, khu giải trí, khu săn bắn, sân golf vv...
Hiện nay thì kể như mới bắt đầu. Lần nằm trên vịnh Hạ Long, một buổi chiều, tôi cảm nghiệm được đất nước này còn nhiều bất cập quá. Biển với giao thương hàng hải ‒ Sau này giàu có hay không là do phát triển giao thương vận tải đường biển. Hiện nay, 80% vận tải đường biển nằm trong tay các đội thương thuyền ngoại quốc với lợi nhuận lên đến hàng chục tỉ đô la. Cả nước mới có được vài tàu vận tải từ 4-5chục ngàn tấn. Chưa có một hạm đội thương thuyền đi ra nước ngoài. Cảng biển, nhất là cảng nước sâu, chưa có cảng cho tàu bè cả 100.000 ngàn tấn, cảng containers giống như Singapore. Hiện nay, tàu bè đến các cảng trên dưới 40.000 tấn.
Nhiều cảng nước sâu thiếu kế hoạch thành bất khiển dụng. Bao giờ những bến cảng Containers như cảng Cái Cui, Cần Thơ hoạt động để kích thích tiềm năng kinh tế toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long, để đưa hàng hóa từ sông ra biển? Biển với kinh tế khoáng sản ‒ Còn lại, biển với tiềm năng kinh tê “vô hạn” như cát biển, hàng triệu triệu tấn dầu lửa, hàng tỷ mét khối chất đốt hiện đang gây ra những tranh chấp với nguy cơ chiến tranh trên biển. Truyện này nói ra mà thêm buồn.
Trung Quốc đang rêu rao,họ chưa có một giếng dầu nào ở ngoài khơi Nam Hải. Họ cũng rêu rao họ là một cường quốc mà chưa có đóng nổi một Hàng Không mẫu hạm. Bộ trưởng quốc phòng Liang Guanglie (Lương Quang Liệt, 梁光烈) tuyên bố: “Cho đến nay, Trung quốc là cường quốc duy nhất trên thế giới chưa có Hàng không mẫu hạm và tình trạng cần được chấn chỉnh, thích ứng.” (Mỹ có 12 chiếc).
Giả dụ sau này có tranh chấp thì VN sẽ dựa vào cái gì,vào ai? Khi Trung Quốc gây chiến tranh biên giới 1979, mặc dầu có hiệp ước Việt- Xô, họ đã giúp được gì cho VN? Phần VN, có tàu chiến gì, tàu ngầm gì, hạm đội gì để đương đầu với khoảng 300.000 lính hải quân Trung Quốc với xe tăng lội nước, tàu đổ bộ, 70 tàu ngầm tấn công ở ngay căn cứ quân sự Hải Nam, vũ khí tên lửa, hàng không mẫu hạm Varyag mua lại của Nga? Trong khi đó, các nước trong khu vực lo ngại cũng thi đua vũ trang tiềm năng quân sự trên biển, nhất là tàu ngầm tấn công như các nước Nam Hàn, Indonesia, Malaysia, Singapore, Úc v.v...
Ta dựa vào biển để đi ra, nhưng lại không có một tiềm năng quân sự đối đầu với những đe dọa từ biển? Nói mà tiếc nuối là ngay từ thế kỷ 15-16, nếu ta biết dang tay ra, biểt đón nhận thương buôn Hòa Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp thì ta thiếu gì tàu vỏ bằng đồng, súng thần công thời đó để vươn lên cùng thế giới và đương đầu với giặc phương Bắc? Khốn thay, vua quan chỉ biết áp dụng chính sách “mông muội bế quan tỏa cảng.” Cái quan niệm “sống và lớn lên với đất” với cá tôm đầy đồng, ê hề như “mù u chín rụng” sẽ không bao giờ còn nữa.
Dòng sông có thể cạn kiệt. Và cứ nông nỗi này, rừng vàng có thể biến thành đồi trọc và đất nuôi người có thể khô cằn, sỏi đá . Lối nhìn, lối nghĩ về đất đai như thế chỉ còn là cái nhìn thô thiển thời kỳ nông nghiệp sơ khai mà dân số không quá 20 chục triệu người. Vì thế, biển sẽ là định hướng phát triển mà kim ngạch xuất khẩu sẽ đóng góp đến 50-60% kim ngạch xuất khẩu cho cả nước. Biển sẽ là tiềm năng, nguồn hy vọng của Việt Nam.
Nhưng một cách gián tiếp và quan trọng nhất liên quan đến sự sống còn trong tương lai, hướng ra biển, trước mắt là tránh né kịp thời cái họa phương Bắc Trung Quốc. Nay theo kết quả thăm dò của viện Harris thực hiện năm 2008 đưa ra kết quả: Trung Quốc là mối đe dọa số một của thế giới.
Và xem ra những cách phô trương trong dịp thế vận hội Olympic hay trong việc giải quyết vấn đề Tây Tạng và mới đây nhất đụng độ với tầu Mỹ trên Biển Đông, Trung Cộng như muốn biều dương một sức mạnh không phải của một “đại cường khu vực” mà là một “Siêu cường” của thế kỷ 21? Việt Nam liền đất biên giới với Trung Quốc như một số lớn nước trong vùng Đông Nam Á với một lịch sử quan hệ nhiều ân oán, có lúc là bạn, là đồng minh, có lúc coi nhau như kẻ thù chắc là cần e ngại hơn cả?
Việt Nam còn một lối thoát nào khác hơn là hướng ra biển. Hướng ra biển ở đây có ý nghĩa là hợp tác, thỏa thuận, làm ăn với các nước thuộc vùng biển. Biển đây là Thái Bình Dương. Bạo dạn mà thoát đi, quyết tâm mà đi.
Bạn bè năm châu bốn biển ở đó chờ ta. Biển Thái Bình Dương vẫn là nơi mà ít ra Mỹ vẫn còn là kẻ mạnh nhất và tin tưởng được như một chỗ tựa. Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương bao gồm 178 tàu chiến đủ loại, 1500 may bay và 160.000 người. Phải, nước Mỹ là nơi có thể có niềm hy vọng cho mọi người.
Hơn một triệu người Việt Nam di tản đã có mặt ở Mỹ. Đã có chỗ nào rộng mở tay đón chúng ta như thế không? Ngoài ra còn có Nhật, Úc Châu, Singapore và các nước trong vùng Đông Nam Á. Thế mạnh và chỗ dựa của ta là ở chỗ đó mà không là nơi nào khác. Nhưng có lẽ cái điều tối quan trọng liên quan đến sinh mạng đất nước lại là vấn đề địa lý-chính trị (geopolitics) bắt buộc VN không nên bám vào đất. Nhất là mỏm đất 6 tỉnh dính liền biên giới với Tàu cộng sản. Lịch sử Việt tộc là lịch sử ngàn năm hệ lụy, đắng cay của quá khứ và ô nhục ở hiện tại. Chỉ vì dính dáng đến đất liền. Nay cộng thêm với dòng sông Cửu Long đầu nguồn cho thấy Trung Cộng có ưu thế tuyệt đối trên đất liền.
Thiên thời thì chưa rõ. Nhưng địa lợi thì chắc ăn như bắp. Phải có can đảm và có đủ lòng yêu nước để quay lưng lại phương Bắc và tìm đường ra biển. Cái quan niệm “láng giềng gần” là một quan niệm lỗi thời vì láng giềng cứ dòm ngó vào sân nhà mình để soi mói, dèm pha và bắt nạt. Nay thì VN cho TQ xây xa lộ Nam Ninh (tỉnh Quảng Tây) chạy thẳng xuống Lạng Sơn, rồi thì con đường từ Côn Minh (tỉnh Vân Nam) chạy thẳng xuống Lào Cay-Hà Nội-Hải Phòng.
Những con đường ấy có khác gì con đường xe hỏa từ Bắc Kinh-TâyTạng? Những con đường tuyệt lộ cho Tây Tạng và những con đường hiểm nguy cho Việt Nam như cách đây 30 năm? Nó đến và nó phá tan tành, phá hủy đến bình địa, hãm hiếp đàn bà, vứt trẻ con xuống giếng, trẻ con còn bị rạch mặt, cắt tai cho nhớ đời và đi đến đâu thì đốt sạch đấy. Mà nay cái đảng 3 triệu người còn cấm mọi người không được nhắc đến. những năm tháng ấy. Đó là những những mối hiểm nguy, thắt cổ thòng lọng lúc nào mình không hay, nó vào hẳn sân trong nhà mình, ngủ với vợ mình, hủ hóa với con gái mình. Hiểm hoạ chung của Đông Nam Á là mối đe dọa của chủ nghĩa bánh trướng bá quyền Trung Quốc hay Vùng ảnh hưởng.
Lãnh đạo Hà Nội không phải là không biết điều ấy. Nhưng vì yếu hèn, mạt rệp, tham lam, che dấu, dối trá nhắm mắt để chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt. Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng và 15 người lãnh đạo ngồi ở chóp bu theo cái tinh thần “sống chết mặc bay” mà chúng ta thiếu một Chí Phèo để chửi vào mặt họ. Tôi hãi sợ, bởi vì tôi không tin được họ, không một chút hy vọng gì về họ.
Giả dụ có một cuộc chiến xảy ra, dân không còn tin vào giới lãnh đạo cầm quyền, bộ đội sẽ không còn ngoan ngoản đánh giặc. Đất nước sẽ đi về đâu? Từ Hồ Chí Minh đến mọi cấp lãnh đạo cộng sản đều đi bằng hai đầu gối sang Bắc Kinh, ăn mày từng bát cơm, manh áo, khẩu súng nên ngày nay nó mới ra nông nỗi này.
Cứ trách Lê Chiêu Thống, có thiếu gì thứ Lê Chiêu Thống ngày nay.
© DCVOnline ____________ _________ _________ _________ _ DCVOnline:
(2) Năm 1973, chính phủ đã tổ chức 2 vòng đấu thầu khai thác dầu lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đã tham gia, bất chấp là tình hình an ninh chưa ổn định.
Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa. Tới tháng 10, 1974 hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 dàn khoan.
Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi, một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ. (Trích Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, Phần 2, chương 5).
\Jun 3, 2009
__._,_.___
===================================================
No comments:
Post a Comment