VIỆT NAM CỘNG HÒA

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN

SINH VI TƯỚNG - TỬ VI THẦN
NGŨ HỔ MÃNH TƯỚNG QUÂN LỰC VIET NAM CỘNG HÒA

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Ngũ Hổ Mãnh Tướng

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Tiểu Sử Các Anh Hùng Dân Việt

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Các bậc anh hùng đã tuẫn tiết & chết sau 30/4/75 ..

Hoa

Hoa

DANH SACH

DANH SÁCH CÁC QUÂN, DAN, CAN, CHANH NUOC VIỆT NAM CÔNG HOÀ ĐÃ TỰ SÁT TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG . . .

===========================

TT
HỌ TÊN
Cấp bậc-chức vụ -đơn vị
Ngày tự sát
==========================
1
Lê Văn Hưng
Chuẩn tướng-tư lệnh phó QĐIV
30/4/1975

2
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng tư lệnh QĐ IV
30/4/1975

3
Trần Văn Hai
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ7BB
30/4/1975

4
Lê Nguyên Vỹ
Chuẩn tướng tư lệnh SĐ5BB
30/4/1975

5
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng- cựu tư lệnh QĐII
30/4/1975

6
Đặng Sỹ Vinh
Thiếu tá BTL CSQG
30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con

7
Nguyễn Văn Long
Trung tá CSQG
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Saigon

8
Nguyễn Đình Chi
Trung tá Cục ANQĐ
30/4/1975

9
Phạm Đức Lợi
Trung tá
30/4/1975

10
Mã Thành Liên( Nghĩa)
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu-

khoá 10 Đà Lạt
30/4/1975 tự sát cùng vợ

11
Lương Bông
Thiếu tá phó ty ANQĐ Cần Thơ- Phong Dinh
30/4/1975

12
Vũ Khắc Cẩn
Đại úy Ban 3 , TK Quảng Ngãi
30/4/1975

13
Nguyễn Văn Cảnh
Trung úy CSQG trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
30/4/1975

14
Đỗ Công Chính
Chuẩn uý ,TĐ 12 Nhảy Dù
30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

15
Trần Minh
Trung sĩ I Quân Cảnh gác Bộ TTM
30/4/1975

16
Tạ Hữu Di
Đại úy tiểu đoàn phó 211 PB Chương Thiện
30/4/1975

17
Vũ Đình Duy
Trung tá trưởng đoàn 66 Dalat
30/4/1975

18
Nguyễn Văn Hoàn
Trung tá trưởng đoàn 67 phòng 2 BTTM
30/4/1975

19
Hà Ngọc Lương
Trung tá TTHL Hải Quân Nha Trang
28/4/1975 tự sát cùng vợ,2 con và cháu ( bằng súng)

20
………….Phát
Thiếu tá quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
1/5/1975

21
Phạm Thế Phiệt
Trung tá
30/4/1975

22
Nguyễn Văn Phúc
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, TK Hậu Nghĩa
29/4/1975

23
Nguyễn Phụng
Thiếu úy CS đặc biệt
30/4/1975 tại Thanh Đa, Saigon

24
Nguyễn Hữu Thông
Đại tá trung đoàn trưởng 42BB, SĐ22BB-

khóa 16 Đà Lạt
31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn

25
Lê Câu
Đại tá trung đoàn trưởng 47BB, SĐ22BB
Tự sát 10/3/1975

26
Lê Anh Tuấn
HQ thiếu tá ( bào đệ của trung tướng Lê Nguyên Khang)
30/4/1975

27
Huỳnh Văn Thái
Thiếu uý Nhảy Dù- khoá 5/69 Thủ Đức
30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã Chợ Lớn

28
Nguyễn Gia Tập
Thiếu tá KQ- đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

29
Trần Chánh Thành
Luật sư- cựu bộ trưởng bộ thông tin của TT Ngô Đình Diệm- nguyên thượng nghị sĩ đệ II Cộng Hòa
Tự sát ngày 3/5/75

30
Đặng Trần Vinh
Trung uý P2 BTTM, con của thiếu tá Đặng Sĩ Vinh
Tự sát cùng vợ con 30/4/1975

31
Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức
Tự tử ngày 1/5/75

32
Nghiêm Viết Thảo
Trung uý, ANQĐ , khóa 1/70 Thủ Đức
Tự tử 30/4/1975 tại Kiến Hòa

33
Nguyễn Thanh Quan ( Quan đen )
Thiếu uý pilot PĐ 110 quan sát ( khóa 72 )
Tự sát chiều 30/4/1975

34

Phạm Đức Lợi
Trung tá P. 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả,

nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh :

35
Phạm Việt Châu,
cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

36

Hồ Chí Tâm
B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau )
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37
Phạm Xuân Thanh
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38
Bùi Quang Bộ
Th/sĩ Trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người

tại Vũng Tàu

39

Nguyen Hoa Duong
Dai uy truong Quan Canh Vung Tau
Tu thu ngay 30 /4/75,tai hang rao truong QC.


40
Cố Đại úy Nguyễn ánh Tước
DaiUy - Khoa III/TD - ANQD
Tu tu tai nha o Hoc Mon

41

Cao Hoài Cải
Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi- Q.Hòa Đa- Bình Thuận.
Đêm 17/4/1975- Ông uống thuốc độc quyên sinh tại nhà, Ấp Hiệp Phước- ChơLầu- Hòa Đa- Bình Thuận.


42


43

=========================

Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tư liệu không được đầy đủ,

cần cập nhật danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế…


******************************************
========================================



[Cong Luan] Đại Tá Hồ ngọc Cẩn ...


VNCH - USA Flag

image


Đại tá VNCH Hồ Ngọc Cẩn nói lời cuối cùng trước khi bị Cộng Sản hành hình :

"Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo cộng sản. Việt Nam muôn năm".

====================================

HOA

HOA

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM

30-4-75 : TƯỞNG NIỆM
MỘT BỨC TƯỜNG ĐÁ HOA VINH DANH NGƯỜI VỊ QUỐC VONG THÂN

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam

Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam
Tổ Quốc Tri Ơn

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY

TUONG DAI CHIEN SI VIET MY
WESTMINSTER CALIFORNIA

10-26-2011 Theo Cung Menh Nuoc Noi Troi voi Ngoc Dan Thanh www.youtube.com

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - President Nguyen Van Thieu Republic of Vietnam vnlib

Diễn văn lịch sử ngày Quân Lực 19/6/1973 -- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Portraits Of Honour - The Faces By Thank A Soldier| 1 video

HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ MỘT THỜI VANG BÓNG

- Ngày Đau Thương Của Binh Chủng TQLC - QLVNCH.flv

LE CHAO CO DAU NAM 2011

LE CHAO CO DAU NAM 2011

Kizoa slideshow: MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2012

F-35B Ship Suitability Testing

Canh buom vuon xuan

Tuesday, March 30, 2010

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ NHÂN NGÀY QUỐC HẬN LẦN THỨ 35
(30 THÁNG 4 NĂM 2010)
Nguyễn Quốc Đống - Tháng 3, 2010


1-Việc tổ chức Lễ Quốc Hận 30 tháng 4 hàng năm vẫn được các cộng đồng người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại coi trọng vì đây là một sự kiện chính trị quan trọng trong công đồng những người Việt nạn nhân của Cộng Sản Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi vì không sống nổi trong một thể chế độc tài đảng trị đã tước đi tất cả các quyền tự do cơ bản của người dân, không tôn trọng nhân quyền. Sự kiện này xác nhận căn cước tỵ nạn của chúng ta và đặt ra một lằn ranh quốc-cộng rõ rệt giữa chúng ta, nạn nhân của CSVN và đảng CSVN, kẻ thủ ác đã khiến bao đồng đội của chúng ta ngã gục trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do chống Bắc quân CS xâm lược. CSVN rất sợ các cuộc tập họp quần chúng đông đảo trong ngày này vì đây là dịp tội ác của chúng bị đồng hương tỵ nạn CS một lần nữa bị nêu ra trước dư luận đồng bào tại hải ngoại cũng như trong nước. Chúng cũng sợ hãi các hình thức tưởng niệm “quốc hận” trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại hàng năm vào ngày 30 tháng 4 vì các hoạt động như vậy chứng tỏ người Việt tại hải ngoại không quên tội ác của chúng, cương quyết không hòa hợp, hòa giải với kẻ thủ ác, tội đồ của dân tộc. Các buổi lễ kỷ niệm quốc hận nếu được tổ chức đúng yêu cầu sẽ làm mất “hào quang chiến thắng giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho toàn dân” mà CSVN thường rêu rao bao năm để đánh lừa người dân Việt và cộng đồng quốc tế.

2- Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm Quốc Hận 30 tháng 4 tại bất cứ một địa phương nào không thể quên những mục tiêu then chốt sau đây :

Thứ nhất: Vạch trần tội ác của Cộng Sản đối với đất nước và người dân VN:
- Tội tiến hành chiến tranh đẫm máu xâm lược miền Nam tự do, dân chủ khiến nhiều triệu đồng bào miền Nam quân và dân đã mất mạng
.- Tội thiết lập một chế độ trả thù khắc nghiệt khiến cả trăm ngàn quân, cán, chính VNCH phải bị giam tù và đầy đọa nhiều năm tại các trại tù tập trung “cải tạo” của CS.
- Tội thi hành chính sách khắc nghiệt với dân chúng miền Nam khiến họ phải liều chết ra đi và khoảng 600,000 người phải bị mất mạng trong rừng sâu hay ngoài biển cả khi vượt biên, vượt biển trong các thập niên 70 và 80 của thế kỷ 20.
- Tội thiết lập một chế độ độc tài, đảng trị trên toàn nước VN sau 30 tháng 4 khiến người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ và không còn được tham gia vào việc quyết định vận mạng chính trị cho chính mình và đất nước.

Kết quả là ngày nay các đảng viên CS, giới có quyền duy nhất tại VN đang tự do dâng đất và biển của quê hương cho Tàu Cộng.Các tộc ác của CS không giảm bớt mà càng ngày càng gia tăng khiến đất nước Việt nam đang trên bờ vực thẳm bị diệt vong. Người dân có ý thức được hiểm họa này nhưng không có khả năng ngăn chận.

Thứ hai: Tưởng niệm và tri ân các anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân trong cuộc chiến tự vệ của miền Nam VN chống Bắc quân CS xâm lược. Chúng ta nên tránh dùng chữ “liệt sĩ” vì đây là từ CSVN thường dùng để vinh danh các cán bộ và bộ đội của chúng đã chết trong cuộc chiến do chúng tiến hành tại VN. Chúng ta cũng tưởng niệm tất cả các quân cán chính VNCH bị chết vì bị CS giam tù hành quyết trong các trại tù CS, các đồng bào bị chết trên đường vượt biên và vượt biển. Họ chính là những người chết vì lý tưởng tự do, dân chủ, làm sáng danh chính nghĩa của chúng ta nên cần được nhớ ơn và tưởng niệm.

Thứ ba: Tạo cơ hội và điều kiện cho giới trẻ học hỏi các tấm gương sáng của các thế hệ đi trước để tiếp tục công việc của chúng ta. Họ cần ý thức được căn cước tỵ nạn của cha anh, của chính họ, của cộng đồng để nuôi dưỡng một ý thức hệ trọng. Đó là ý thức “cần phải tiếp nối truyền thống tranh đấu cho tự do, dân chủ của các thế hệ đi trước”.

Có như vậy họ mới xác định được chỗ đứng, vị trí và trách nhiệm của họ trong cộng đồng, đồng thời sẵn sàng đảm nhiệm vai trò lịch sử của mình. Công việc tranh đấu cho tự do, dân chủ của chúng ta không thể nào thành công nếu chúng ta không có kế hoạch giáo dục giới trẻ để họ đi đúng hướng và tiếp nối công việc còn bỏ dở của chúng ta. Giới trẻ không được hướng dẫn đúng đắn sẽ dễ dàng bị kẻ thù CSVN lung lạc, lợi dụng cho mục tiêu đen tối của chúng. Chúng ta không thể để mất giới trẻ trong cộng đồng tỵ nạn vào tay đối phương trong “cuộc chiến một mất một còn” hiện nay đang diễn ra giữa chúng ta và CS, giữa thiện và ác, giữa dân chủ và độc tài.

3- Đã từ lâu CSVN luôn tìm cách lợi dụng để làm biến thái ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4. Chúng rất muốn mọi người quên đi khía cạnh bi thương của ngày 30 tháng 4 để tội ác của chúng được từ từ xóa nhòa. Nếu chúng ta quên mất mục đích này của kẻ thù là chúng ta rơi vào bẫy của chúng . Vô tình chúng ta sẽ khiến công sức của chính mình giúp cho CS đạt mục tiêu của chúng. Chính vì thế tại nhiều websites trên diễn đàn internet chúng ta vẫn thấy có những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta?!..."Thế rồi có người lại đề nghị ta nên tổ chức các mục vui cho giới trẻ vào ngày này. Đây quả thực là một cái bẫy rất nguy hiểm do kẻ thù của chúng ta giăng ra. CSVN và tay sai không ngừng lợi dụng các sơ hở của chúng ta để đạt mục đích của chúng. Chính vì thế các vị lãnh đạo trong cộng đồng những người Việt tỵ nạn Cộng Sản cần thận trọng đừng để CS lợi dụng cho mục tiêu riêng của chúng. Nếu không thận trọng, người tỵ nạn CS chúng ta sẽ mắc bẫy kẻ thù và vô tình sẽ làm lợi cho sự tuyên truyền xảo trá của chúng.
Hẳn chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra nhân Ngày Quốc Hận 30-4 năm 2005. Để kỷ niệm Ngày Quốc Hận lần thứ 30 (30-4 -2005), 4 tổ chức có tên dưới đây đã đưa ra “Kế hoạch tổ chức Ngày Tự Do cho Việt Nam” vào ngày 30 tháng 4 năm 2005 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn:
1- Ủy Ban Vận Động Chính Trị Người Mỹ gốc Việt
2- Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ
3- Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường
4- Tổng Hội Sinh Viên Việt nam tại Bắc Mỹ

Đồng hương người Việt tỵ nạn CS tại nhiều nơi rất ngạc nhiên về việc 4 tổ chức nói trên chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” vì các lý do sau đây:

- Ngày 30 tháng 4 hàng năm là Ngày Quốc Hận đối với người dân miền Nam Việt Nam và nhất là đối với các đồng bào đã phải rời bỏ quê hương Việt Nam ra đi tỵ nạn CS sau khi miền Nam tự do rơi vào tay Bắc quân CS xâm lược. Các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS vẫn gọi tháng 4 hàng năm là tháng 4 Đen để đánh dấu ngày lịch sử Việt Nam bước sang 1 trang sử vô cùng đen tối, ngày bắt đầu 1 thảm họa cho toàn dân tộc Việt.
- Việc chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” (hay là Ngày Tranh Đấu cho Tự Do của Việt Nam) cũng dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại. Trong nước, Cộng Sản Việt Nam coi đây là một ngày lễ lớn. Chúng vẫn cho tổ chức các lễ hội linh đình để ăn mừng “ngày chiến thắng” của chúng, ngày chúng “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ, Ngụy, đem lại tự do cho toàn dân Việt Nam”. Nếu chúng ta cũng chọn ngày này để ăn mừng một điều gì đó thì chúng ta “cũng như Việt Cộng tổ chức lễ hội ăn mừng vào ngày 30-4” ư?. Vậy chúng ta ăn mừng cái gì vào ngày “nước mất, nhà tan này”? Chẳng lẽ chúng ta ăn mừng “ngày các vị tướng miền Nam tuẫn tiết, ngày các chiến sĩ anh hùng của quân lực VNCH vị quốc vong thân, ngày khiến cho bao chiến sĩ Quân Lực VNCH và viên chức chính quyền miền Nam bị dồn vào các trại tù cải tạo, ngày khởi đầu của trang sử vượt biên, vượt biển đầy máu và nước mắt…”? Hay chúng ta ăn mừng “ngày chúng ta thoát khỏi đất nước bất hạnh của chúng ta và có được cơ hội hưởng đời sống tự do tại các nước tạm dung trong thế giới tự do”? Xin chúng ta đừng quên chỉ có một thiểu số rất nhỏ vì may mắn mới thoát được gông cùm CS và đang sống đời tự do tại các quốc gia dân chủ ở châu Mỹ, châu Âu, châu Úc …(khoảng 3 triệu người). Số còn lại, 85 triệu người vẫn còn đang sống khốn khổ vì mất tự do tại quê nhà.
Vả lại nếu chúng ta chọn ngày 30 tháng 4 để ăn mừng “tự do” thì chúng ta “hận” ai trong ngày này, không lẽ “hận Việt Cộng đã cho ta có dịp hưởng thứ tự do “số một” tại những cường quốc như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Tân Tây Lan…? Việc tổ chức “quốc hận” cho đồng hương như vậy sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.

Ý thức được sự tai hại của kế hoạch này, nhiều tổ chức cộng đồng khắp nơi trên thế giới tự do đã phản kháng quyết liệt (tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Minnesota, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại tiểu bang Georgia, các thành viên của Khối Lập Trường Chung do cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt lãnh đạo…).
Kết quả là kế hoạch tổ chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam “ của các tổ chức nói trên tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã không thể thi hành được như đã định. Sau cùng Ban Tổ Chức đã phải đổi lại “ Ngày Tự Do cho Việt Nam” thành “Ngày Tranh Đấu cho tự do của Việt Nam”.

Họ cũng phải hủy bỏ các chương trình vinh danh các tổ chức cộng đồng vận động thành công các nghị quyết công nhận cờ VNCH, các chương trình văn nghệ có mặt các ca sĩ nổi tiếng để “ăn mừng tự do”?! Những năm sau đó người Việt tỵ nạn CS không còn thấy các hình thức “ăn mừng một cái gì đó vào ngày quốc hận 30 tháng 4” nữa.
Sự sáng suốt của các đồng hương tỵ nạn Cộng Sản giúp chúng ta không sa vào bẫy của CSVN muốn biến thái ý nghĩa “Ngày Quốc Hận”,(VC) muốn chúng ta thôi “căm hận” vào ngày này mà nên thay đổi trạng thái tâm lý, nên vui và nên quên buồn.

CSVN chưa thành công trong mục tiêu này của chúng vì trong thời gian qua, nhìn vào các lễ tưởng niệm Quốc Hận tại các cộng đồng có đông người Việt nạn nhân CS cư ngụ, đa số chúng ta thấy Ban Tổ Chức dành nhiều thời gian vào việc
- tố cáo tội ác của CS,
- vinh danh các anh hùng vị quốc vong thân,
- vinh danh các đồng bào vì lý tưởng tự do, dân chủ mà phải bỏ mình trên khắp các nẻo đường đất nước, trong rừng sâu hay trên biển cả mênh mông.

Đồng hương đến dự Quốc Hận không than khóc cho các cái chết của các anh hùng tử sĩ. Chết vì nước là cái chết anh hùng, vinh dự nhất. Họ cần chúng ta noi gương họ để tiếp tục hy sinh tranh đấu cho nền tự do đích thực của dân tộc chứ không cần chúng ta khóc thương cái chết của họ. Chúng ta nên suy nghĩ để có thái độ thích đáng trong vai trò những người kế thừa sự nghiệp của họ.

Việc nhắc lại một sự kiện đã xảy ra vào ngày quốc hận cách đây 5 năm không ngoài mục đích để chúng ta cảnh giác đối với âm mưu thâm độc của kẻ thù CS. Chúng vẫn không từ bỏ mục đích tối hậu của chúng là “làm chúng ta quên mối hận mất nước vào ngày 30-4”, khiến chúng ta từ từ vui cái vui của chúng, và với thời gian mọi chuyện sẽ bị xóa nhòa. Chúng (tay sai VC) kêu gọi người Việt khắp nơi:
“hãy quên quá khứ, bỏ qua mọi phân biệt chính trị, mọi khác biệt giữa chế độ cũ và chế độ mới, nối vòng tay lớn để chấp nhận cả những kẻ thủ ác, để thực hiện việc “hòa hợp, hòa giải dân tộc”, để bắt tay vào công việc lớn là “xây dựng quê hương”…

Hiện nay, tại một số các websites trên diễn đàn internet, chúng ta vẫn còn thấy những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do, tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta…?!”

Là nạn nhân của CS đã từng bị chúng xua đuổi ra khỏi quê hương và tìm cách bức hại trăm chiều, chúng ta không thể quên các sự kiện lịch sử để rồi bị mắc bẫy của chúng.
Chúng ta hãy tổ chức Ngày Quốc Hận 30-4 một cách đúng nghĩa để tội ác của chúng phải bị phơi bày trước công luận toàn thế giới, để không còn ai bị chúng đánh lừa, để mọi người đều thấy rằng 30 tháng 4 không phải chỉ là Ngày Quốc Hận của quân, dân miền Nam mà phài là Ngày Quốc Hận của toàn dân Việt Nam vì đây là ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức đặt ách đô hộ lên toàn thể dân tộc Việt nam.

Đây là ngày chúng chiếm được toàn nước Việt Nam, giành được quyền tối thượng đối với sinh mạng 85 triệu người Việt Nam, giành được quyền cho thuê hay bán đi giang sơn gấm vóc của dân tộc VN cho ngoại bang hầu thiết lập một chế độ chủ-nô trong thời đại mới, một chế độ độc tài, toàn trị lâu đời để đảng viên CS và gia đình chúng có thể sống xa hoa trên đầu, trên cổ người dân thường, những người luôn phải sống trong lầm than, nghèo đói, không tự do, dân chủ và nhân quyền.

Chỉ khi nào chế độ CSVN bị giải thể và Đảng CSVN bị giải tán, thì nỗi “quốc hận” của chúng ta mới tan được và đó sẽ là ngày chúng ta ăn mừng tự do của toàn dân, vui trọn vẹn cái vui của mọi người dân Việt trong nước cũng như tại hải ngoại.

" Có trung hiếu nên ðứng trong trời ðất" NCT
Nguon: luan nguyen
============================================
===============================================
Kỳ thú hiện tượng "Biển chia đôi"

(Hai lần một năm khi nước thủy triều xuống thấp, một dải đất dài 2,8 km và rộng 40 mét lộ ra, biến thành con đường kết nối đảo Jindo và Modo của Hàn Quốc trong một vài giờ.



Trong sử thi "10 điều răn của Chúa" có tình tiết Moses chia đôi biển Đỏ bằng chiếc gậy của mình. Nhờ đó mà người dân có thể băng qua biển thoát khỏi cuộc truy đuổi của Pharaoh, gọi tắt là hiện tượng Moses Miracle. Liệu "Moses Miracle" có thể xảy ra trong thời kỳ hiện đại? Câu trả lời là có.



Hiện tượng thiên nhiên kỳ diệu này diễn ra tại Hàn Quốc, đất nước của nhân sâm. Hai lần một năm khi nước thủy triều xuống thấp, một dải dất dài 2,8 km và rộng 40 mét lộ ra, biến thành con đường kết nối đảo Jindo và Modo trong một vài giờ. Điều kì diệu là nó chia biển thành hai phần và người dân có thể đi bộ dọc theo con đường này, tương tự như trong câu chuyện “Moses Miracle”.



Hàng năm, người dân Hàn Quốc tổ chức một lễ hội để đón chào sự xuất hiện của “Moses Miracle” với sự tham dự của rất nhiều du khách từ khắp nơi trên thế giới. Tuy là một hiện tượng thiên nhiên độc nhất vô nhị, “Moses Miracle” chỉ được biết đến rộng rãi mãi cho tới năm 1975, khi một Đại sứ Pháp đến Hàn Quốc và viết bài trên một tờ báo Pháp.




Người Hàn Quốc có một truyền thuyết để giải thích cho hiện tượng này: Ngôi làng Jindo bị tấn công bởi hổ dữ và người dân trong làng phải chạy đến đảo Modo để ẩn náu. Tất cả đều ra đi, ngoại trừ một bà cụ già còn sót lại. Trong tuyệt vọng, bà chắp tay cầu nguyện, Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện và chia đôi biển, tạo con đường nối liền hai đảo để giúp bà thoát khỏi con thú dữ.



nguon: kiettan le

Tro ve dau trang

==================================================

===========================================================

VINH DANH NHỮNG NỮ LƯU VIỆT NAM: NHỮNG NGƯỜI KHÔNG NGẠI NÓI LÊN SỰ THẬT

(TẠI XHCN VIỆT NAM)



Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez (CA-47)

LTS. Tòa soạn Người Việt nhận được bài viết dưới đây từ văn phòng Dân Biểu Loretta Sanchez, xin được trình bày nguyên văn cùng quý độc giả. Hình và chú thích hình do tòa soạn thêm vào.

Chúng ta đang bước vào cuối Tháng Ba và cũng vừa đón chào một năm mới, mong sẽ có nhiều may mắn và thuận lợi đến với mọi người. Tháng Ba, cũng là tháng Vinh Danh Phụ Nữ để cộng đồng quốc tế chính thức công nhận những đóng góp của người phụ nữ trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị và xã hội. Tuy nhiên, dưới các chế độ độc tài như nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, họ vẫn tiếp tục giam giữ các nhà dân chủ yêu nước. Trong số các nhà dân chủ tại Việt Nam là những người phụ nữ can đảm đang đối đầu với phong trào đấu tranh cho công lý.






Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy hiện đang bị án 3 năm rưỡi tù



Khi chúng ta vinh danh những thành tựu của phụ nữ, chúng ta không quên nhìn về phía trước để nhận thức và tiếp tục tranh đấu cho các vấn đề mà phụ nữ vẫn phải đối đầu trong hiện tại. Ba vị nữ lưu đáng kính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Luật Sư Lê Thị Công Nhân và cô Phạm Thanh Nghiên đã bỏ quên đời sống cá nhân để dấn thân vào công cuộc tranh đấu cho nhân phẩm và nhân quyền của con người. Tiếng nói của họ đã phải đổi bằng những hy sinh về sự nghiệp, sức khỏe, và những đe dọa trong cuộc sống. Họ là những tấm gương soi sáng cho phong trào dân chủ và xứng đáng đề chúng ta hết lòng hỗ trợ.

Là nữ dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ, một trong những ưu tiên hàng đầu của tôi là cải thiện đời sống, tranh đấu cho quyền bình đẳng và tạo nhiều cơ hội cho phụ nữ. Một điều mang đến cho tôi nhiều cảm xúc là lá thư từ Ðại Lão Hòa Thượng, Thượng Tọa Thích Quảng Ðộ, gửi cho tôi nhân dịp chúng ta vinh danh những người phụ nữ trong đó có Luật Sư Lê Thị Công Nhân. Trong thư, Ðại Lão Hòa Thượng nhắc nhở và khích lệ tôi phải tiếp tục tranh đấu để mở một con đường cho hy vọng và nhân bản trong lúc chúng ta tôn vinh những đóng góp của người phụ nữ Việt Nam.



Luật Sư Lê Thị Công Nhân hiện đang bị quản chế tại địa phương sau khi ở tù 3 năm.



Cũng nhân dịp Tháng Vinh Danh Phụ Nữ, tôi hân hạnh được cùng với Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đề cử Luật Sư Lê Thị Công Nhân cho Giải Thưởng Nhân Quyền Gwangju năm 2010, dựa vào lòng can đảm, quyết tâm, và chủ trương đối đầu bất bạo động đòi nhân quyền tại Việt Nam. Tôi sẽ tiếp tục cùng cộng đồng Việt Nam hải ngoại kêu gọi Quốc Hội và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ buộc nhà cầm quyền Việt Nam chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm nhân quyền, một điều kiện cần thiết trước khi bàn về quan hệ giao thương giữa hai quốc gia.

Theo Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị được Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc thông qua, biểu đạt ý kiến chống tham nhũng, chỉ trích chính sách của nhà nước và xin tổ chức làm một cuộc biểu tình ôn hòa đều là những quyền căn bản của công dân quốc tế. Không có một cá nhân nào có thể xét xử hoặc buộc tội người khác vì đã thực hiện quyền căn bản của con người. Những người phụ nữ tại Việt Nam đã, đang và vẫn luôn hy sinh quyền lợi của mình cho hai chữ yêu thương và tự do.





Cô Phạm Thanh Nghiên bị tù 4 năm vì viết bài bênh vực ngư dân Thanh Hóa
bị hải quân Trung Quốc bắn chết.



Tháng Ba đi, Tháng Tư sẽ về, và cộng đồng Việt Nam hải ngoại khắp nơi lại cùng nhau đoàn kết để tưởng niệm 35 năm ngày Sài Gòn sụp đổ. Sự kiện này đánh dấu một thời điểm đau thương đã thay đổi cuộc sống của hàng triệu người dân Việt Nam. Chúng ta không quên vinh danh các vị anh hùng chiến sĩ đã ngã xuống bảo vệ nhân quyền. Ðồng bào Việt Nam phải bỏ lại sau lưng quê hương vì lý tưởng tự do dân chủ cho thế hệ sau. Tôi cho rằng chúng ta cần tiếp tục vinh danh những sự hy sinh của người đi trước bằng cách lên tiếng đòi tự do cho những vị nữ lưu như nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Luật Sư Lê Thị Công Nhân và cô Phạm Thanh Nghiên. Tôi cho rằng chúng ta cần tiếp tục vinh danh những sự hy sinh của người đi trước bằng cách lên tiếng đòi tự do cho những vị nữ lưu như nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Luật Sư Lê Thị Công Nhân và cô Phạm Thanh Nghiên

Tro ve dau trang

===========================================

======================================================

Little Saigon, ngày 29 tháng 3 năm 2010



Kính gửi quý vị,



Xin gửi đến quý vị bài viết của Dương Thị Xuân, ký giả báo Tập san Tự do Dân chủ hiện đang phát hành chui trong nước.



VNCTCMĐ / Đảng Bộ Nam Cali

P.O. Box 10188, Westminster, CA 92685

Tel: (714) 922-0788 *** Email: NamCali@VietTan. org *** Website: www.VietTan. org

Chương trình phát thanh Tiếng Nói Canh Tân, từ 8 giờ đến 8:30 giờ tối, mỗi tối thứ Ba, trên làn sóng 1190AM hoặc http://www.kxmx.com/ tuner/launch. asp?id=kxmx

Mỗi Người Việt Nam Chính Là Một Phóng Viên

Ở Việt Nam, xin mời quý vị đón nghe Radio Chân Trời Mới phát thanh từ 8:30 tối đến 9:00 tối mỗi ngày trên băng tần AM 1503

Email: lienlac@radiochanmo i.com *** http://radiochantroimoi. com *** http://radiochantroimoi. wordpress. com



Hãy tri ân tất cả các tấm lòng đã dấn thân hoạt động và

đóng góp cho Phong trào đấu tranh vì nền Dân chủ Tự do tại Việt Nam!



Một ngày đầu năm đẹp trời, chúng tôi nhận được tin vui – nữ luật sư trẻ tuổi Lê Thị Công Nhân đã thụ xong bản án tù giam 3 năm được trở về đoàn tụ với gia đình. Thời gian trước đây vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007, chúng tôi đã có những cuộc gặp gỡ, trao đổi cùng nhau về những vấn đề chính yếu của công cuộc tranh đấu dân chủ, tự do và nhân quyền của đất nước… Chúng tôi rất ái mộ và mến phục nữ luật sư Công Nhân, một người con gái nhỏ nhắn, trẻ trung luôn tươi cười vui với vẻ luôn luôn hồn nhiên. Trong khi hầu như các thanh nữ ở lớp tuổi của cô họ đang mê mải với son phấn, quần là áo lụa, đồ hàng hiệu thời trang, xe máy thời trang đắt tiền … Có những người thanh nữ tiêu tiền như nhặt được, như có cô nhân ngày sinh nhật mình đã tặng bạn cả chiếc xe Honda hiệu @ trị giá hàng trăm triệu đồng không chút vấn vương suy nghĩ. Trong khi đó dấn thân đấu tranh cho dân chủ cũng như anh em trong nước Công Nhân có lúc phải chắt chiu những đồng tiền nhỏ để ủng hộ giúp đỡ những người dân nghèo khó từ các miền quê xa lên Hà Nội kêu oan, vậy mà cô không nề hà dù nguy hiểm đến tính mạng. Công Nhân đã nói rõ : “Tôi đấu tranh chống cộng sản để mong đất nước được dân chủ, người dân thực sự được hạnh phúc…”.

Chúng tôi gồm tôi – Dương Thị Xuân và một kỹ sư trẻ tuổi sinh năm 1977 tốt nghiệp đại học giao thông vận tải quê gốc ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An tên là Trần Văn Huy mới tham gia Phong trào tranh đấu dân chủ đã đến thăm Công Nhân chiều hôm 12/3/2010 khi cả hai chúng tôi đã mạn đàm trò chuyện với anh Nguyễn Khắc Toàn khá lâu, và tất nhiên không quên hỏi địa chỉ cụ thể của gia đình cô qua anh Toàn chỉ dẫn. Và cả 2 chúng tôi đã được gặp một người con gái kiên cường mới thoát từ nhà tù của chế độ cộng sản giữa căn hộ của gia đình của cô ở khu tập thể của văn phòng chính phủ thuộc phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội. Người xưa có câu : “ Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại tức là một ngày ở tù bằng ngàn năm ở ngoài”. Trong khi đó cô đã chịu đựng hơn ngàn ngày ròng rã trong trại giam giữa sự canh gác cẩn mật của chế độ lao tù, ở cô phải có một niềm tin sắt đá vào phong trào dân chủ mạnh mẽ đến nhường nào để vượt qua được bước đường khổ ải gian truân ấy. Cô kể với chúng tôi: “có đi tù mới thấy trí tưởng tượng phong phú của con người, cũng không thể tưởng tượng nổi chế độ lao tù của CSVN nghiệt ngã đến độ nào mà kể hết được”.

Trại giam số 5 thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa nơi cô bị giam cầm nằm giữa vùng núi hẻo lánh, khí hậu vô cùng khắc nghiệt vì giáp biên giới Việt-Lào. Trại tù này có hơn 1000 người bị giam giữ ở đó, trong mỗi buồng giam, trung bình có 60 người tù bị nhốt trong một diện tích nhỏ, hẹp mỗi người chỉ được ngả lưng trong phạm vi một chiều 2 mét dài còn chiều rộng chỉ có 60 cm. Tức là các tù nhân phải nằm úp thìa vào nhau mới ngủ được, những người gầy ốm nằm còn khó nếu ai to béo chắc không ngủ nổi. Công Nhân còn kể tiếp : “cán bộ công an cộng sản rất cay cú câu nói của em: “đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất”, nên khi ở trong tù là họ tìm cách để hành hạ em”. Họ nói : “đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất thì họ sẽ làm cho cô sống còn tồi tệ hơn”…”. Song, bị đọa đầy về vật chất thì có lẽ có thể còn chịu đựng được vì con người có thế ăn đói, mặc rách nhưng không thể chịu nổi sự cô đơn ngay giữa bầy đàn. Bởi vì buồng giam của cô toàn bộ là án tù nữ thường phạm, như phạm tội buôn bán ma túy, tham ô, ăn hối lộ, lừa đảo, giết người…Cô nói : “hôm truyền hình nhà nước cộng sản đưa tin Đức cha Ngô Quang Kiệt nhưng lại cắt xén làm méo mó, thất thiệt về việc Ngài nói khi cầm tấm hộ chiếu ra nước ngoài nên gần 60 người trong phòng khi xem tin này họ gần như đồng thanh gào lên đòi giết Đức Cha Tổng giám mục Hà Nội…”. Cô thấy mình đơn độc vì không sao giải thích, hay cho họ biết được sự thật mà hôm nay cô được biết là rõ là do chính quyền cộng sản đã đơm đặt, cắt xén chỉ để vu khống và nhằm nói xấu Đức cha mà thôi. Nhưng cô còn thương cảm hơn cho những nữ tù nhân gồm đủ các sắc tộc người Thượng thuộc các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, cô nói : “Thương họ lắm chị ạ, giữa thế kỷ này công nghệ viễn thông phát triển, trẻ em thành thị, nông thôn còn biết sử dụng Internet, điện thoại di động… mà trong khi đó hầu như tất cả số họ không biết chữ, chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ dân tộc của mình, còn vốn tiếng Việt chỉ bập bẹ được chút ít thôi. Vậy mà họ bị chính quyền và công an CSVN gán tội “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc” và bị kêu án những 6-7 năm tù giam. Như trường hợp của em đây, còn có mẹ thăm nuôi hàng tháng, chứ họ thì phải gọi là lầm lũi trong bóng tối của nhà lao vì gia đình ở xa, nhà nghèo cả năm chẳng có ai thăm nuôi họ cả, mà khi hỏi bị đi tù vì tội gì thì họ nói : “không biết bị kêu án vì tội chi cả ?””.

Em kỹ sư Trần Văn Huy cùng tôi đến thăm Công Nhân chiều hôm ấy cũng cho hay một câu chuyện : “Cậu này có lần phải chỉ huy công nhân vào thi công cột bưu điện viễn thông ở ngay trong trại giam Thanh Chương – Nghệ An, nên cậu đã từng chứng kiến cảnh có phạm nhân đi lao động chẳng may làm gẫy cán xẻng, vậy mà kẻ quản giáo nữ cán bộ công an đã dùng nhục hình là bắt người này nằm úp mặt trên đất trên lưng để cái xẻng gẫy và bắt nằm như vậy từ 7 giờ sáng bắt đầu giờ làm việc cho đến 11 giờ trưa; anh này nếu cựa quậy là bà cán bộ quản giáo ra lệnh cứ cán xẻng đánh ngay…”. Chính trại giam Thanh Chương này dưới sự cai quản của công an đảng cộng sản đối xử tù nhân dã man, bạo tàn như thời trung cổ đã bị ông Võ Văn Nghệ một dân oan tỉnh Thanh Hóa và cô Hồ Thị Bích Khương tố cáo vạch trần đanh thép qua các tài liệu, bài viết, tiếng nói vì họ cũng đã từng bị tù đầy ở đây nhiều năm…

Chúng tôi rất khâm phục sự chịu đựng trong lao tù của Công Nhân thì cô nói tiếp, giọng rất cảm động : “Em cám ơn tất cả các nhà tranh đấu dân chủ đi trước, chính nhờ có sự đấu tranh của họ mà cuộc sống lao tù của em đã bớt nghiệt ngã, và nhờ họ mà em không đơn độc, vững bước kiên định trên con đường tranh đấu với cộng sản”. Kỹ sư Huy cũng nói : “Khi đọc báo chí trong nước nói về vụ xử án nữ luật sư Lê Thị Công Nhân và luật sư Nguyễn Văn Đài thì từ hôm đó Huy rất ngưỡng mộ Công Nhân và tự nhủ tại sao một cô gái trẻ tuổi hơn mình, thân hình mảnh dẻ mà dám đứng lên tranh đấu với cộng sản, vậy mà mình là đàn ông kém được sao ? Cũng từ đó kỹ sư Huy cùng rất nhiều nam thanh niên, trí thức trẻ tuổi nghĩ thế nên đã mạnh dạn tham gia vào phong trào đấu tranh cho nền dân chủ, tự do và nhân quyền ở Việt Nam.

Hôm ấy tôi đã chuyển điện thoại của mình cho cô nói chuyện với Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn hỏi thăm trực tiếp, chúng tôi nghe rõ qua điện thoại thấy anh cũng nói : “Công Nhân nói đúng đấy, cách đây chỉ mấy năm thôi, nếu trường hợp của Công Nhân, Nguyễn Văn Đài…vv… thì những bản án tù giam bị nhà nước CS độc tài này gán cho họ không chỉ là 3-4 năm thôi, mà phải là hai con số tức là hơn chục năm tù cho đến chung thân…vv…”. Còn tôi trước đây khi mới tham gia phong trào dân chủ thì luôn thắc mắc : “không hiểu tại sao, những người đấu tranh dân chủ chỉ nêu chính kiến, họ có một tấc sắt nào đứng lên đánh lại người nhà nước đâu mà lại bị tù đày khắc khổ như vậy”. Nhưng khi dấn thân vào tranh đấu dân chủ tôi mới thấy rõ : Nhà nước và đảng cộng sản đã tước đoạt hết quyền con người của người dân dù họ chỉ suy nghĩ và bày tỏ ra mà thôi. Ở Việt Nam người dân làm gì có được tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp, biểu tình, minh tinh, tự do bầu cử, ứng cử, vận động bầu cử…Mà tất cả những quyền con người tối thiểu này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền Quốc tế, cũng như trong bản Tuyên Ngôn độc lập ngày 2-9-1945, do đích thân ông Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội. Rồi bao sự kiện phi dân chủ, nhân quyền vi hiến khác rất trầm trọng vẫn cứ diễn ra, chẳng hạn như năm 2007, ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra chỉ thị nhấn mạnh : không cho phép có báo chí tư nhân. Năm 2004, ông cựu thủ tướng Phan Văn Khải chỉ thị : hội họp 05 người trở lên phải xin phép…vv…và vv…

Đảng cộng sản Việt nam độc quyền lãnh đạo chính trị, xã hội một cách tuyệt đối, triệt để, toàn diện, cấm đa nguyên, đa đảng, ai mà kêu gọi đa nguyên, đa đảng như ông Trần Xuân Bách ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng - một cán bộ cộng sản cấp tối cao mà còn bị kỷ luật, bị quản thúc tại gia như tù giam lỏng cho đến chết. Hay như cố lão trung tướng, 3 lần ủy viên trung ương đảng CSVN- cụ Trần Độ, giáo sư Hoàng Minh Chính đấu tranh đòi dân chủ hóa đất nước thì bị công an bao vây quanh nhà, bị cướp tài liệu, bị bắt giam bỏ tù hàng chục năm, khi được thả ra để quản thúc tại gia nếu có ai đến nhà thăm khi ra về đều bị công an bắt giữ, thẩm vấn tra hỏi như tội phạm trộm cắp… Người dân làm chi có quyền hành gì, trong khi đảng và nhà nước luôn luôn nói : chính quyền của dân, do dân, vì dân…vv… Cũng như điều luật nhà nước cộng sản Việt Nam đề ra : “Đất đai là sở hữu của toàn dân”. Nhưng trên đời sống thực tế thì người dân chả có tí quyền gì, vì chính quyền ở đâu thích lấy đất của dân là lấy, báo chí trong nước phải liên tục đưa tin gần như các tỉnh trên cả nước địa phương nào cũng có cảnh tước đoạt ruộng đất của nhân dân đền bù rẻ mạt như cướp không. Ở Hà Nội năm 2004, dự án lấy đất của dân Phú Thượng, nơi có cánh đồng trồng hoa đào nổi tiếng thủ đô, nhà nước đền bù hơn 20 triệu đồng /1 sào, ngay sau đó họ cho đấu giá lên tới 15 triệu đồng / 1m2. Rồi gần đây mấy lão tướng quân đội CSVN là Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Hữu Anh… đã lên tiếng cảnh báo về việc cho người nước ngoài thuê đất thời hạn dài 50 năm, người nông dân trong nước cũng chỉ được cho thuê đất thời hạn này. Vậy người dân nước ngoài được hưởng như dân trong nước thì đây thực chất có phải là bán nhượng đất không ? Người dân trong nước ai được hỏi về việc này khi ngay cả những người được gọi là đại diện cho dân là “đại biểu quốc hội” có hay biết vụ việc này không ? Đất đai lãnh thổ, lãnh hải có được là do ông cha, tổ tiên lưu truyền lại cho chúng ta ngày hôm nay, vậy mà tình cảnh là như vậy đấy. Thế nhưng nếu ai dấn thân tranh đấu, như nhà nữ báo tự do trẻ tuổi Phạm Thanh Nghiên quê gốc ở Hải Phòng cất lên tiếng kêu thống thiết : “Uất ức biển ta ơi” cảm thương cho những người ngư dân bị tàu của Trung Quốc bắn chết ngay trên biển nhà, và kể cả việc cô ngồi tại gia treo khẩu hiệu “Hoàng Sa-Trường Sa là máu thịt của Việt Nam” mà cũng bị bắt giam tù đầy, bị kêu án 4 năm giam giữ... Trong khi đó cán bộ cộng sản thì như vụ PMU 18, thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến được phục chức, các nhà báo đưa tin vụ việc này thì vô tù hay như vụ dự án xa lộ “Hành lang Đông-Tây” trong thành phố Sài Gòn, phía Nhật Bản đã đưa xét xử vụ cán bộ công ty PCI khai đã đưa hối lộ cho Huỳnh Văn Sỹ hàng triệu mỹ kim thì ông Sỹ này mới chỉ bị kêu về tội cho thuê nhà, tội thiếu trách nhiệm thôi… với mức án 3 năm nhẹ nhàng. Nhưng sau đó do công luận bất bình vì xử án quá nhẹ nên khi xử án phúc thẩm mới nâng lên 6 năm tù giam cho nhân vật bị đem ra tế thần này nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của dư luận trong, ngoài nước…

Ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần đã nói, ông rất “muốn như ông Phạm Văn Đồng trong thời gian làm thủ tướng mấy chục năm mà chưa hề kỷ luật ai”. Nhưng còn các nhà tranh đấu dân chủ thì sẽ là tù đày, công việc làm ăn bị gây khó dễ, người thì bị tước công việc hành nghề như các luật sư, người thì bị gây tai nạn, chèn xe, phá nhà cửa, bao vây triệt hạ kinh tế khốn đốn đủ đường… Họ còn thủ đoạn hơn nữa là chỉ đạo công an của đảng và nhà nước bao vây mọi sinh hoạt, ngăn chặn, tung tin gây cản trở, phá hoại tình cảm gia đình vợ chồng cha mẹ con cái anh em họ hàng bạn bè hòng cách ly, cô lập làm lung lạc các nhà tranh đấu dân chủ… Các an ninh, viên chức của nhà nước CSVN họ nói thẳng : “Các vị muốn làm giàu thì nhìn mấy ông cán bộ cộng sản vừa nêu đó, còn muốn tranh đấu đòi tự do dân chủ thì họ sẽ bao vây mọi đường để triệt hạ tư tưởng đấu tranh đến cùng…”. Do vậy cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của người tham gia tranh đấu tự do dân chủ vô cùng gian nan vất vả, gian nan, khó khăn, nguy hiểm. Nhưng cho đến hôm nay sự đấu tranh kiên cường của các nhà tranh đấu trong nước vẫn vững vàng và phong trào tranh đấu dân chủ ngày mạnh lên chính nhờ gương đấu tranh kiên trì của các bậc tiền bối cha anh chúng ta đi trước, cũng như sự đóng góp giúp sức rất lớn của tất cả các quý vị yêu dân chủ tự do trên cả địa cầu. Nữ luật sư Lê Thị Công Nhân dũng cảm đấu tranh đã thụ hết án tù giam được trở về với gia đình nhờ các gương tranh đấu của tất cả các nhà tranh đấu trong và ngoài nước đi trước, cũng như sự tiếp sức của các quý vị là minh chứng thực tế nhất cho điều ấy. Thật đúng là :

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, phong trào trở nên mạnh mẽ khi có sự đấu tranh của các nhà dân chủ cộng với sự góp sức của nhiều đồng bào thân hữu qua những cuộc biểu tình và sự ủng hộ quyên góp của các anh chị em trong nước cũng như ở hải ngoại. Ở nước Mỹ, khi tổng thống Obama khi tranh cử có khẩu hiệu “thay đổi”, mỗi người dân hào hứng góp một số tiền nhỏ ủng hộ cuộc tranh cử nhưng đóng góp lớn nhất của họ là sự tin tưởng vào “giấc mơ Mỹ” vào sự thay đổi một đất nước hùng mạnh. Ở Việt Nam, chúng ta muốn đất nước có tự do ngôn luận, người dân được hưởng đầy đủ quyền con người, được cầm lá phiếu đi bầu cử bầu một Quốc hội thật sự của dân, những người dám đứng lên bảo vệ lãnh thổ tổ quốc, bảo vệ quyền con người,… thì không thể ngồi chờ đảng cộng sản VN “ban phát” ân huệ nhân quyền mà phải qua sự đấu tranh của các nhà tranh đấu dân chủ và sự giúp đỡ tinh thần, vật chất của tất cả anh chị em, nền chính trị lạc hậu mới được thay đổi và “ước mơ Việt” mới thành sự thật.

Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ của chúng tôi trong nước rất khó khăn, nhưng chúng tôi cũng không đơn độc, khi chúng tôi từng được biết có những mối quan tâm và chia sẻ miếng cơm, tấm áo của các anh em thân hữu xa gần lúc chúng tôi khó khăn. Sự đóng góp của anh em trong đó chan chứa tình bằng hữu như có các anh chị em trong Nhóm thân hữu ở tiểu bang Oregon bên Hoa Kỳ xa xôi do anh Nguyễn Hà Tịnh đứng mũi chịu sào; như khối đấu tranh 8406 trong quốc nội; như sự kiên trì bền bỉ của các khối yểm trợ 1706, 1906, đài phát thanh VNSR bên Úc Châu mà chị Bảo Khánh, anh Trần Hồng Quân là những người đại diện; các diễn đàn Paltakl trên Mạng do ông Sĩ Hoàng, anh Biển Nhớ, Nguyễn Nam Phong điều hành,…vv… Tất cả những hoạt động hỗ trợ có hiệu quả đó đã giúp chúng tôi vượt qua nhiều khó khăn và động viên chúng tôi kiên trì trên con đường đấu tranh gian lao nguy hiểm đầy chông gai.

Không có sự đấu tranh bền bỉ, kiên trì đóng góp của tất cả các Quý vị thì sẽ không có Dân chủ Tự do cho toàn dân tộc, cho Tổ quốc của Việt Nam yêu thương có chung ông Tổ Vua Hùng vào ngày mai sẽ đến. Tôi nhớ có lần qua làn sóng phát thanh của một đài hải ngoại, ông phóng viên có hỏi tôi : “Thưa chị, chị nghĩ sao chúng tôi là những người căm ghét chế độ cộng sản VN, chúng tôi đã ra nước ngoài và hiện nay đang sống ở một đất nước tự do, dân chủ, cuộc sống của chúng tôi rất đủ đầy hạnh phúc, sung sướng. Vậy thì chúng tôi cần gì phải quan tâm đến tình hình nhân dân và đất nước nữa ?”. Tôi có trả lời ngay quý vị đó là : “Tổ quốc Việt Nam là của tất cả những người con Lạc cháu Hồng, không phân biệt người trong nước hay hải ngoại xa xôi, không phân biệt ý thức hệ. Quý vị đã ra đi và đang yên ổn sống hạnh phúc, đủ đầy bên xứ người, quý vị có quyền suy nghĩ như vậy. Thế nhưng tôi tin là nếu có lòng yêu nước thương dân, có lương tri con người trong sáng, lành mạnh thì quý vị sẽ nhận thức và suy nghĩ khác…”.

Tôi nghĩ dân tộc Việt Nam ta sẽ tri ân tất cả những ai đã dấn thân đấu tranh cho dân chủ, cũng như đóng góp ủng hộ dân chủ ngày hôm nay. Nhà thờ Công Giáo có câu : “Tương lai nhân loại sẽ đi ngang qua các gia đình”. Tương lai của Tổ quốc ta sẽ bừng sáng khi chúng ta không ngừng đấu tranh cho tự do dân chủ, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của tổ quốc, đòi quyền tự do về cho người dân. Chúng ta đồng hành đấu tranh tự do dân chủ có gian khổ, hiểm nguy nhưng chúng ta sẽ ngẩng cao đầu vì đã không sống bo bo chỉ biết một gia đình mình và hãnh diện với con cháu muôn đời mai sau. Rằng : “ Chúng ta không cam chịu sống mất tự do, nặng lòng vì Tổ quốc thương những người dân thấp cổ bé nhỏ, không để mất một tấc đất của Tổ Tiên và nhất là không cúi đầu trước cường quyền của độc tài đảng trị của nhà nước cộng sản. Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam cần tất cả chúng ta chung tay và gắng sức cả vật chất lẫn tinh thần không phân biệt người trong nước hay ở hải ngoại…”.



Trong “Bài ca chúc tết thanh niên” của nhà chí sĩ Phan Bội Châu có viết:



“Dậy ! Dậy ! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng

Thưa các cô, các cậu lại các anh

Đời đã mới, người càng nên đổi mới

Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội

Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn.”



Lời của Cụ Phan là hồi kèn đồng vang lên kêu gọi thôi thúc tất cả chúng ta hãy- Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn vì giang sơn là của tất cả chúng ta, của tất cả con Rồng cháu Tiên chứ không của riêng đảng cộng sản Việt Nam độc chiếm, độc tài nắm giữ quyền lực tuyệt đối, toàn diện như bao thập niên qua. Tổ quốc Việt Nam có được nền kinh tế phát triển thực sự, nhân dân được tự do ấm no hạnh phúc, quyền con người được tôn trọng thực sự kêu gọi sự đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền của tất cả chúng ta, của tất cả các quý vị nặng lòng vì đất nước hôm nay và ngày mai mãi mãi.

Một lần nữa chúng tôi xin được tri ân các gương đấu tranh dũng cảm của các nhà tranh đấu dân chủ tiền bối cũng như của các quý vị hiện nay như các Hoà thượng Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh; cảm ơn sự quan tâm của các vị khác trong giáo hội như Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, các linh mục Chân Tín, Phan Văn Lợi, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Giải trong nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền và tất cả anh chị em yêu dân chủ trong nước và hải ngoại… Xin cảm ơn các vị tranh đấu cho tự do dân chủ, cũng như xin cảm ơn tất cả các vị có tấm lòng hảo tâm giúp sức vật chất và tinh thần cho phong trào dân chủ trong nước vững mạnh.



Hà Nội ngày 20-24/3/2010

Dương Thị Xuân - ký giả báo Tập san Tự do Dân chủ

Email : hanoihoabinhxanh@ yahoo.com

Tro ve dau trang

=======================================

===================================================



Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ hay Hạm Đội 7 (United States 7th Fleet)
là một đội hình quân sự của hải quân Hoa Kỳ có căn cứ tại Yokosuka, Nhật Bản, với các đơn vị đóng gần Nam Hàn và Nhật Bản. Nó được đặt dưới quyền chỉ huy của Hạm Đội Thái Bình Dương. Hiện tại nó là hạm đội lớn nhất trong các hạm đội triển khai tiền phương của Hoa Kỳ, với 50–60 chiến hạm, 350 máy bay và 60.000 nhân sự hải quân v< >Một số ảnh các tàu triển khai tiền phương của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ




























Nguon: Luc Nguyen
================================================
=========================================================

Nhận định của Tư lệnh Mỹ về tình hình Châu Á-Thái Bình Dương
Quỳnh Như, phóng viên RFA
2010-03-26

Mới đây tại thủ đô Washington, Tư lệnh các Lực lượng Hoa Kỳ tại khu vực Thái Bình Dương, Đô đốc Robert Willard gặp gỡ các ký giả và trao đổi về tình hình tổng quan khu vực này.
RFA PHOTO

Tư lệnh các Lực lượng Hoa Kỳ tại khu vực Thái Bình Dương, Đô đốc Robert Willard.


Quanh Thái Bình Dương hiện có hơn 3 tỉ rưỡi người đang sinh sống trên 36 quốc gia, bao trùm hơn phân nửa bề mặt trái đất với những nền kinh tế đang phát triển đầy sôi động. Đây cũng là nơi có nhiều diễn biến nóng bỏng về chính trị, quân sự, chiến lược, liên quan chặt chẽ đến quyền lợi và sự quan tâm của Hoa Kỳ.

Bảo vệ hòa bình và ổn định
Bộ Tư Lệnh Lực lượng Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục phát huy vai trò từ trước tới nay là bảo vệ hòa bình và ổn định cho khu vực này. Hiện nay Hoa Kỳ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình hợp tác chiến lược với các quốc gia đồng minh và đối tác chiến lược mới trong khu vực để duy trì an ninh và thịnh vượng trong vùng.


“Về vấn đề khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và Shin-ka-ku ở biển Đông Trung Hoa, kể cả phần lãnh hải dọc biên giới Trung Quốc và Ấn Độ. Chúng ta nên giải quyết một cách ôn hòa.

Đô đốc Robert Willard

Trong buổi họp báo, Tư lệnh các Lực lượng Hoa Kỳ Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Đô đốc Robert Willard trình bày như vậy về tình hình an ninh hiện nay của khu vực, sự hiện diện của Lực lượng Hoa Kỳ và sự hợp tác chiến lược với các đối tác trong khu vực nhằm giữ vững an ninh phát triển cho các quốc gia trong vùng.

Đô đốc Willard đề cập đến năm nhiệm vụ trọng yếu hiện nay mà Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Mỹ phải quan tâm đối phó. Thứ nhất, quan hệ hợp tác chiến lược với các quốc gia đồng minh trong khu vực như: Nhật Bản, là nước đồng minh chiến lược quan trọng có nhiệm vụ duy trì ổn định ở vùng Đông Bắc Á; kế đến là Nam Hàn với hơn 50 năm hợp tác để bảo đảm sự an ninh khu vực bán đảo Triều Tiên; Thái Lan, Philippines là hai nước đồng minh lâu đời với Hoa Kỳ. Và tất nhiên cũng phải kể tới Australia. Các nứơc đối tác chiến lược gồm có Indonesia, Ấn Độ, và một số quốc gia khác trong khu vực.

Vấn đề quan tâm kế tiếp mà Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương chú trọng đến trong khu vực này là công tác chống khủng bố. Các phần tử khủng bố Hồi giáo hiện vẫn đang hoạt động ở miền Nam Philipin, Indonesia, hay tại Ấn Độ với các hoạt động khủng bố mới xảy ra vài tháng trước đây ở thành phố Mumbay. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ cũng quan tâm đến những vấn đề bất ổn khác của khu vực như: việc vận chuyển mua bán ma túy, tệ nạn buôn bán người, hải tặc… Đây là những thách thức đặt ra không chỉ đối với Bộ Tư Lệnh các Lực Lượng Hoa Kỳ ở Châu Á-Thái Bình Dương, mà còn là nhiệm vụ mà các đơn vị khác, và những quốc gia trong khu vực phải giải quyết.

Trung Quốc hiện đại hóa quốc phòng gây lo ngại cho nhiều nước, ảnh chụp năm 2009. AFP Photo.



Quan hệ Mỹ-Trung là mối quan tâm thứ ba của Hoa Kỳ ở khu vực này.

Kế đến là quan hệ đối tác chiến lược mới giữa Ấn Độ và Mỹ. Đây là mối hợp tác quan trọng để bảo đảm an ninh ở Nam Á.

Một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng là Bắc Hàn. Hoa Kỳ và nhiều nước khác đều nỗ lực để bán đảo Triều tiên trở thành khu vực phi hạt nhân.

Bên cạnh những trọng trách nặng nề đó, Bộ Tư Lệnh các Lực lượng Hoa Kỳ Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cũng có những cơ hội trao đổi, hợp tác rất tích cực trong một khu vực năng động và có nhiều tiềm năng.

Quan hệ Trung Quốc

“Ông Từ Tài Hậu mời tôi đi thăm Trung Quốc, nhưng mọi việc bị gián đoạn do vấn đề bán vũ khí cho Đài Loan. Hoa Kỳ mong cuộc hội đàm song phương với Trung Quốc sớm được tái tục.

Đô đốc Robert Willard

Việc Trung Quốc phát triển và tăng cường khả năng quân sự khiến nhiều người lo ngại. Điều này làm cho Hoa Kỳ thấy rõ tầm quan trọng trong việc duy trì đối thoại với Trung Quốc về lĩnh vực quân sự, và an ninh quốc phòng. Vấn đề này hiện đang bị ngưng trệ vì việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan.

Tuy nhiên Hoa Kỳ vẫn muốn tiếp tục thảo luận với Trung Quốc về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. Theo Đô Đốc Willard thì cả Mỹ và Trung Quốc đều được lợi ích nếu hai bên tiếp tục cuộc đối thoại. Ông nói:

“Lần tiếp xúc gần đây nhất của tôi với phía Trung Quốc là cuộc gặp gỡ Thượng Tướng Từ Tài Hậu của Quân uỷ Trung Ương Trung Quốc, khi ông này sang thăm và làm việc với Bộ trưởng Gates tại thủ đô Washington. Cuộc đối thoại của chúng tôi rất tích cực. Chúng tôi đã thảo luận về những lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm. Ông Từ cũng đồng ý rằng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Trung Quốc có những lợi ích chung trong các lĩnh vực như: cứu trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai, chống hải tặc, chống phổ biến vũ khí nguy hiễm. Ông Từ Tài Hậu mời tôi đi thăm Trung Quốc, nhưng mọi việc bị gián đoạn do vấn đề bán vũ khí cho Đài Loan. Hoa Kỳ mong cuộc hội đàm song phương với Trung Quốc sớm được tái tục.”

Liên quan đến khu vực Biển Đông và việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở phần lãnh hải này. Đô đốc Willard nhấn mạnh:

Bản đồ vùng biển Nam Trung Hoa và vùng biển Đông Trung Hoa mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. RFA Photo from Google Map. “Về vấn đề Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở khu vực biển Nam Trung Hoa và biển Đông Trung Hoa, Hoa Kỳ đã từng có mặt ở khu vực này từ lâu. Mọi người đều biết rằng, trao đổi thương mại thông qua các đường dây viễn liên ngầm dưới biển hay các phương tiện thông tin liên lạc trên không qua khu vực này trị giá trên cả ngàn tỉ đô la mỗi năm. Hoa Kỳ có nhiệm vụ bảo vệ các đường dây viễn liên này, để tất cả mọi người có thể sử dụng. Đó là lợi ích mà các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ rất quan tâm. Và đó cũng là lợi ích của cả Trung Quốc. Khu vực như biển Nam Trung Hoa và biển Đông Trung Hoa là mối quan tâm đặc biệt của tôi, và của Bộ Tư Lệnh các Lực lượng Hoa Kỳ ở khu vực Á Châu-Thái Bình Dương. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền hưởng thụ vùng biển, vùng trời, điều đó sẽ mang lại lợi ích cho cả khu vực.
Về vấn đề khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và Shin-ka-ku ở biển Đông Trung Hoa, kể cả phần lãnh hải dọc biên giới Trung Quốc và Ấn Độ. Tôi nghĩ vì lợi ích của tất cả chúng ta nên ai cũng đều mong muốn vấn đề được giải quyết một cách ôn hòa, thông qua các cơ chế đa phương như ASEAN.

Thực ra, khu vực Châu Á-Thái Bình Dương không chỉ liên quan đến vấn đề Trung Quốc mà còn những vấn đề liên quan đến nhiều quốc gia khác nữa. Những vấn đề đó cần được giải quyết giữa các chính phủ, để có thể giải quyết một cách ôn hòa.”

Trong cuộc họp báo này Đô đốc Tư lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cũng đề cập đến một số vấn đề hiện nay như: quan hệ xuyên eo biển Đài Loan, vấn đề sắp xếp lại các căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật Bản, và việc tái tục Hội nghị 6 bên về vấn đề giải giới hạt nhân của Bắc Hàn.

Quỳnh Như tường trình từ Washington
==========================================
==================================================

Monday, March 29, 2010

Chiến Tranh Và Người Mỹ Trên Quê Hương Tôi



Kỷ niệm 35 năm người Việt tị nạn tại hải ngoại. Kính tưởng niệm tất cả anh linh chiến sĩ Việt Nam – Hoa Kỳ và đồng minh, có Anh Chị Em ruột thịt của tôi, đã hy sinh vì chính nghĩa Tự Do trong chiến tranh Việt Nam trước tháng 4 / 1975



Huyên Chương Quý



Năm 1961, má tôi bị bệnh tê liệt, chạy chữa khắp nơi, thuốc Bắc, thuốc Nam vẫn không khỏi, phải vào nằm nhà thương thí thị xã Phan Rang. Cha tôi đã mất. Chị Mùi, trưởng nữ, đi buôn dưa tận tỉnh Long Khánh, thỉnh thoảng mới về thăm má. Anh Phùng, trưởng huynh, anh Thiện kế tôi, đều đi học nghề thí công ở nhà chủ. Em Hỷ làm con nuôi người ta. Chỉ còn tôi luôn quấn quýt ở bên má. Thấy gia cảnh má nghèo, ban giám đốc cho tôi được ở lại luôn tại nhà thương để phụ chăm sóc má.

Hàng ngày, ngoài hai lần đến nhà bếp lãnh cơm về cho má và tôi cùng ăn, tôi thường đi la cà các khu bệnh khác trong nhà thương. Có lần đi ngang khu cấp cứu, tôi thấy nhiều thương binh nằm ở ngoài sân. Người nào cũng máu me lênh láng đầy mình. Họ rên rĩ, la hét vì cơn đau của những vết thương. Không hiểu vì sao có nhiều người bị thương như vậy, tôi tần ngần đứng nhìn một lúc, thấy tội nghiệp cho họ lắm. Lần khác, khi có vài anh lính khỏe mạnh khiêng thương binh vào khu cấp cứu xong thì ngồi nghỉ mệt, tôi làm gan đến hỏi. Các anh cho biết vừa mới đánh nhau ác liệt với tụi Việt cộng ở Sông Pha, cách thị xã vài chục cây số. Tôi không biết tụi Việt cộng là ai. Tôi nghĩ chắc là bọn ăn cướp. Tuổi mới lên bảy, tôi chưa biết gì về chiến tranh.

Nằm nhà thương vài tháng, bệnh.má tôi vẫn không thuyên giảm. Cô Ba Tình, em kết nghĩa của cha tôi, đưa hai má con tôi về lại làng Tấn Tài B, cách thị xã bốn cây số, ở trong ngôi nhà tranh nhỏ trong vườn nhà cô. Tháng 8 / 1962, má tôi mất. Cô Ba nhận tôi làm con nuôi, cho ăn học tử tế. Sau vài lần ngồi khóc một mình trong xó tối vì nhớ má, tôi trở lại tính hồn nhiên, đi học, đi chơi với bạn bè, quên đi thời gian cơ cực mỗi ngày phải tự đi chợ, đi lượm củi, nấu cơm, nấu thuốc Bắc, lo lắng cho mẹ hiền bệnh hoạn nằm một chổ; quên cả hình ảnh các thương binh máu me đầy mình ở khu cấp cứu trong nhà thương. Có vài ngày má nuôi và nhiều người khác trong làng đi làm hàng rào ấp chiến lược. Tôi đi theo má nuôi, lanh chanh chạy chổ này, chổ nọ chứ chẳng giúp được gì cho ai. Tôi hỏi má nuôi sao phải làm hàng rào dài thế, má nuôi nói là để không cho Việt cộng vào làng, vì Việt cộng nó ác lắm. Cuối năm, có anh Phước, người cháu của má nuôi từ tỉnh Lâm Đồng về chơi, kể cho tôi nghe những trận đánh của anh với Việt cộng; nhiều lần một mình anh mà đánh lui cả trăm tên Việt cộng. Anh đặt nhiều khẩu súng dọc theo giao thông hào, rồi chạy xẹt tới, xẹt lui bắn loạn xà ngầu, tụi Việt cộng sợ quá phải bỏ chạy. Lớn lên, tôi biết anh nói dóc. Anh còn nói dóc là Việt cộng nó ốm tong, ốm teo như con khỉ, nhiều thằng leo lên cây đu đủ cũng không gãy. Nhưng lúc đó còn nhỏ, nghe anh kể, tôi phục lăn. Anh cho tôi biết Việt cộng đang gây chiến tranh ở nhiều nơi trên đất nước. Rồi nhờ các bài học lịch sử vở lòng, thêm đọc truyện “Tuấn, chàng trai nước Việt” của Nguyễn Vỹ, tôi mới hiểu thế nào là giặc ngoại xâm gây họa chiến tranh, sự tàn ác của bọn Tàu và sự bóc lột dân ta của người Pháp. Bây giờ thêm tụi Việt cộng ác ôn gây chiến. Tôi thấy sợ chiến tranh, căm ghét tụi Việt cộng, oán hận giặc Tàu phương Bắc và giặc Pháp phương Tây. Đời sống quanh tôi ở Phan Rang bấy giờ rất thanh bình. Nhưng qua lời kể chuyện của anh Phước, trí óc tuổi thơ tôi cũng lờ mờ hiểu được hiểm họa chiến tranh đang xảy ra trên quê hương.

Hè 1965, tôi học xong lớp ba. Chị Mùi đưa mấy anh em tôi vào Long Khánh sống với chú thiếm Bảy tại ấp Tân Phú. Con đường đất đỏ từ thị xã Xuân Lộc đi vào ấp mang tên Hoàng Diệu có một đồn lính Mỹ ở đầu ấp. Mọi người gọi là đồn Hoàng Diệu. Cách ấp khoảng hai cây số, có thêm căn cứ đóng quân của Sư đoàn 18 bộ binh và Lực lượng Thiết giáp. Nhiều lần, xe thiết giáp và xe GMC chở đầy lính chạy rầm rầm ngang qua ấp, đi về hướng rừng sâu, bụi tung mù mịt cả con đường. Tôi đoán là lính đi hành quân đánh Việt cộng. Rồi, nhiều lần có những tiếng nổ ầm ầm trong đêm, nghe rất gần. Cả gia đình đều chạy xuống hầm. Chú Bảy nói đó là Việt cộng pháo kích. Bộ mặt chiến tranh đã hiện rõ trước mắt tôi.

Một ngày, đi học về trên đường Hoàng Diệu, ngang qua đồn lính Mỹ, tôi nhìn thấy nhiều người lính Mỹ ra, vào đồn. Họ da trắng, cao lớn, mủi lỏ, mắt xanh. Có vài người cũng cao lớn nhưng mặt mày đen thui. Nhớ lời má nuôi kể giặc Pháp thời trước cũng dáng người cao lớn, mủi lỏ, mắt xanh, thêm có nhiều lính lê dương da đen rất hung ác, tự nhiên tôi thấy sợ sợ những người lính Mỹ này. Tôi nghĩ, chắc là họ xâm lăng nước mình. Lòng hiếu kỳ khiến tôi cứ đứng nhìn chăm chăm vào họ. Nhưng sao trông họ hiền hòa quá, chẳng có chút gì hung dữ như giặc Tây. Họ cười vui vẻ khi thấy tôi đứng nhìn. Còn vẫy vẫy tay với tôi nữa. Một người lính đen đến gần, chìa ra trước mặt tôi cây kẹo chewing gum. Tôi lắc đầu không nhận, ù chạy về nhà. Tôi nói với chú Bảy :

- Hôm nay lần đầu tiên con gặp người Mỹ. Trông tướng họ giống như giặc Tây vậy. Bộ người Mỹ xâm lăng nước mình hở chú ?

Chú Bảy cười xòa :

- Họ không phải là giặc xâm lăng đâu con.

- Vậy họ đến nước mình làm chi ?

- Vì nước Mỹ, còn gọi là Hoa Kỳ, là đồng minh nước Việt Nam Cộng Hòa mình, nên họ gửi lính qua giúp mình đánh Việt cộng.

- Vậy người Mỹ là bạn của mình. Hèn chi con thấy họ hiền ghê, còn cho con kẹo nữa, mà con không lấy. Nước Mỹ ở đâu chú ?

- Ở Châu Mỹ. Còn nước Pháp ở Châu Âu. Hai nước cách xa nhau lắm. Mỹ là nước giàu mạnh, lãnh đạo khối thế giới tự do chống lại cộng sản. Tụi cộng sản Tàu, Nga nó ác lắm, thường giết hại dân lành. Việt cộng là tay sai của cộng sản Nga, Tàu nên cũng rất ác ôn, chuyên đấu tố, cướp của, giết người. Trước năm 1954, ba của con làm Chánh tổng ở tổng Phước An, tỉnh Ninh Thuận, giàu có lắm, bị Việt cộng, hồi đó gọi là Việt minh, vào đốt nhà, cướp hết tài sản, đất đai. Ba má con mới chạy về làng Tấn Tài B lánh nạn, sống nghèo khổ như vậy.

Đối với tuổi thơ tôi, người Mỹ đã hiện diện trên quê hương tôi bắt đầu từ lần đầu tiên nhìn thấy đó. Rồi hình ảnh người Mỹ trở thành quen thuộc khi tôi thường nhìn thấy những xe GMC chở lính Mỹ chạy trên nhiều con đường khác trong thị xã. Đám trẻ nhỏ mỗi khi thấy xe lính Mỹ chạy qua là ùa ra vẫy tay, kêu ỏm tỏi những tiếng ô kê, ô kê, hê lô, hê lô để mong được lính Mỹ quăng cho vài cây kẹo.

Có lính Mỹ đóng quân, con đường Hoàng Diệu dần dần trở nên vui nhộn với những quán bar mọc lên san sát, đối diện với suốt cả chiều dài của đồn Mỹ. Những cô gái trẻ, mặt đầy phấn son, mặc Mini bó sát, ngắn củn cởn, thường ra đứng trước cửa quán mời mọc lính Mỹ. Có anh nào chịu vào quán là các cô ôm eo, bá vai, cười nói lả lơi. Thỉnh thoảng, có vài anh lính Mỹ say xỉn làm bậy cái gì đó, các cô la ới ới, chạy sấp chạy ngửa ra đường.

Số phận ấp Tân Phú có chung số phận với đồn Mỹ khi phải chịu đựng những trận đạn pháo của Việt cộng rót vào. Mỗi khi bị Việt cộng pháo kích, đồn Mỹ pháo trả lại. Tiếng nổ ầm ầm vang dội trong đêm. Cứ sau giờ cơm nước buổi tối, người dân trong ấp lại phập phồng lo sợ, không biết lúc nào Việt cộng sẽ bắn pháo. Họ ngủ không yên giấc. Gia đình chú thiếm Bảy tôi cũng vậy. Phần tôi, mỗi lần phải chạy xuống hầm tránh đạn pháo kích, tôi thấy ớn ớn căn hầm. Tôi với cả nhà tám người chụm lại, ngồi chồm hổm ở dưới hầm. Vách hầm đất đỏ ẩm ướt, bốc lên mùi hôi hám, thật khó chịu, tôi muốn ói. Tôi còn gục tới, gục lui vì cơn buồn ngủ, nhiều lúc ngã lăn kềnh trong hầm, mặt, mủi, tay, chân, quần áo dính đầy đất đỏ..

Có nhiều trận pháo kích, đạn rót trúng ngay nhà dân. Tiếng la hét, kêu gào của những người hàng xóm bị thương nghe thật thảm thiết, thê lương trong đêm đen. Những trận pháo kích của Việt cộng tăng lên, từng đêm, từng đêm. Riết rồi chú Bảy tôi không thèm chạy xuống hầm nữa. Mọi người trong gia đình ngồi dưới hầm mà cứ nơm nớp lo lắng cho chú. Thiếm Bảy gào lên :

- Xuống hầm đi ông. Xuống hầm đi ông.

Tiếng chú tôi nói vọng xuống :

- Mấy người cứ ở yên dưới hầm đi. Đừng lo cho tôi.

Thiếm Bảy càng gào to hơn :

- Trời ơi ! Ông muốn chết sao ? Tôi lạy ông !. Xuống hầm đi ông.

- Đừng lo. Gần đất, xa trời rồi, sợ gì chết.

Cứ vậy, đêm nào cũng điệp khúc đó giữa chú thiếm, thành quen thuộc với tôi. Cũng từ đó, tôi bắt đầu mỗi ngày biết dán mắt vào những mẫu tin tức chiến sự trên các nhật báo. Tôi biết được chiến tranh đã lan ra khắp miền Nam Việt Nam. Con số lính Mỹ tham chiến lên tới mấy trăm ngàn người. Còn có thêm quân các nước đồng minh khác như Đại Hàn, Thái Lan, Tân tây Lan, Úc đại Lợi, Phi luật Tân. Cường độ chiến tranh leo thang, thì lính Mỹ ở đồn Hoàng Diệu và người dân ấp Tân Phú càng hứng chịu nhiều hơn những trận pháo kích của Việt cộng. Cứ vài ngày là có một ngôi nhà bị đổ sập, tan hoang, và vài người dân chết hoặc bị thương. Tuổi thơ tôi có lần tự hỏi : Vì người Mỹ có mặt càng ngày càng đông trên quê hương tôi mà chiến tranh lan rộng, hay vì Việt cộng tăng cường chiến sự, mở rộng chiến tranh mà người Mỹ mới ngày càng có mặt đông đảo trên quê hương tôi ? Rồi tôi cũng quên đi những thắc mắc đó. Chuyện chiến tranh ngày càng khốc liệt trên quê hương trở thành quen thuộc, như chuyện ăn cơm mỗi bửa, sáng, trưa, chiều. Trí óc non nớt của tôi chưa đủ sức để tìm hiểu những vấn đề phức tạp. Tôi phải lo học hành. Còn phải đi phụ ruộng rẫy với gia đình chú thiếm.

Cuối năm 1966, chị Mùi lấy chồng là lính Biệt kích Mỹ. Tôi và anh Thiện theo ở với chị. Biệt kích Mỹ là binh chủng do người Mỹ trực tiếp huấn luyện, chỉ huy và trả lương. Mới đầu, đại đội anh Vọng, anh rể tôi, đóng quân ở Gia Liêu, gần thị xã. Vài tháng sau, đơn vị anh Vọng chuyển lên đóng trại ở lưng chừng núi Thị, cách thị xã khoảng mười cây số. Ở trên đỉnh núi, có căn cứ sĩ quan Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ. Chị tôi nhận được công việc nấu ăn cho sĩ quan Mỹ. Mỗi tối, khoảng 8 giờ, tôi lên đỉnh núi đón chị về. Nhiều lần tôi gặp các sĩ quan Mỹ. Họ rất thân thiện, cởi mở. Lúc thì ông sĩ quan Mỹ trắng lấy bánh ngọt mời tôi ăn. Lúc khác thì ông sĩ quan Mỹ đen lấy cho tôi lon cô ca lạnh, rồi xoa đầu tôi và nói vài câu tiếng Anh. Chị tôi thông ngôn lại : “Ổng nói em hiền hậu, trắng trẻo, dễ thương, nhưng dáng người có chút xíu khoảng tám, chín tuổi. Ổng không tin là em đã 13 tuổi rồi” Tôi bẽn lẽn cảm ơn ông. Tôi thấy thiện cảm với người Mỹ. Nên lúc đọc báo, biết được nhiều lính Mỹ bị thương, tử trận khi sát cánh chiến đấu với lính mình ở khắp nơi trên nửa lãnh thổ hình cong chữ S, tôi thấy đau xót cho họ. Quên bẵng những lời giải thích của chú Bảy, tôi lại tự hỏi : Tại sao từ một nơi xa lắc, xa lơ cách một Thái Bình Dương vời vợi, người Mỹ lại đến đây chiến đấu cho quê hương tôi và chết vì quê hương tôi như thế ?

Gần cuối năm 1967, đại đội anh Vọng chuyển đi trại Biệt kích Mỹ Bến Sỏi, ở tận tỉnh Tây Ninh. Chị tôi theo chồng. Tôi và anh Thiện về ở với cô Lang, em họ lớn tuổi của tôi trong xóm cây cao su, gần bến xe Xuân Lộc. Anh Phùng rời nhà chú Bảy đi Sài Gòn sống với gia đình dì Mười, bà con bên ngoại. Tết Mậu thân, 1968, Việt cộng tổng tấn công vào Sài Gòn, Huế và khắp các tỉnh, thành khác ở miền Nam. Thị xã Xuân Lộc cũng không tránh khỏi. Tôi không ngờ cô Lang là cán bộ Việt cộng nằm vùng. Trong đêm giao thừa, cộng quân tấn công vào thị xã, cô dẫn Lộc, 17 tuổi, con trai cô và anh Thiện đi vòng vòng trong xóm, kêu gọi người dân nổi dậy lật đổ chính quyền “Mỹ, Ngụy”. Nằm trong nhà, tôi nghe rõ mồn một tiếng cô Lang, Lộc và anh Thiện vang lên om om trong đêm khuya. Cuộc tấn công của Việt cộng bị thất bại, phơi nhiều xác trong thị xã. Cô Lang dẫn Lộc và anh Thiện đi vào rừng làm du kích. Tôi chạy về lại nhà chú Bảy. Học hết lớp đệ thất ( lớp 6 ), tôi đi Sài Gòn sống với anh Phùng. Tại Sài Gòn, nhiều nơi vẫn còn dấu tích bị tàn phá bởi đạn pháo, và người dân vẫn còn nét lo lắng, ưu tư trên khuôn mặt. Riêng Huế bị cộng quân chiếm giữ 25 ngày, tàn sát hơn sáu ngàn dân rồi chôn vào mấy chục hố chôn tập thể trong thành phố. Nghe người ta kể lại, tôi thấy ớn lạnh vì sự tàn ác của Việt cộng.

Cuối năm 1968, cô Lang cho người báo tin cho chú Bảy là anh Thiện và Lộc đã chết trong một trận càn quét của Sư đoàn 18. Nghe chú Bảy kể lại, tôi ra sau hè, ngồi lặng lẽ một hồi thì bật khóc nức nở. Kế tiếp là Ngọc, lính Sư đoàn 18, con trai duy nhất của chú Bảy cũng hy sinh trong một trận đánh vào cứ địa Việt cộng tại biên giới Việt – Miên. Rồi anh Phùng vào lính, sư đoàn 7 bộ binh, đóng quân tại căn cứ Đồng Tâm, gần thành phố Mỹ Tho. Tôi đi Tây Ninh, sống với anh chị Mùi trong trại Biệt kích Mỹ Bến Sỏi, từ giữa năm 1969 đến giữa năm 1970. Đây chính là thời gian tôi có những kỷ niệm thật đẹp, thật êm đềm, vui vẻ với nhiều người lính Mỹ, và hiểu rõ hơn tại sao người Mỹ đã đến đất nước tôi, ra công, ra sức, ra tiền, tốn hao bom, đạn, xương máu để bảo vệ miền Nam Việt Nam.

….

Trại Biệt kích Mỹ Bến Sỏi do một nhóm sĩ quan Lực lượng đặc biệt Việt Nam trực tiếp chỉ huy nhưng thuộc quyền chủ quản của Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ B16, tỉnh Tây Ninh. Trại cách biên giới Việt – Miên khoảng sáu, bảy cây số. Chung quanh công sự phòng thủ của trại có sáu hàng rào kẻm gai gắn mìn “định hướng”, loại mìn bắn mìểng về phiá trước chống địch quân xâm nhập. Vòng ngoài xa xa, ở phía Bắc và Tây là những xóm nhà dân, phía Đông là cánh đồng hoang, phía Nam là con sông Vàm Cỏ lượn lờ chảy ngang qua. Quân số của trại có bốn đại đội Biệt kích, thêm một đội Pháo binh tăng cường. Lính của ba đại đội : 349, 351, 352 đều là người Việt chính gốc. Riêng đại đội 350 do anh Vọng làm đại đội phó toàn người Việt gốc Miên, được Mỹ tuyển dụng từ tỉnh Trà Vinh.

Anh Vọng cũng là người Việt gốc Miên nhưng có nước da trắng hơn nhiều người Việt. Dáng người anh dong dong, phong nhã, trông như thư sinh. Khuôn mặt anh có nét rắn rỏi, can trường của một người lính dày dạn gió sương. Miệng anh lúc nào cũng nở nụ cười tươi, và tính tình rất hòa nhã, khiêm tốn. Có lẽ đó là điều khiến chị tôi hết mực yêu thương anh và sống với anh rất hạnh phúc. Tôi mừng cho chị tôi lấy được người chồng tốt. Anh Vọng thương tôi như em ruột. Lần này, chính anh viết thư kêu tôi đi Bến Sỏi sống với anh chị; cho anh chị em gần gũi nhau. Anh đã chờ cả buổi ở bến xe Tây Ninh để đón tôi, đưa tôi về Bến Sỏi. Anh kể lại, trong mấy năm qua, vì ở gần biên giới là vùng cứ địa Việt cộng, nên trại Bến Sỏi chịu đựng nhiều áp lực nặng nề của cộng quân. Đã nhiều lần cộng quân tấn công vào trại bằng chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, nhưng đều bị thất bại trước sự chống trả quyết liệt của lực lượng Biệt kích Mỹ. Chúng rút lui, đã bỏ lại nhiều xác chết vắt vẻo trên các hàng rào kẻm gai. Còn chuyện hứng chịu những cơn mưa pháo của Việt cộng hằng đêm là chuyện quá thường tình đối với người lính Biệt kích Bến Sỏi và vợ con của họ. Chị Mùi theo anh Vọng mấy năm qua, đã quen với những gian nguy, khổ cực của đời vợ lính. Đạn, bom, sự chết chóc của con người trong chiến tranh, đối với chị đã trở thành quen thuộc.

Anh chị Mùi bấy giờ đã có một đứa con trai lên một tuổi, tên Quang. Tôi sống với anh chị và cháu Quang trong một căn nhà mái tôn xập xệ ở xóm dân, gần bến phà sông Vàm Cỏ. Anh Vọng bận nhiều công vụ, chỉ xẹt về nhà một chút khi có giờ rãnh. Mỗi trưa, tôi vào trại lãnh cơm về cho cả nhà ăn. Mỗi chiều, chị Mùi bế cháu Quang cùng với tôi vào trại, ngủ qua đêm trong một căn hầm chất đầy bao cát chung quanh và trên nóc; cũng là công sự phòng thủ rất kiên cố. Hai tháng đầu, tôi chỉ long nhong đi chơi trong các xóm dân. Tôi làm quen được vài đứa bạn cùng lứa tuổi, thường hẹn nhau đi hái ổi, hái me ở các vườn hoang. Ăn đã rồi bắn bi, vật lộn. Sau đó rủ nhau đi tắm sông, thi đua bơi lội. Có lần, tôi xin theo ca nô của các anh đội Giang thuyền. Ca nô lướt nước dọc theo dòng sông Vàm Cỏ uốn khúc quanh co. Hai bên sông, chen lẫn với hàng dừa xanh, là những khóm hoa dại đủ màu, đỏ, vàng, tím. Phong cảnh thật đẹp, nên thơ. Khi đã xa khu dân cư, các anh Giang thuyền quăng một trái lựu đạn xuống nước. Vài phút sau, cá nổi lềnh bềnh, nhìn vui con mắt. Chúng tôi tranh nhau vớt cá, cười, nói ầm ĩ. Đời sống thật vui, nhưng vô tích sự. Có lẽ thấy cái vô tích sự đó, nên giữa tháng 8 / 1969, tôi đi bán đậu phộng rang trong trại.

Thường, ăn cơm trưa xong, nghỉ ngơi một tiếng, tôi mới đến nhà chủ lấy đậu phộng rang đem vào trại. Công việc nhẹ nhàng này cũng cho tôi có được vài chục đồng tiền lời mỗi ngày để tiêu xài lặt vặt. Mới đó, đã đi bán được một tháng. Một buổi chiều, thấy thùng đậu chỉ còn lại vài gói, tôi ngồi nghỉ trên một công sự gần dãy nhà cố vấn Mỹ. Một ông cố vấn Mỹ, trông còn trẻ, từ trong dãy nhà bước ra, đi tới, đi lui ở hàng hiên. Không biết ông định làm cái gì. Chắc là vận động cho giãn gân, giãn cốt. Bỗng ông nhìn về phía tôi, rồi đến gần. Ông nở nụ cười rất tươi, nói :

- Hello! How are you ?

Tôi cũng biết bập bõm vài câu tiếng Anh thông thường, hiểu câu này là câu chào, hỏi thăm, nên cũng cười tươi, trả lời :

- Yes ! I am very good. And you ?

- Very good too !

Rồi ông chỉ vào thùng đậu phộng : - How much ?

Vốn đã có thiện cảm với người lính Mỹ, tôi muốn nhân dịp này thể hiện cảm tình của tôi nên vội lấy ra hai gói đậu đưa ông, rồi quơ quơ tay, nói :

- I like you. I don’t take money

Nét ngạc nhiên hiện lên trên khuôn mặt ông. Ông nói một câu hơi dài, tôi tỏ vẻ không hiểu. Ông mới ngoắc tay : - Come with me.

Tôi đi theo ông vào nhà cố vấn. Ông gọi một anh lính Việt đến, nói với ảnh điều gì đó. Ảnh quay sang tôi, tự giới thiệu :

- Anh là Tô, thông dịch viên. Còn ổng là Bonny, trung úy cố vấn trưởng ở đây. Ổng nói em đi bán mà sao lại không muốn lấy tiền của ổng ?.

Tôi ấp úng, ơ ơ một hồi mới nói :

- Dạ, tại vì em thấy rất quý trọng những người lính Mỹ. Họ từ nước Mỹ xa xôi lại đến nước mình, giúp mình đánh Việt cộng. Em ghét Việt cộng lắm.

Anh Tô nói lại với ông Bonny, ông gật gật đầu. Qua anh Tô thông ngôn, ông nói chuyện với tôi :

- Em tốt lắm. Em tên gì ? Mấy tuổi ?

- Dạ, em tên Quý, 15 tuổi.

- Em đang ở với ai trong trại ?

- Dạ, em ở với anh chị. Anh rể em là anh Vọng, đại đội phó đại đội 350

- Còn ba má em đâu ?

- Dạ, ba má em đã mất lúc em còn nhỏ.

- Em có đi học không ?

- Dạ, em học hết lớp đệ thất thì nghỉ. Bây giờ ở đây muốn đi học cũng khó. Từ Bến Sỏi đến thị xã Tây Ninh mấy chục cây số. Xa quá.

Trung úy Bonny trầm ngâm một lúc rồi nói với anh Tô một câu hơi dài. Anh Tô mỉm cười thông ngôn lại :

- Ổng nói hoàn cảnh của em thật tội nghiệp. Ổng thấy thương. Em 15 tuổi gì mà có chút xíu, như là mười tuổi. Nhìn dễ thương lắm. Từ ngày mai, em đừng đi bán đậu phộng nữa. Cực khổ. Em đến ở tại nhà cố vấn này luôn. Coi như ổng nuôi em. Anh Tô vỗ vai tôi, nói tiếp : - Sướng rồi đó. Em cảm ơn ổng đi.

Tôi đứng dậy, nói lí nhí :

- Thank you very much. Rồi tôi lấy ra hết mấy gói đậu trong thùng đưa cho anh Tô : - Còn mấy gói, em biếu anh. Ngày mai, em sẽ đến.

Ông Bonny bắt tay tôi :

- See you tomorrow.

Tôi cúi đầu chào ông, cảm ơn anh Tô rồi về hầm kể cho chị Mùi nghe. Chị vui vẻ nói :

- Ờ, vào sống trong nhà cố vấn thì sướng cho mày rồi. Nhưng nhớ đừng có làm cái gì bậy mà người ta coi thường người Việt Nam mình.

Nhà cố vấn Mỹ có năm gian. Gian thứ nhất ăn thông với hầm làm việc và ngủ, nghỉ của ban cố vấn. Gian thứ hai rất rộng, gồm nhà bếp, phòng giải trí, cũng là nơi ngủ của anh Tô, anh Kim và tôi. Gian giữa hẹp hơn, dùng làm phòng khách, có cửa ra vào phiá trước, phía sau. Gian thứ tư và gian thứ năm là nơi làm việc, ngủ, nghỉ của đội Công binh, Truyền tin Mỹ tăng cường. Họ phụ trách đài quan sát cao mấy chục mét dựng ở giữa sân trại. Phía sau dãy nhà có các hầm trú ẩn cho mọi người mỗi khi có pháo kích. Hai tuần lễ đầu ở đây, ngoài trung úy Bonny và anh Tô, tôi còn quen thân với trung sĩ John, cố vấn phó, anh Kim, thông dịch viên, chị Dung, nấu ăn, anh Lai, giặt quần áo, và vài anh lính Mỹ khác trong đội tăng cường như Henry, Andy, Jim, Danny, Peter… Anh Lai và chị Dung là thường dân ở thị xã, sáng đến làm, chiều về nhà. Chị Dung nấu các món ăn Mỹ rất ngon. Nhưng tôi chỉ ăn vào buổi chiều ở nhà cố vấn. Buổi trưa, tôi vẫn đi lấy cơm ở nhà bếp trại lính về nhà ăn với anh chị Mùi và cháu Quang cho vui với gia đình

Lúc còn ở ngoài trại, nhiều khi thèm uống một ly đá chanh, hay ngay cả một ly nước đá lạnh cho đã họng dưới cái nóng như thiêu đốt của vùng Bến Sỏi khô cằn, tôi cũng không có tiền để mua mà uống. Từ ngày tự do ra, vào nhà cố vấn, tôi tha hồ uống cô ca lạnh và ăn cam, táo, nho, bánh ngọt. Không có việc gì làm, tôi thường lân la nói chuyện với các anh lính Mỹ. Hết nói chuyện với anh này thì gặp anh khác. Nhiều câu nói không được thì quơ tay làm dấu loạn xà ngầu. Rồi các anh cũng hiểu. Tôi học hỏi thêm được nhiều câu tiếng Anh đàm thoại qua các anh. Các anh thường lấy hình ảnh người thân, cha, mẹ, vợ, con bên Mỹ cho tôi xem và nói nhớ họ lắm. Tôi hiểu được tình cảm của các anh; nỗi nhớ nhà da diết của người lính Mỹ phải xa gia đình để đi chiến đấu ở một đất nước xa lạ. Cũng buồn lắm. Nhiều khi các anh hát cho tôi nghe, hoặc rủ tôi leo lên đài quan sát chơi. Đứng trên đài cao, có thể nhìn thấy cảnh vật ở xa mấy cây số.

Trung úy Bonny, 30 tuổi, da trắng, dáng người cao lớn, khuôn mặt bầu bầu, tính tình nghiêm nghị, ít nói chuyện với mọi người. Trung sĩ John, 35 tuổi, ngược lại, rất cởi mở, vui vẻ, nói nhiều. Tướng ông cũng cao lớn, khuôn mặt tròn, nước da trắng hồng, hai cánh tay hay khuỳnh ra khi đi, đứng. Ông thích các món ăn Việt. Mỗi cuối tuần, ông và anh Kim chở tôi đi Tây Ninh, đến bộ chỉ huy Lực lượng đặc biệt B16 lấy phim, tài liệu linh tinh, rồi ghé vào thị xã ăn phở. Thỉnh thoảng, ông dẫn tôi vào chợ mua bún, rau sống, tôm, thịt heo ba chỉ, nước mắm đem về cho chị Dung nấu, rồi bày ra giữa gian nhà giải trí, mời mọi người cùng ăn. Xem cách ông John lấy rau, cuốn bún, tôm, thịt, chấm nước mắm ớt ăn ngon lành, không khác gì một người Việt chính gốc, tôi thấy vui lắm. Ăn xong là ông chiếu phim cho cả nhà cố vấn xem.

Ông John có tánh thương người, đặc biệt với trẻ em. Ông hay ra chơi ở xóm dân, cho bánh, kẹo và vui đùa rất vô tư với các em bé. Khi biết có nhà dân nào bị đạn pháo kích của Việt cộng, ông ra thăm, biếu một ít tiền. Có lần, tôi đưa ông đến thăm nhà chị Mùi. Ông rất thích cháu Quang, thường mua quà cho cháu. Ông còn tận tình giúp đỡ một gia đình nghèo ở gần nhà chị tôi có đứa con gái chín tuổi bị cụt chân quá đầu gối. Ông mua cho bé một chiếc xe lăn và nhiều đồ chơi. Mỗi tuần, ông ra thăm bé một lần, đẩy xe cho bé đi chơi vòng vòng trong xóm..Tôi xem ông như một vị Thánh sống. Tình thương của ông là tình thương nhân loại vô bờ bến.

Tôi ở nhà cố vấn được một tháng thì trong một bửa ăn chiều, trung úy Bonny nhờ anh Tô thông ngôn lại với tôi, là ông có người anh bác sĩ ở bên Mỹ muốn tìm con nuôi ở Việt Nam. Ông đã giới thiệu về hoàn cảnh tôi với người anh, anh ổng đồng ý nhận tôi làm con nuôi. Ông hỏi tôi có chịu đi Mỹ làm con nuôi anh ổng không. Tôi chịu ngay. Ông bảo tôi mai về nhà đưa chị Mùi đến gặp ông nói chuyện.

Ngay trong tối đó, tôi đến hầm công sự tìm chị Mùi. Chị đang ngồi ngoài sân với mấy bà bạn. Vừa nghe tôi thuật lại chuyện sẽ làm con nuôi người Mỹ, mấy bà bạn của chị Mùi dèm pha :

- Trời ! Qua ở một nước xa lắc, xa lơ, làm sao chị em được gặp nhau.

- Biết làm con nuôi người Mỹ có sướng không. Hổng chừng bị người ta cho làm ở đợ thì khổ.

- Qua đó, hổng biết tiếng Anh, tiếng u gì, làm sao sống.

- Rồi biết bao giờ chị mới gặp lại nó. Chị đừng cho nó đi.

Tôi tức mình :

- Anh Tô, thông dịch viên, ảnh nói ông đó là bác sĩ, giàu lắm. Nước Mỹ giàu mạnh, văn minh nhất thế giới. Luật pháp ở nước họ quy định con nuôi cũng như con ruột, được nuôi dưỡng, cho học hành đến khi thành tài. Chị đừng nghe mấy bả xúi.

Chị Mùi trầm ngâm một hồi thì quyết định :

- Tao không đồng ý. Cha mẹ không còn. Thằng Thiện đã mất. Thằng Hỷ làm con nuôi cho người ta ở Phan Rang, ngay trong nước mình mà bao năm rồi chưa có dịp gặp lại. Anh Phùng mày thì đang đời lính nay đây, mai đó tận vùng bốn. Tao chỉ còn mày gần gũi. Làm sao mà… Chị Mùi ngập ngừng giây lát rồi dứt khoát : - Tao không chịu. Tao không muốn chị em xa cách nhau.

Tôi cố thuyết phục :

- Chị. Em muốn đi. Nghe anh Tô nói đời sống ở Mỹ vui lắm, sướng lắm. Mà em qua đó được làm con của bác sĩ thì càng sướng hơn nữa. Cho em đi đi chị. Em sẽ viết thư cho chị thường chứ có phải mất biệt luôn đâu. Có dịp thì em sẽ về thăm chị.

Chị Mùi nín thinh. Tôi khẩn khoản :

- Chị… Chị… Cho em đi đi chị…

. Thấy tôi cứ đứng năn nỉ hoài, chị Mùi trả lời nước đôi :

- Thì để tối nay tao suy nghĩ đã. Rồi ngày mai tao cũng đến gặp ông Bonny, nghe ổng nói gì.

Trưa hôm sau, tôi và anh Kim đưa chị Mùi xuống hầm làm việc của ông Bonny. Sau khi ông Bonny nói một tràng tiếng Anh, anh Kim thông ngôn lại với chị Mùi :

- Ổng nói anh của ổng ở bên Mỹ là bác sĩ, đã 45 tuổi, nhà rất giàu mà không có con. Tính tình anh của ổng rất hiền, thương người. Ổng thấy em Quý của chị cũng hiền hậu, dễ thương, nên muốn xin phép chị cho em Quý làm con nuôi của anh ổng. Nếu chị đồng ý thì ký vào giấy thỏa thuận. Rồi tuần sau ổng sẽ cho em Quý về Sài Gòn học Anh văn sáu tháng. Mọi chi phí ăn, ở của em Quý ở Sài Gòn sẽ được ổng lo hết. Sau đó ổng làm thủ tục cho em Quý qua Mỹ.

Tôi nhìn chị Mùi. Cả cái tương lai xán lạn của tôi chỉ chờ một chữ ký của chị là sẽ có được. Nhưng, chị Mùi cứ ngồi im lặng. Im lặng. Rồi hai dòng lệ tuôn dài trên khuôn mặt xinh đẹp đượm nét u buồn của chị. Chị khóc ! Ông Bonny thấy vậy thở dài. Tôi thất vọng !. Tất cả lại im lặng. Một lúc sau, ông Bonny đứng lên nói, anh Kim thông ngôn lại :

- Thôi. Chị không chịu thì đành vậy ! Ổng nói, không đi Mỹ thì cứ ở đây. Nhưng em Quý nên đi học lại. Để nó cứ chơi long nhong hoài, hư người.

Vậy là tôi đi học lại. Tôi xin học lớp đệ lục ( lớp bảy ) ở trường trung học Hàn Thuyên, thị xã Tây Ninh. Vào học trễ một tháng, nhưng tôi vẫn học giỏi, theo kịp bạn bè. Ông Bonny cho tôi tiền mua sách vở và tiền tiêu vặt mỗi tuần. Mỗi sáng, tôi được tài xế cố vấn chở đi học bằng xe Jeep. Xế chiều, tôi quá giang xe nhà binh GMC về lại trại. Mỗi cuối tuần, tôi đi chơi với ông John, hoặc với các anh lính Mỹ trong đội tăng cường. Có lần, ông John chở tôi đi chơi ở Sài Gòn và Biên Hoà, thưởng thức nhiều món ăn Việt, ngày hôm sau mới về lại trại. Có khi, Peter và Henry chở tôi đi chơi căn cứ Mỹ, Trảng Sụp. Vào PS, Perter mua cho tôi cái radio. Henry mua cho tôi mấy cái áo thun. Hôm khác, Danny chở tôi đi, mua cho tôi cái máy chụp hình. Những món quà này thật quý giá, đong đầy tình thương mến của các anh dành cho tôi; cũng là tấm lòng tử tế của người lính viễn chinh đối với người dân nghèo ở một nước đang điêu linh, thống khổ vì bom, đạn, khói lửa chiến tranh.

Những cơn mưa pháo vào trại vẫn tiếp diễn hàng đêm. Anh Tô, anh Kim và tôi chẳng bao giờ chạy vào hầm trú ẩn. Anh Kim nói : “Mặc kệ. Cho chúng pháo. Chết, sống có số”. Vài lần trong đêm, giữa những tiếng nổ của đạn pháo, tôi nghe xen lẫn có những tiếng hét đau đớn của ai đó ở vòng đai công sự phòng thủ. Tôi biết có vài anh nơi vọng gác bị trúng đạn pháo kích. Nhờ nằm ngủ kế bên anh Tô, anh Kim, nghe các anh nói chuyện, tôi biết thêm nhiều về nước Mỹ, người Mỹ. Nhiều lúc hai anh tranh luận với nhau các vấn đề thời sự mà với tuổi tôi bấy giờ, đã có trí khôn đủ để hiểu được những điều các anh nói. Giọng của anh Tô :

- Tôi thấy thời của Tổng thống Ngô đình Diệm, đất nước còn thanh bình lắm. Vì có người Mỹ đưa quân vào miền Nam, chiến tranh mới lan tràn.

Anh Kim không đồng ý :

- Thanh bình là trước 1960 kìa. Từ năm 1960, tụi Việt cộng thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, chúng hoạt động mạnh, đánh phá nhiều nơi. Rồi tụi cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam, người Mỹ mới trực tiếp tham chiến.

- Tôi nghĩ, nước Mỹ cứ viện trợ khí giới, đạn dược, tiền bạc và cố vấn quân sự cho ông Diệm là đủ rồi. Ông Diệm và ông Nhu thừa sức lãnh đạo miền Nam chống cộng sản. Ông Diệm đã từng tuyên bố : “Nếu để người Mỹ đưa quân vào, chúng ta sẽ mất đi thế chính nghĩa. Bắc Việt sẽ có cớ xâm lăng miền Nam” Quả nhiên, từ khi quân đội Mỹ ném bom Hà Nội sau sự kiên vịnh Bắc bộ, 1964, rồi trực tiếp đưa quân tham chiến, chiến tranh mới khốc liệt như bây giờ. Người Mỹ giết anh em ông Diệm uổng quá. Ông Diệm và ông Nhu đều là người yêu nước.

Tôi xen vào, hỏi :

- Ủa, sao lại người Mỹ giết ? Em nghe nói đám tướng lãnh người Việt mình giết ông Diệm mà.

Anh Tô trả lời :

- Đám tướng đó do người Mỹ mua chuộc làm đảo chánh, thì chuyện giết ông Diệm cũng do người Mỹ xúi giục thôi.

- Em thấy người Mỹ hiền hòa, tốt tánh lắm. Chắc không phải đâu anh.

- Lớn lên, em sẽ hiểu.

Tiếng anh Kim :

- Chuyện người Mỹ nếu có lệnh cho đám tướng đảo chánh giết anh em ông Diệm cũng phải thôi. Vì chế độ ông Diệm độc tài, gia đình trị, lại cứng đầu với Mỹ lắm. Trong khi người Mỹ bỏ tiền, bỏ của ra, họ muốn người lãnh đạo miền Nam phải nghe theo lời họ. Cuộc chiến chống cộng sản không phải chỉ với cái đám du kích Việt cộng lẻ tẻ ở miền Nam, mà là với cả một khối cộng sản quốc tế, do quân chính quy Bắc Việt làm công cụ. Dù không có quân Mỹ trực tiếp tham chiến, tụi cộng sản Bắc Việt cũng sẽ xâm lăng miền Nam theo lệnh Nga, Tàu. Nuốt xong miền Nam Việt Nam, chúng sẽ nuốt luôn các nước khác ở Đông Nam Á theo ý đồ nhuộm đỏ toàn cầu. Sau hiệp định Genève, 1954, cộng sản Bắc Việt đã gài cán bộ nằm vùng ở khắp miền Nam, chính là để chuẩn bị một cuộc chiến xâm lăng của chúng vào miền Nam trong vài năm sau. Điều đó, bây giờ đã thấy rõ rồi. Người Mỹ là đàn anh lãnh đạo khối tự do, vì lý tưởng bảo vệ cho chính nghĩa tự do và vì lòng nhân đạo, họ bắt buộc phải hành động quyết liệt để ngăn chận làn sóng “đỏ”. Nếu không có quân Mỹ và nhiều nước đồng minh khác đến giúp Việt Nam Cộng Hòa mình, giờ này Việt cộng chắc đã chiếm xong miền Nam rồi.

Anh Tô vẫn chưa chịu thua :

- Tôi vẫn thấy thương ông Diệm, ông Nhu. Nghe hai ông bị đánh đập rồi bị bắn vào đầu rất dã man, chết thảm trong chiếc xe tăng, tội nghiệp quá. Tôi vẫn cứ nghĩ người Mỹ đừng đưa quân vào mà chỉ nên tăng cường viện trợ tiền bạc, xe tăng, tàu bay, khí giới, đạn dược, thêm cố vấn quân sự là đủ rồi. Như vậy tốt hơn. Quân dân miền Nam mình chiến đấu rất anh dũng, thừa sức đánh bại tụi cộng sản Bắc Việt. Chính phủ Mỹ đưa nửa triệu quân vào nước mình, một phần giúp mình chống cộng sản, một phần cũng là business. Họ vừa thỏa mãn quyền lợi tư bản Mỹ, vừa giải quyết nạn thất nghiệp, giúp công ăn, việc làm cho dân xứ họ

Chẳng biết anh Kim có nghe anh Tô vừa nói không, chỉ nghe tiếng ngáy khò khò của anh. Tôi hỏi anh Tô :

- Thỏa mãn quyền lợi tư bản Mỹ là thế nào hở anh ?

- Là tiêu thụ cho tư bản Mỹ số súng, đạn tồn đọng có từ thời đệ nhị thế chiến, đem trang bị cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa mình. Đồng thời, với chiến tranh và nửa triệu quân viễn chinh, tư bản Mỹ có dịp sản xuất nhiều vũ khí tối tân khác, nào là xe tăng, phi cơ, tàu chiến, súng cá nhân, bom, đạn, rồi còn quân trang, quân dụng, thuốc men, luơng thực và nhiều thứ khác nữa… để cung ứng cho nhu cầu của quân lính tác chiến trên chiến trường. Nhờ vậy, tư bản Mỹ hưởng lợi rất nhiều, và người dân có thêm nhiều việc làm trong sản xuất vũ khí và hàng hóa quốc phòng.

Tôi lại thắc mắc :

- Nhưng chiến tranh là sự tốn kém tiền của và tốn hao xương máu. Ngân sách quốc phòng Mỹ sẽ tăng cao lắm. Sự thu lợi vào có hơn được sự chi ra không ?

- Anh không làm được bài toán đó. Nhưng anh nghĩ có lợi nhiều hơn, về lâu, về dài cho tư bản Mỹ là không sai chút nào. Tuy vậy, lời anh Kim nói cũng có phân nửa đúng. Nước Mỹ văn minh, dân chủ nhất thế giới, nên họ có cái lý tưởng vương đạo, cảm thấy có trách nhiệm phải đứng ra gánh vác việc bảo vệ thế giới tự do đối đầu với thế lực cộng sản quốc tế độc tài, chuyên chế. Như thời đệ nhị thế chiến, nhờ có Mỹ lãnh đạo phe đồng minh đánh bại Đức quốc xã, mới giải phóng được nước Pháp và vài nước Âu châu khác thoát khỏi sự cai trị khát máu của Adolf Hitler.

- Em cũng nghĩ vậy. Em thấy thương người lính Mỹ lắm. Họ đã vì quê hương mình mà chiến đấu. Tất cả những người lính Mỹ mà em biết, đều tốt tánh, tử tế quá..

- Ừa, anh cũng thấy thương họ. Thôi, ngủ đi.

Đại đội 350 của anh Vọng thỉnh thoảng đi hành quân cả tuần mới về. Những lần như vậy, chị Mùi lo lắng, trông đứng, trông ngồi. Có lần đơn vị anh Vọng chạm địch, có mấy quân nhân bị tử trận. Nhìn các vợ con họ khóc lóc thảm thiết, tôi cũng mủi lòng, chảy nước mắt. Đầu năm 1970, Việt cộng lại cả gan kéo về xóm dân, gần trại, ngay giữa ban ngày. Thám báo cho biết cũng cỡ hai đại đội địch. Xế chiều, đại đội 350 và 351 được lệnh xuất kích, dàn trận ở cánh đồng hoang ở phía Đông của trại. Đại úy Hải, trưởng trại, đứng trên nóc hầm trực tiếp chỉ huy ra ngoài. Tôi cũng bắt chước đứng trên một nóc hầm khác nhìn ra cánh đồng hoang, chẳng nghĩ gì đến chuyện tên bay, đạn lạc. Tôi nhận ra được anh Vọng đang dẫn đầu hàng quân chạy lom khom tiến lên phía trước. Cả hàng quân cùng tiến lên khoảng chục mét thì nằm xuống. Rồi lại chạy lom khom tiến lên, và nằm xuống. Những tiếng nổ ầm ầm liên tục vang dội cả một vùng trời. Đạn bay chéo chéo từ phía địch quân núp ở các bụi cây phía xóm dân bắn ra hàng loạt. Tiếng đạn tạch tạch của đại liên, trung liên và súng cá nhân từ đội quân Biệt kích cũng bắn đi không ngớt. Trung úy Bonny và trung sĩ John cùng ra đứng trên nóc hầm với đại úy Hải. Quan sát trận chiến một hồi, nói chuyện với đại úy Hải điều gì đó, hai ông vào lại nhà cố vấn. Khoảng tiếng rưởi đồng hồ sau, một trực thăng bay đến phun khói màu cuồn cuộn dọc theo cánh đồng hoang. Ngay sau đó, nhiều trực thăng bay đến thả quân bộ binh tăng viện sau làn khói mù. Tôi nghĩ là ông Bonny đã kêu viện binh. Trận chiến ác liệt kéo dài đến chiều thì địch quân tháo chạy, bỏ lại nhiều xác chết. Quân ta bắt sống hai tên Việt cộng, tịch thu được một số súng Ak47 và súng pháo B40, B41, triển lãm ở phòng sinh hoạt trại. Lần đầu tiên trong đời tôi mới được chứng kiến một chiến trường thực sự diễn ra trước mắt. Nhìn thấy được sự chiến đấu dũng cảm của người lính Biệt kích Mỹ nói riêng, và của tất cả quân nhân Việt Nam Cộng Hoà trong công cuộc chống lại sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt. Và cũng nhìn thấy được sự làm việc hữu hiệu của các cố vấn Mỹ trong hiệp đồng tác chiến với quân đội ta. Nghe anh Kim, anh Tô kể lại, nhiều địa phương thuộc vùng một, vùng hai ở miền Trung còn diễn ra nhiều trận chiến kinh hồn gấp ngàn lần. Những địa danh như Đắc Tô, Khe Sanh đã vang lừng trong chiến sử. Ở Khe Sanh, lực lượng lính Mỹ tử thủ đã liên tục nhiều ngày đêm phải đương đầu với đạn pháo và chiến thuật tấn công biển người của quân chính quy Bắc Việt. Người ta ví cường độ ác liệt của trận chiến Khe Sanh như trận chiến Điện Biên Phủ. Có điều, ở Điện Biên Phủ, Việt cộng thắng quân Pháp, còn ở Khe Sanh, Việt cộng thất bại nặng nề trước sự chiến đấu dũng mãnh của những người lính Mỹ kiêu hùng.

Tháng 3 / 1970, một chuyện bất ngờ khiến tôi buồn rũ rượi suốt một ngày. Đại đội 350 của anh Vọng theo lệnh của Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ, phải chuyển đi Nam Vang để trợ giúp chính phủ Lonnol ở Campuchia; sau khi Lonnol lật đổ chế độ quân chủ của ông hoàng Sihanouk. Chị Mùi phải theo chồng. Ngày lên đường, chị Mùi vừa bế cháu Quang, vừa khóc nức nở. Chị nói :

- Chị đâu có ngờ phải xa em để theo chồng qua một nước khác thế này. Nếu biết vầy, chị đã cho em đi làm con nuôi ông bác sĩ Mỹ. Chị đã hại em rồi !.

Tôi an ủi chị :

- Chị đừng buồn nữa. Em hiểu vì chị thương em mà. Qua bên đó, xem tình hình thế nào rồi chị viết thư về cho em theo địa chỉ dì Mười ở Sài Gòn, nhen chị…Tôi hôn lên má cháu Quang rồi nói tiếp : - Ở Campuchia bây giờ cũng chiến tranh với Khmer Đỏ. Em lo cho anh chị và cháu Quang lắm. Anh chị giữ gìn sức khỏe.

Anh Vọng ôm chặc tôi :

- Mong là chiến tranh sớm kết thúc, anh em mình có ngày gặp lại.

Chị Mùi lên xe rồi vẫn cứ nhìn tôi bằng đôi mắt u sầu, đẫm lệ. Từng chiếc xe từ từ chạy lên phà, qua sông. Những bàn tay vẫy vẫy những bàn tay. Nhìn đoàn xe chở quân dần xa khuất bên kia sông, tôi mới bật khóc.

Buổi chia ly nào không nước mắt

Mây mù giăng kín mảnh hồn tôi

Tiễn anh, tiễn chị, lòng đau thắt

Mơ ngày gặp lại ấm êm đời…

Về nhà cố vấn, tôi báo cho ông Bonny và ông John là tôi sẽ về Sài Gòn. Hai ông khuyên tôi ở lại, học cho hết niên học rồi hãy về. Tôi nói để suy nghĩ thêm. Qua hôm sau, tôi đồng ý ở lại. Ông John cười ha hả, ôm chầm lấy tôi rồi bế tôi lên, cứ như bế một đứa con nít ba, bốn tuổi. Tôi xúc động, cũng cười ha hả với ông.

Nửa tháng sau, ông Bonny và ông John được thuyên chuyển về bộ chỉ huy ở Tây Ninh. Hai ông giới thiệu tôi với ban cố vấn mới là trung úy Calvin và trung sĩ Munoz. Bến phà sông Bến Sỏi lại chứng kiến sự chia ly. Lần này là giữa hai người lính Mỹ với một thiếu niên Việt mà sự cảm động không khác gì giữa những người thân trong gia đình. Tôi nói với hai ông:

- I very thanks for your support. You two have the best of human kindness in the world. I always keep in mind your love for me.

Ông Bonny và ông John cùng mỉm cười và lần lượt ôm chặc lấy tôi trước khi lên xe. Nhìn chiếc xe Jeep qua đến bên kia sông chạy xa dần, xa dần rồi mất hút trong bầu trời xám xịt, tôi mới uể oải đi vào trại.

Trung úy Calvin, 32 tuổi, người Mỹ gốc Mễ, tướng nhỏ con giống người Việt, cũng ít nói như ông Bonny. Ông không thân thiện gì với tôi, nhưng thường nở nụ cười tươi mỗi khi gặp tôi.trong giờ ăn uống hay xem phim. Trung sĩ Munoz, 34 tuổi, người Mỹ gốc Đức, tướng người mập, cao vừa tầm, tính điềm đạm, nói năng chừng mực, không bao giờ cười. Ông nói tiếng Việt thông thạo, nhờ học nơi cô vợ Việt. Do ông biết tiếng Việt, nói giọng nhỏ nhẹ, tôi thấy gần gũi với ông. Nghe tôi kể về hoàn cảnh sinh ly, tử biệt giữa các người thân trong gia đình tôi, ông nói thương tôi lắm. Ông tốt với tôi như ông John và ông Bonny trước đó. Cuối tuần, đi thị xã, ông chở tôi theo, vào chợ ăn hủ tíu hay bánh xèo là hai món ông thích nhất. Ăn xong, ông cho tôi một ít tiền, nói : “Quý giữ lấy để tiêu vặt. Mỗi tuần, anh sẽ cho em như vầy”. Có nhiều ngày, ông tự lái xe Jeep chở tôi đi học vào buổi sáng rồi đến xế chiều đón tôi về. Tôi thấy thương ông quá. Cuối tháng tư, chị Hồng, vợ ông Munoz, từ tỉnh Biên Hòa lên thăm ông, ở lại trại một tuần. Chị 27 tuổi, có nét đẹp đằm thắm, dịu dàng, tính cởi mở, vui vẻ. Chúng tôi thân nhau như hai chị em. Chiều nào, ông Munoz cũng dẫn chị Hồng và tôi ra xóm dân, vào một quán lá bên đường uống cà phê đá. Ông nói rất thích cà phê Việt vì hương vị đậm đà; không như cà phê Mỹ nhạt phèo. Có lúc ông nhờ Giang thuyền lấy ca nô chở chúng tôi hóng mát trên sông. Sự thân mật, vui vẻ giữa ba người chúng tôi như trong một gia đình. Ngày chị Hồng về lại Biên Hòa, ông Munoz chở chị và tôi đi ăn sáng rồi dạo chơi vòng vòng thị xã Tây Ninh. Đến trưa lại vào nhà hàng. Ăn uống thỏa thuê rồi mới ra bến xe.

Cuối tháng 5 / 1970, tôi mãn học với giải thưởng hạng nhì. Ông Munoz xoa đầu tôi khen :

- Very good ! Em giỏi quá. Mai mốt về Sài Gòn cũng rán học giỏi vậy.

- Dạ. Em cảm ơn anh. Vậy, vài hôm nữa em về Sài Gòn nhen anh ?

Ông Munoz trợn mắt :

- Sao gấp vậy ? Ở chơi nửa tháng nữa đi. Anh cũng không ở trại này bao lâu nữa đâu.

- Ủa. Sao vậy anh ?

- Vì trại Biệt kích này sắp chuyển thành Biệt động quân biên phòng. Thôi, bây giờ anh thưởng em học giỏi bằng một bửa ăn nhà hàng. Lên xe, anh chở đi Tây Ninh.

- A…cảm ơn anh. Tôi reo mừng rồi nhảy tót lên xe Jeep. Hôm đó, sau khi ăn xong, ông Munoz dẫn tôi đi vào chợ, mua cho tôi mấy bộ quần áo, thêm cái va li. Ông nói : “Để cho em đựng đồ ngày về Sài Gòn”. Tôi có cảm giác như đang được một người anh ruột quan tâm, chăm sóc cho mình.

Nửa tháng sau. Ông Munoz xách chiếc va li của tôi bỏ lên chiếc xe Jeep. Tôi bắt tay trung úy Calvin, nói :

- Thank you so much for your kindness. I wish you the best of health and happiness.

Ông nở nụ cười tươi và xiết chặc tay tôi : - Have a good trip.

Tôi đến bắt tay anh Tô và anh Kim, nói lời cảm ơn hai anh. Anh Tô vỗ vai tôi :

- Về Sài Gòn lo học hành nhen em. Đừng có lêu lổng ham chơi mà khổ cái thân.

Anh Kim nói đùa :

- Khi nào chú em cưới vợ nhớ mời hai anh uống rượu nhen..

- Dạ. Em sẽ viết thư thăm hai anh.

Tôi lại lần lượt bắt tay Peter, Henry, Jim, Danny, Andy, rồi nói :

- I hope one day we will meet each other. Hope you have the best of health and happiness.

Ông Munoz đã ngồi sẵn trước tay lái. Tôi lên ngồi ghế kế ông, ngoái nhìn lại phía sau và vẫy vẫy tay chào các anh. Chiếc xe Jeep chạy đi, tôi vẫn còn thấy các anh đứng nhìn theo. Ông Munoz lái chiếc Jeep rời khỏi phà, từ từ leo lên bờ sông rồi vụt chạy bon bon trên con đường đất đỏ. Xin từ biệt Bến Sỏi. Từ biệt một vùng hỏa tuyến nhiều hiểm nguy nhưng đượm thắm tình người. Xin chúc bình an cho các anh lính Mỹ tốt lành và tất cả người lính Biệt kích Mỹ oai hùng của trại Bến Sỏi.

Cũng như lần tiễn chị Hồng, ông Munoz đưa tôi đến một khu phố trung tâm thị xã, vào nhà hàng ăn một bửa thịnh soạn. Trong buổi ăn lần cuối này, tôi mạnh dạn hỏi ông :

- Anh có buồn khi phải xa nhà, xa xứ để đi chiến đấu cho quê hương nghèo khổ của em không ?

Ông Munoz nói giọng nhỏ nhẹ, chậm rãi :

- Xa nhà, xa xứ thì ai cũng buồn. Nhưng đã là quân nhân thì phải chấp nhận đi tác chiến ở bất cứ nơi nào mà cấp trên điều động. Qua chiến đấu cho quê hương em là bổn phận, nghĩa vụ của quân nhân Mỹ các anh để giúp cho người dân nước em không bị cộng sản xâm chiếm. Tụi cộng sản nó độc tài, gian ác lắm. Anh mong người dân Việt sớm có ngày thanh bình.

- Anh thấy người dân Việt nước em như thế nào ?

- Người dân Việt rất can đảm, gan lì trong đấu tranh chống ngoại xâm. Anh biết chút ít lịch sử nước Việt của em. Một ngàn năm bi người Tàu đô hộ vẫn không bị đồng hóa. Nhiều lần người dân Việt đã anh hùng đánh đuổi được giặc Tàu, giặc Pháp, giặc Nhật, giữ yên đất nước. Còn mở rộng thêm lãnh thổ nữa. Tiếc rằng bây giờ bị họa cộng sản mà thành hai miền Nam, Bắc, hai chế độ khác nhau. Nước Đức của ông bà nội anh cũng bị chia cắt làm hai. Đau lòng lắm !

Ông Munoz cầm ly nước lên uống vài hớp rồi nói tiếp : - Người dân Việt còn có nhiều đức tính rất đáng quý. Bản tánh hiền hòa, hiếu khách, siêng năng, nhẫn nại, dám hy sinh cho người thân. Đặc biệt, phụ nữ Việt có nét đẹp dịu dàng, hiền hậu. Vì vậy anh mới cưới cô Hồng làm vợ.

- Anh có làm hôn thú với chị Hồng không ?

- Có. Anh còn làm đám cưới với Hồng ở Biên Hòa theo phong tục người Việt. Khi về nước, anh sẽ làm bảo lãnh cổ.

- Em kính chúc anh chị luôn hạnh phúc, sống mãi với nhau trọn đời.

- Cảm ơn em nhiều. Thôi mình ra bến xe, em.

Đến bến xe, tôi ôm chặc ông. Ông cũng ôm chặc lấy tôi một hồi lâu. Mắt tôi cay sè. Tuổi niên thiếu tôi có nhiều cuộc chia tay, ly biệt quá. Ông Munoz xách cái va li của tôi đem đến cho anh lơ xe rồi đi lại phía tôi. Ông đưa tôi một phong thư, nói :

- Em giữ lấy, để dành khi về Sài Gòn mua sách vở đi học.

Cầm phong thư, tôi xúc động nói :

- Em cảm ơn anh nhiều lắm. Anh thật tốt với em, như anh chị ruột của em đối với em vậy. Em rất thương anh. Em sẽ nhớ anh mãi.

Ông Munoz vỗ vỗ bàn tay lên vai tôi :

- Anh cũng thấy thương em lắm. Em nhớ học cho giỏi nhen. Thôi, em lên xe đi. Chúc em đi bình an.

Tôi ôm chặc ông một lần nữa rồi lên xe. Chiếc xe đò đã chật cứng khách. Anh lơ cho tôi ngồi ở cuối xe. Tôi ló đầu ra cửa xe nhìn ông Munoz. Ông vẫn còn đứng bên chiếc Jeep, giơ tay lên vẫy vẫy, miệng nở một nụ cười. Lần đầu tiên tôi thấy ông cười. Nụ cười thật tươi, có nét hiền lành, phúc hậu. Xe rời bến. Tôi cố ngoái lại nhìn ông và hét lớn : “I love you”. Tôi còn kịp nhìn thấy nụ cười hiền hòa của ông một lần nữa trước khi chiếc xe đò vụt chạy nhanh trên tỉnh lộ. Trời đổ mưa. Cảnh trời xám ngoét trong mưa gây cho tôi cảm giác lạnh lẽo, buồn buồn. Ngồi thừ người ra một hồi, tôi mở bao thư xem. Ông cho tôi $ 250 dollars đỏ. Khá nhiều đối với một người trẻ chưa biết làm ăn gì ra tiền như tôi. Bấy giờ là giữa tháng 6 / 1970.

….

Về Sài Gòn sống nhờ nhà dì Mười, tôi vừa đi làm vừa tiếp tục việc học. Chiến tranh vẫn diễn ra hàng ngày trên quê hương. Ngày nào tôi cũng đọc báo theo dõi tình hình thời sự. Tin tức chiến sự dồn dập từ bốn vùng chiến thuật choán đầy các trang nhật báo. Ở Hoa Kỳ, phong trào phản chiến lan ra nhiều tiểu bang. Tổng thống Nixon triển khai kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh”, trang bị thêm cho quân đội miền Nam Việt Nam nhiều vũ khí tối tân, có thể chiến đấu hữu hiệu hơn trên khắp chiến trường, để rút dần quân Mỹ về nước. Trong nước, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tái đắc cử trong cuộc bầu cử “độc diễn” ngày 3 / 10 / 1971. Ông Thiệu là người chống cộng quyết liệt với lập trường “ bốn không” và câu nói bất hủ : ”Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”, rất được lòng chính phủ Mỹ. Nhưng, gió lịch sử đổi chiều. Tháng 2 / 1972, Tổng thống Mỹ qua thăm Trung cộng, gặp gỡ Mao trạch Đông và Chu ân Lai. Cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Mao mà về sau này tôi hiểu, vừa cô lập cộng sản Liên xô, vừa đáp ứng nguyện vọng người dân Mỹ đang quyết liệt phản đối chiến tranh, và vừa để tìm kiếm thị trường béo bở hơn tỉ dân Trung quốc; là cái bắt tay ‘định mệnh’ dọn đường cho sự bức tử chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Để tăng áp lực lên hòa đàm Paris, Việt cộng tổng tiến công lần thứ hai. Chiến sự bùng nổ tàn khốc trong mùa hè đỏ lửa, 1972. Đông Hà, Cổ thành Quảng Trị, Tân Cảnh, Kom Tum, Bình Giã, Lộc Ninh, An Lộc, Bình Long, nhiều địa danh khác nữa…ở vùng một, vùng hai, vùng ba bốc lửa vì hỏa lực khủng khiếp của cộng sản Bắc Việt điên cuồng tấn công mong tìm một chiến thắng vang dội. Nhưng chúng đã bị chặn đứng mưu đồ bởi sự chiến đấu kiên cường của chiến sĩ Việt - Mỹ và đồng minh. Mặt trận vùng bốn cũng sôi động không kém. Tôi ngày đêm phập phồng lo lắng cho an nguy của anh Phùng. Điều lo sợ của tôi không tránh khỏi. Ngày 9 / 5 / 1972, anh Phùng hy sinh tại chiến trường Mộc Hóa. Chú Bảy cho người nhà lên Sài Gòn báo tin. Tôi khóc ngất !... Tôi đi lang thang khắp Sài Gòn như người mất hồn suốt một ngày đêm không thiết gì ăn uống.

Trong khi người lính Mỹ đang đổ máu tại chiến trường thì cô đào màn bạc Mỹ, Jane Fonda, người cuồng nhiệt cổ võ phong trào phản chiến, đã trơ trẽn đến Hà Nội trong tháng 7 / 1972. Cô đội nón sắt vào thăm từng chiến hào của bộ đội cộng sản Bắc Việt. Hành động đâm sau lưng chiến sĩ của Jane Fonda đã gây nên sự căm phẫn của nhiều người dân Việt, Mỹ thù ghét cộng sản. Tổng thống Nixon thì bị tai tiếng vụ Watergate sau khi các nhân vật thân cận của ông cho người đột nhập vào văn phòng của đảng Dân chủ tại khách sạn Watergate để nghe lén. Uy tín ông xuống thấp. Ông càng lo tìm kiếm một giải pháp hòa bình với Bắc Việt nhằm sớm rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam để lấy lòng dân Mỹ. Trong tháng 10 / 1972, cố vấn Kissinger đến Sài Gòn yêu cầu Tổng thống Thiệu ký hiệp định Paris. Mới đầu, ông Thiệu phản đối kịch liệt vì cho rằng bản hiệp định bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước áp lực của chính phủ Mỹ, hăm dọa sẽ cắt hết viện trợ quân sự, ông Thiệu đành phải chấp nhận. Hiệp định Paris chính thức được ký kết ngày 27 / 1 / 1973.

Ngày 29 / 3 / 1973, người lính Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ. Từ đó, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đơn độc chiến đấu chống lại cộng quân vẫn đang ngày càng mạnh lên nhờ vào viện trợ quân sự tối đa của cộng sản Nga, Tàu. Trong suốt hai năm từ tháng 4 / 1973 đến tháng 4 / 1975, Việt cộng xé bỏ hiệp định Paris, ngang nhiên tiếp tục phát động chiến tranh, tổng tấn công trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Chính quyển Tổng thống Thiệu cố gắng xoay trở, chống đở cuộc chiến trong khó khăn, tuyệt vọng vì bị Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cắt giảm nhiều nguồn viện trợ. Tỉnh Phước Long bị Việt cộng chiếm trong đầu tháng 1 / 1975. Kế tiếp, thành phố Ban Mê Thuột bị thất thủ ngày 16 / 3 / 1975 dẫn đến sự biến “di tản chiến thuật’ trong hỗn loạn, kinh hoàng, đưa đến hậu quả bị mất vùng một, vùng hai. Rồi nhiều tỉnh thuộc vùng ba cũng bị rơi vào tay giặc. Ngày 21 / 4 / 1975, Việt cộng tiến quân vào Biên Hoà. Tổng thống Thiệu từ chức, giao quyền lại cho tân Tổng thống Trần văn Hương. Vài ngày sau, có tin đồn ông Thiệu rời Việt Nam mang theo 16 tấn vàng. Nhiều năm về sau này ở Mỹ, qua những tài liệu đọc được trên vài trang Web, tôi mới biết ông ra đi với tư cách đặc sứ của Việt Nam Cộng Hòa đến Đài Bắc phúng điếu Tưởng giới Thạch. Ông sống đạm bạc nơi xứ người, chẳng có tấn vàng, tấn bạc gì cả. Ngày 28, cộng quân áp sát Sài Gòn. Tổng thống Trần văn Hương trao quyền cho tướng Dương văn Minh. Khi phần lớn binh lính miền Nam ở quanh Sài Gòn còn ghìm chặc tay súng, sẵn sàng chống trả quyết liệt với quân cộng, thì rất nhiều tướng, tá chỉ huy đã đào ngũ, tháo chạy ra nước ngoài. Sự mất nước phải tới. Sáng ngày 30 / 4 / 1975, xe tăng Việt cộng tiến vào dinh Độc lập, nơi biểu tượng uy quyền của hai triều đại Cộng Hòa. Tổng thống Dương văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chính thức sụp đổ. Chiến tranh Việt Nam kết thúc trong sự tức tưởi, nghẹn ngào của hàng triệu quân, dân miền Nam Việt Nam. ( * )

Trong những ngày tàn cuộc chiến cuối tháng tư, vẫn còn nhiều quân nhân hy sinh vì lý tưởng bảo vệ miền Nam tự do. Ngày 23 / 4 / 1975, Hỷ, 17 tuổi, em kế tôi, là lính tình nguyện binh chủng Biệt động quân, đã hy sinh trong một cuộc chạm súng với Việt cộng ở Gò Dầu. Khi anh lính Biệt động báo tin đi khỏi, tôi vào căn phòng vắng ngồi lặng lẽ nhớ về người em hiền lành mà can đảm. Nước mắt tuôn rơi không biết từ lúc nào. Trong cuộc chiến tranh ý thức hệ này, giữa một bên là chính nghĩa tự do, nhân bản, với một bên là phi nghĩa, độc tài, bạo tàn, khát máu, tôi đã bao lần phải khóc thương cho những người thân ruột thịt đã vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng đất lạnh.!...

….

Sau tháng 4 / 1975, khi nắm trọn quyền cai trị đất nước, cộng sản Việt Nam càng bộc lộ rõ hơn bộ mặt xảo trá, gian ác, phi nhân khi ra sức cướp bóc tài sản người dân miền Nam, bắt cả trăm ngàn sĩ quan miền Nam và nhiều văn nghệ sĩ, tu sĩ đi tù cải tạo không biết ngày về, và kềm kẹp người dân cả nước từ Bắc đến Nam phải sống trong nghèo nàn, cơ cực, thiếu thốn, đói khổ để xây dựng cái thiên đàng cộng sản ảo tưởng của chúng. Hàng triệu trẻ em bị thất học. Cái sự đói ăn, khát uống khiến cho trộm cắp, cướp bóc, đĩ điếm tràn lan trên cả nước. Xã hội băng hoại. Để được ngoi ngóp sinh tồn trong xã hội cộng sản, con người phải tập nói dối, tập gian trá với bọn cầm quyền và ngay cả giữa những người dân với nhau; phải dẫm đạp lên nhau mà sống. Cộng sản Việt Nam thống nhất được đất nước nhưng không thống nhất được lòng người. Mấy triệu người dân lần lượt bỏ nước ra đi bằng đường biển hay đường bộ để mưu tìm một con đường sống mới có ánh sáng của tự do, dân chủ và quyền làm người. Cuối năm 1980, tôi tiếp nối bước chân tìm tự do của những người đi trước, liều mạng một mình vượt biên đường bộ. May mắn có Ơn Trên thiêng liêng phù hộ, tôi đã được nước Mỹ đón nhận từ giữa năm 1982 để có cuộc sống yên lành trong 28 năm nay.

Chiều nay, tôi đến thăm Tượng đài Chiến Sĩ Việt - Mỹ trên đường All American Way trong khu thị chính Westminster city, quận Cam. Tiết trời giữa thu mát mẽ, dễ chịu. Mưa phùn lất phất bay tăng thêm trong tôi nỗi bâng khuâng, u hoài khi nhìn lên tượng hai người lính Mỹ và Việt đứng sát bên nhau giữa kỳ đài. Những đường nét chạm khắc khéo léo làm tăng vẻ uy nghi, oai vệ, can trường nơi dáng dấp và khuôn mặt của hai người lính. Tôi cúi đầu thật lâu trước tượng hai chiến sĩ, rồi nhìn lên hai quốc kỳ Việt - Mỹ đang phất phới trong trời gió lộng, cảm nghe trong thinh không như có tiếng quân hành ca hùng tráng. Tôi nhớ đến anh chị em ruột thịt của tôi đã mất hết trong chiến tranh. Rồi nghĩ về trung úy Bonny, trung sĩ John, trung sĩ Munoz, trung úy Calvin, các anh : Peter, Henry, Danny, Andy, Jim, những người lính Mỹ đã dành cho tôi tình thương mến đặc biệt thời niên thiếu ở trại Bến Sỏi. Không biết bây giờ các anh đang làm gì, ở đâu ?

Tôi lại cúi đầu thật lâu trước tượng đài, tưởng tiếc đến tất cả anh linh chiến sĩ Việt - Mỹ đã hy sinh vì chính nghĩa tự do.( Có 58.209 quân nhân Mỹ tử trận, 2000 quân nhân Mỹ mất tích và 220.000 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa “vị quốc vong thân” ( * ). Dù kết thúc chiến tranh là sự thua cuộc của miền Nam Việt Nam, nhưng sự hy sinh của các anh không vô nghĩa. Bởi nhờ vào sự chiến đấu quả cảm và hy sinh của các anh từ thời chiến tranh Việt Nam mà sau cùng hệ thống cộng sản quốc tế hoàn toàn sụp đổ. Liên xô tan rã. Các nước cộng sản Đông Âu đã chuyển qua chế độ tự do, dân chủ từ 20 năm nay. Chẳng bao lâu nữa, chế độ đảng trị độc tài Việt Nam cũng sẽ cáo chung vì phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền của người dân Việt trong và ngoài nước đang mỗi ngày lan rộng, và sẽ trở thành sức mạnh vô địch không thế lực phi nhân nào chống đỡ nổi. Sự tiêu vong của cộng sản Việt Nam là điều tất nhiên phải đến.

Chiến sĩ Việt - Mỹ anh hùng ! Các anh là những người chiến thắng trận sau cùng ! Vinh quang thuộc về các anh.!

Sau khi cúi đầu thật lâu trước tượng đài lần nữa, tôi lững thững ra xe, lòng thanh thản. Gíó thu thổi nhẹ từng cơn mát rượi. Những cánh hoa vàng, đỏ, tím nở rộ ở ven đường rung rinh, rung rinh trong gió như cười vui tiễn bước chân tôi. Hoàng hôn dần buông. Phố đã lên đèn.



- Ghi dấu 30 năm rời xa quê hương : 1980 - 2010



HUYÊN CHƯƠNG QUÝ ( Lý Nguyễn Thiên Quý )



* Đã đăng trên : - Đặc san Gọi Đàn số 7 Xuân Canh Dần 2010 - Ánh Sáng Mới 2015 Online – Ánh Dương Online

- Vietnamlibrary.Net - Duy Tân Online - Tu Viện Hộ Pháp Online - Hưng Việt Online - Thư Viện Việt Nam.Org

- Diễn Đàn Đồng Tiến Online - Đàn Chim Việt. Com - Nhân Quyền Cho VN. Blogspot.Com - Quán Văn.Net

- SaiGon Echo Việt Nam Chính Sử



huyenchuongquy@yahoo.com





=====================================

==================================================

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

Chúc Mừng Năm Mới - Diễn Hành Hoa Hồng từ California

3rd Brigade Combat Team Change of Command

Nhạc Phẩm Anh La Ai - Anh Là Ai

"Làm truyền thông, quí vị không có nhiệm vụ phải bảo vệ!" - Vũ Công Lý

Biểu tình lên án VietWeekly và đồng bọn làm tay sai cho Việt Cộng.

Phải Lên Tiếng-Sinh Viên VN bảo Vệ Hoàng Sa,Trường Sa-Ngô Nguyễn Trần

Tôi yêu Tổ quốc tôi

Tin tuc So . net " Viet Nam doi chu quyen Hoang Sa

Lich Su To Quoc Viet Nam

Nam Cali bieu tinh chong Cong ham ban nuoc cua Pham van Dong tren 4000 nguoi tham du

Tai Nam California luc 6PM 14 thang 9 nam 2011, hang ngan dong huong da dung chat khu Tuong Dai Chien Si Viet My, tham du cuoc bieu tinh phan doi TC xam lang VN; vach mat bon CSVN ban nuoc !! Va tranh dau cho nhan quyen VN voi chu de " Dem Thap Nen Niem Tin ".

14-9-11:Bieu tinh chong Tau cong va vc ban nuoc dang bien VN

DapLoisongNui.MP4

Lời Kêu Gọi Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước

Tự Đốt Xe Phản Đối VC Bán Nước Tại Siêu Thị Co.op Mart, VT

Lao động Trung Quốc quậy phá nhà dân tại Nghi Sơn, Thanh Hóa

Tội ác bán nước của CSVN- Quốc Hận 30/4/1975 - Phần 5

Bản lĩnh người yêu nước : Biểu tình trong đồn CA

26-8-2011 Tin Vietnam:Wikileak, bieu tinh tai Hanoi ky 11

Demonstration Against China August 21/ Biểu Tình Chống Trung Quốc ngày 21/8

Toàn cảnh cuộc trấn áp biểu tình ngày 17/07

Toi Ac Cong San 2

Biểu tình tại Hà Nội 7/8/11

bieu tinh phan doi TQ tai Sai Gon 6

19-6-2011 tin tuc Vietnam - Sbtn - Bieu tinh chong Tau cong:Saigon & Hanoi

Browse Movies Upload Dậy mà đi hởi đồng bào ơi

6/12/11 Liên Mạng Tranh Đấu cho VN

Saigon bieu tinh demonstration 19/6/2011

Xuong duong cung canh hoa Lai

Demonstration agaist China's aggression in NY June 25th 2011

Video: Biểu tình chống TQ tại Hà Nội 3/7/11

Thanh nien Co Vang va dong bao VN Nam Cali xuong duong

Biểu Tình Chống Trung Quốc tại VN ngày 05.06.2011

Biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông ngày 5/6/2011

LẤY LẠI HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

chùa Hang đảo Lý Sơn - 6 drduongdinhhung Subsc

Tôi Đã Thức Tỉnh - Lê Nguyễn Huy Trần

Mậu Thân, Anh Nhớ Gì Không?

- HUẾ 68 (Nhạc và lời Vĩnh Điện) Tiếng hát Bảo Triều

------------ http://www.bacaytruc.com Tưởng Niệm Huế Tết Mậu Thân (1968)

LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM

6/5/11 LIÊN MẠNG HOA LÀI TRANH ĐẤU CHO VIỆT NAM Tình hình trong nước mấy ngày qua, nhộn nhịp chuẩn bị biểu tình vào ngày 5 tháng 6/ 2011 tại hai thành phố Sàigon và Hà nội, trước các tòa Đại sứ quán Trung cộng để nói lên sự quyết tâm của toàn dân: - Phản đối Nhà nước CS quá nhu nhược làm tay sai cho Tàu công đang hiếp đáp dân lành. Trên biển cả, trong giới hạn Quốc tế đã khằng định theo các hiệp ước qui định, dân chúng VN sống từ đời ông cha để lại chưa bao giờ có một nước nào dám ngang nhiên ngăn cấm việc làm ăn vì cuộc sống độ nhật thường ngày. - Ngày nay Trung cộng ỷ nước lớn giàu mạnh, lại muốn chiếm đoạt cả miền thềm lục địa VN. Cấm dân làm ăn sinh sống trên biển và hải đảo VN có từ cha ông để lai. - Người dân biết lượng sức mình, VN chỉ bằng cái chén, Trung cộng là thúng thì hỏi bằng cách nào mà VN chống đỡ ?! - Chúng tôi chỉ cần xin các nước trong Liên Hiệp Quốc giúp đỡ và giải quyết công bằng cho con dân VN. 2/ Và hiện nay chúng tôi đồng thông báo cho toàn thế giới chính thức biết rằng: - Chúng tôi nhất quyết chống lại Nhà nước CSVN là tay sai của Đảng CS Nga- Tàu. 3/ Toàn dân VN chỉ mong có một nước VN : - Độc Lập - TựDo - Dân Chủ- Phú Cường. Không lệ thuộc bất cứ nước nào. 4/ Toàn dân VN trong và ngoải nước đồng xuống đường cùng một ngày hôm nay để biểu thị tính thông cảm, tình Đồng bào ruột thịt để nói lên tiếng nói chung: - Đảng CSVN chỉ là tay Sai thủ đắc, che giấu làm Việt gian cho Đảng CSQT Nga - Tàu mà thôi ! 5/ Trong suốt 64-65 năm qua, dưới chế độ CS chưa bao giờ có Độc lập - Tự Do - Dân chủ. Toàn dân VN hôm nay đồng nói lên nguyện vọng chung : - Chúng tôi cần Quốc tế hóa VN. Không để các nước lớn lợi dụng Đảng phái riêng tư mà làm thiệt hại nước nhỏ bé VN ?! Trân trọng, ===================================