Kinh Chuyen
MG
ANH VŨ (VÕ ÐÌNH DƯỢC) CHẮC KHÔNG CÒN DỊP
ÐỂ HÓT TRONG VƯỜN VĂN HỌC VNHN
MƯỜNG GIANG
Anh Vũ là bút hiệu của Võ Ðình Dược, tới nay tuổi còn rất trẻ. Anh là cựu học sinh Trung Học Công Lập Phan Bội Châu Phan Thiết (Niên Khóa 1968-1975), tác giả tập Tho-Nhạc “ Quê Hương và Nổi Nhớ “ cùng nhiều nhạc phẩm giá trị, có chân trong Văn Bút Nam California. Hiện là thủ quỹ của Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận Hải Ngoại. Anh còn là một Phật Tử thuần thành, luôn biết kính trên nhường dưới, giúp đỡ bạn bè lúc gặp khó khăn, hoạn nạn.
Năm 2002 cựu học sinh TH.Phan Bội Châu Phan Thiết, từ bốn phương trời hải ngoại về Nam CA , mừng 50 năm thành lập trường (1952-2002) và tôi đã quen biết Dược qua giới thiệu của nhà thơ Cát Biển. Cũng từ đó vợ chồng Dược coi tôi như người anh trong gia đình, tuy rằng tôi ở tận bên Xóm Cồn (Maui) đìu hiu biên tái, còn Dược thì ngự ở phố thị ngựa xe.
Rồi thì tình huynh đệ lại càng thắm thiết hơn vào đầu năm 2007, khi một số quân cán chính Bình Thuận từ muôn phương về Sài Gòn Nhỏ để lập “ Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Binh BT “ với mục đích giúp đở các đối tượng cựu chiến binh VNCH & Bình Thuận nghèo khó, tàn tật, còn kẹt tại quê nhà. Dược được anh chị em trong tổ chức tín nhiệm, bầu làm Thủ Quỹ từ 2007 tới nay (2010) qua ba lần Ðại Hội Ân Tình.
Nhưng rồi giông tố từ đâu tới đã khiến cho con chim Anh Vũ yêu đời yêu người vì đang sống trong cảnh đủ đầy, vợ hiền, con ngoan, bạn bè quý mến. Ðầu tiên là vợ Dược (Tâm) đang mạnh khoẻ bổng dưng có triệu chứng cảm cúm, đi khám bác sĩ mới biết cô bị ‘ Ung Thư Phổi ‘ và đã qua đời vài tuần sau đó. Rồi thì kinh tế Mỹ xuống dốc, Dược lúc đó đang làm trong công ty địa ốc ‘ môi giới mua bán nhà ‘ cũng bị ảnh hưởng theo. Thêm vào đó cảnh gà trống nuôi ba con nhỏ, nên tài chánh gia đình càng lúc càng thêm kiệt quệ. Cuối cùng căn nhà khang trang cũng bị ngân hàng xiết nợ.
Vì muốn kiếm tiền để lo cho các con tiếp tục theo duổi việc học, qua lời trăn trối của vợ hiền lúc lâm chung. Bởi vậy Dược đã chuyển sang nghề thợ sơn và xây cất nhà cửa. Ðó là lý do anh bị Ung Thư Phổi.
Theo lời cô Nguyễn Thị Dung, Ủy Viên Ngoại Vụ của UB/TTCCB/BTHN là người đang trực tiếp chăm sóc cho Dược, cho biết bệnh trạng của Dược rất trầm trọng, đáng lý đã nhập viện để giải phẩu ngay (cắt bỏ phổi trải, vá lại phổi phải) nhưng vì Dược không có bảo hiểm sức khỏe nên phải chờ chính phủ chấp thuận.
Là người lính già, từng trãi qua không biết bao nhiêu là cảnh ‘ sinh ly tử biệt ‘ của tha nhân cũng như chính bản thân mình. Nhưng khi nghe cô Dung thuật lại lời trân trối gửi gấm của một người cha biết mình đang bị bạo bệnh, đành phải giao phó ba con côi lại cho người khác. Bi thảm này khiến cho ai biết tới cũng phải ngậm ngùi và rơi lệ.
Trong tình thần ‘ Huynh Ðệ Chi Binh ‘ Ủy Ban Tương Trợ Cựu Chiến Binh Bình Thuận đã xuất quỹ gủi đến Dược 100 USD coi như lời kêu gọi sự giúp đở bạn bè đồng hương trong cơn hoạn nạn. Theo thông báo của cô Dung, tới ngày 15/3/2010 :
- Ủy Ban TT/CCB/BT đóng góp giúp Dược : 1,000 USD (tạm thời)
- Hội Nha Trang & Ninh Hòa ............ ......... . : 1,600 USD
Bạn Bè, Thân Hữu, Ðồng Môn, Ðồng Hương muốn guíp Dược xin liên lạc cô Dung (714) 235-9988 hay muonggiang18@ aol.com. Thay mặt những mãnh đời bất hạnh, trân trong cám ơn tất cả.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Ngày 16 tháng 3 năm 2010
MG
ÐỌC “ QUÊ HƯƠNG VÀ NỔI NHỚ “ CỦA ANH VŨ
MƯỜNG GIANG
Những ngày cuối năm buồn lạnh nơi quê người, tình cờ đọc được thơ của Anh Vũ, bổng dưng cảm thấy ấm áp như đang ngồi nơi bếp lửa canh nồi bánh chưng của một tết nào từ xa lắc.
“ Quê hương và nổi nhớ “ hay đúng hơn đây là cảm xúc chất ngất trên mi, trong hồn và mang mang hoài vọng của một đứa con bị thất lạc lâu ngày, nay trở lại quê xưa, đặt chân lên khoảng sân nhỏ ngày nào, nơi có mái tranh và người hiền mẫu chập chờn gậy trúc từng canh, tựa cửa chờ con trở lại. Ðây cũng là cuộc hành trình về quá khứ có nhiều nước mắt, của những đứa con bị lưu đầy như một người sống lưu lạc không biết sẽ về đâu và nơi đâu để mình trở về
“ Chờ đêm xuống con lần về thăm Mẹ
Sao trời soi con thấy được gì đâu ?
Nhà mình đây sao trông quá bồi hồi
Bao kỹ niệm tràn về trong khoảnh khắc ..”
( Con đã về bên Mẹ )
Tất cả đều là chuyện quê nhà từ đầu trang cho đến cuối, làm cho người đọc đang ở một chân trời mù khơi tít tắp, cũng cảm thấy buồn rầu tới nhỏ lệ khi bồn chồn u uất, theo chân tác giả tìm về bến xưa, tưởng gần trong gang tất nhưng đưa tay vói thì xa cách muôn trùng.
“..ôi sướng quá ta ôm choàng đất Mẹ
Vui ngập tràn bao hạnh phúc tình thương
Dẫu nơi đâu ta vẫn nhớ quê hương
Dòng máu đỏ da vàng con La.c Việt
Hò, hò ơi, lời ru buồn mãi viết
Cho hồn ta hòa vào đất ngàn năm..”
( Tiếng hát trên sông Mường ).
Anh Vũ là một cây bút trẻ còn xa lạ đối với văn đàn hải ngoại nhưng rất thân thương và quen thuộc trong sân trường Trung Học công lập Phan Bội Châu Phan Thiết và quê hương miền biển mặn Bình Thuận, vì sự đa tài, đa tình, đa năng huyển hoặc của một người thơ, nhà viếtợ nhạc, họa sĩ và trên hết là tâm hồn Thiện Tín có cái tâm vô ngã không bị chi phối trong cái thế giới vô lương, ta bà. Tập thơ gồm bốn chục bài, phần lớn được phổ nhạc, viết đủ loại, nói đủ chuyện của quê xưa, ngoài Mẹ và tên đất ra, tất cả đều là cõi vô cùng, trầm kha dời đổi, rất quen thuộc trong cuộc sống hôm nay nhưng có cái khác thường của một trái tim đau, khi đứng trên quê hương sầu khổ, có cãm nhận mà vẫn phải bất lực vồ hồn.
Thật ra nhà thơ đã viết những gì ? mà khiến cho một người lính từng sống xa nhà, xa mẹ, xa em,bổng thấy khao khát về một ngày thanh bình thật sự, để trở lại quê mình, chiều ra đồng vắng nghe tiếng sáo diều thanh thoắt trên không, hay đêm lơ lững con đò, cùng bạn, cùng rượu, cùng trăng ngã nghiêng trước gió biển mơn mơn hơi muối mặn thấm nồng .
Ðó là tiếng hátÔ của ai vẳng trên sông Mường, đã là một cõi quê nhà, một chặng đường mà tác giả đã cùng ta xuyên qua cõi hồn khi trở lại thăm Phan Thiết, Bình Thuận, thăm lại ngôi nhà và căn vuờn tuổi thơ. Tất cả dù có đổi thay nhưng cây đa, mái đình , sân trường, hàng hiên, bải biển ngày xưa chúng ta từng hò hẹn, còn em thì đã mù tăm mất dấu.. viết như vậy làm sao mà chẳng buồn ?
Mỗi quê hương đều có một dòng sông dù lớn hay nhỏ, Anh Vũ cũng vậy, nên đã nói rất nhiều trong thơ của mình về một dòng sông nhỏ mang tên Mường Mán, tuy không bao la vô tận , đôi bờ ngào ngạt phù sa nhưng ở đó ngày nào, Anh Vũ, Ta và những đứa con yêu của Bình Thuận đã một thời đầu trần chân đất , xuôi tay nằm trên bãi cạn, gục đầu uống ngụm nước để hồn lắng nghe tiếng chim hót trên nguồn :
“sông nước Mường Giang chảy lững lờ
Thả câu tắm nắng thưở còn thơ
Trèo lên cột gổ cầu đôi ngã
Lội xuống dòng sông tới bến bờ
.. ai ơi có ghé về Phan Thiết
xin nhớ cho ta một bến chờ .”
(Quê Hương Phan Thiết)
Ðó là nổi khổ sầu của con người bị đầy đọa trong phiền lụy của chiến tranh, của ý thức hệ , của cái tham sân ham muốn muôn đời của con người, luôn luôn lẩn quẩn trong hư và thực, luôn quay cuòng trong một xã hội dối gian đen bạc, bởi vô minh che khuất, bởi sự mệt mõi chán chường của một kiếp người bất hạnh trong thân phận nhược tiểu Việt Nam :
“ Em từ vô thủy vô chung
Hốt nhiên hiện hửu ôm cùng nổi đau
Bên kia rợn tiếng lao xao
Nơi này nắng nhuộm sắc màu có không
.. thiên nhiên địa địa âm u
xòe bàn tay nắm ngục tù xác thân.”
( Vô đề)
Ðó là những tình cảm dâng tràn trên khóe mắt, qua những lời hay ý đẹp tràn ngập trong thơ của tác giả khắp các nẽo đường quá khứ, từ con phố chiều tràn bao nổi nhớ, Lầu nước bâng khuâng đối bóng dưới dòng, Mũi Né-Ðức Long thơm nồng nước mắm, Giáo Xứ Lạc Ðạo tìm tình Kim Ngọc-Tầm Hưng.. thủy chung cũng vẫn là cái phong cách sống của những người miền ruông miền biển Tuy Phong,Phú Quý,khiến cho người đọc càng náo nức tìm về nơi chốn thân thương của một thời ngập đầy kỹ niệm :
“ Lang thang bến vắng Bãi Gành
Trông con sông nước đợi anh trở về
Tình em khoai s81n chân quê
Ðời anh mang nặng lời thề nước non..”
(Bài thơ Hải Ðảo).
Làợ nổi nhớ mông lung của người xa xứ mà lạ lùng hơn bởi vì qua thơ, ta thấy người thơ khi trở lại quê xưa lại càng thấy nhớ quê hơn và thêm tội nghiệp trước nổi cô đơn, lẽ loi và hiu quạnh. Tất cả như một bức tranh tĩnh lặng vẽ cảnh đất trời hoang vu, có bóng trăng treo cùng bóng núi, trăng núi chơi vơi giữa hư ảo vô tình. Tóm lại xa thì nhớ nhưng tới gần lại càng thấy xa, khơi dậy trong hồn người vong quốc những tiếng thở dài, khác nào hồn xưa đã gởi vào tiếng thời gian hay hồi trống thu không vang lên cho ngày hết. Hồi trống, lời than hay những dặm đường cách trở, qua lời thơ của Anh Vũ, chẳng qua cũng chỉ để gởi một khối sầu tận tuyệt, nơi cõi mênh mộng trống vọng biển dâu của kiếp người :
“ Buồn trong xa thẳm giọt rơi
tuôn về ướt lịm một đời lang thang
mưa đâu còn nhớ bàng hoàng
mưa trong dỹ vảng có còn chăng mưa ?”
( Mưa)
Có lẽ hơn ai hết, Anh Vũ đã biết rõ những cơn mộng cũ ngày xưa, nay đã nằm ở một góc nào trong trái tim đau, mà ngày trở về có bạn bè đầy chiếu, bên những ly bia bọt vui vui, để rồi ngày ra đi nơi chốn quê người, quẩn quanh đời thiếu, sáng trưa thương nhớ chân mây. Thì ra chúng ta nay cũng giống như một con sông đầy vơi theo vận nước, nữa như say đắm làn hương ngọt mà đời thì cứ quấn quít hoài theo những gót giầy.
Như một nhà phê bình văn học người Pháp đã viết :” La poésie art suprême , c’est la musique qui pense et la peinture qui se meut “.Ý ông muốn nói Thơ là một nghệ thuật siêu đẳng. Ðó làợ âm nhạc biết suy tư và tranh ảnh biết hoạt động. Trong “ Quê Hương và Nổi Nhớ “, nhiều bài thơ của Anh Vũ , một cách hồn nhiên đã trở thành những ca khúc, giống như những giai điệu được xây dựng từ những chủ đề âm nhạc, vừa có thủ pháp chặt chẽ , gây được ấn tượng và cãm xúc một cách tự nhiên cho bài hát được phổ thành thơ. Ngoài ra nhiều bài thơ như Tiếng Hát trên Sông Mương, Bài thơ dây cáp,Bài thơ hải đảo, vịnh Hồ Gươm.. đọc thơ ta cứ tưởng như đang xem những bức tranh rất linh động và có hồn.
Còn nửa khi nhớ tới mẹ hiền, thi sĩ làm thơ bằng cả tiếng hát ru, nói lên ngàn vạn lần cảm ơn từ mẫu . Ôi không có bài hát nào trên cõi đời này mà ngọt ngào êm ả cho bằng hai tiếng ầu ơ của mẹ, từ ấu thơ cho đến phút cuối cùng, vẫn mang mang một hồn quê nơi chôn nhau cắt rún :
“Bao năm trường mẹ lo nuôi dưỡng
Bằng sữa tươi hạt gạo tình thương
Nhưng đêm mưa dột sa sương
Lộng mùa gió giật, mẹ nhường cho con..”
( Mẹ là Bồ Tát hóa thân )
Cuối cùng, Anh Vũ còn có nhiều bài thơ nói lên tâm sự bi phẩn của kẻ chiến bại, của người lưu vong nhưng vẫn luôn mang một niềm tin sắt đá, của một chiến thắng cuối cùng :
“ Gởi lửa tự do tận quê nhà
Triệu người vùng dậy vút lời ca
Ðập tan quỷ đỏ loài tinh cáo
Rợp bóng cờ vàng nghĩa quốc gia..”
( Xuân Quang Trung)
Nhưng có lẽ điều đáng yêu nhất trong thi tập “ Quê Hương và Nổi Nhớ “, là những câu thơ trong bài “ Thay lời tựa “ vừa như xin lỗi, lại khiêm tốn, rất gần gũi với tâm tư của Nguyễn Du Tiên Sinh năm nào khi đặc bút viết :” Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh “.Phải chăng vì vậy mà Anh Vũ đã viết :
“ Than ôi trong cõi ta bà
Thi nhân mặc khách, thơ là toàn năng
Quay về đọc áng tân thanh
Mua vui cũng chỉ trống canh là nhiều “ ./-
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 7/2002
MG
No comments:
Post a Comment