America’s
Pacific Century – Kỷ Nguyên Thái Bình Dương của Mỹ, đó là tựa đề của
bài xã luận của ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, vừa đăng trên tạp chí
Foreign Policy hôm 10-Nov-2011 (1). Tựa đề của bài viết đã làm
cho một số người giật mình nhớ lại, cách đây không hơn 4 năm, George W.
Bush, nhân danh tư tưởng tân bảo thủ cưc đoan, neoconservative doctrine,
Bush đã đề xuất chủ thuyết “Kỷ Nguyên Mới Của Mỹ-New American Century”.
Để thực hiện tham vọng và để đạt được mục tiêu của chủ thuyết này,
trong suốt tám năm cầm quyền, nguyên Tổng thống Bush, không ngừng theo
đuổi chính sách Tạo chấn động làm khiếp nhược-Shock & Awe, hầu
khống chế các nhà lãnh đạo của các nước thuộc khối Trung Đông và Bắc Phi
ngoan cố chống lại chính sách ngoại giao của Mỹ.
Trong
thực tế “Kỷ Nguyên Thái Bình Dương Của Mỹ ” là những phản ứng tích cực
của Ngoại trưởng Hillary Clinton, sau những chuổi dài thay đổi và xáo
trộn, từ biến cố lịch sử ngày 11/9, sự sa lầy của Mỹ ở hai mặt trân
Afghanistan và Iraq cho đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-09.
Sau khi lên làm Tổng Thống Mỹ, Barack Obama nhận thấy vấn đề cốt tử mà
ông phải giải quyết là hai mặt trận Afghanistan và Iraq. Chính vì sự sa
lầy của Mỹ tại hai mặt trận hao tiền tốn của và hy sinh xương máu của
thanh niên Mỹ một cách phi lý này, là nguồn cơn của tất cả mọi vấn đề
đang xâu xé nước Mỹ và thế giới trong đó có cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu mà chính phủ của ông đang nghiêng vai hứng chịu (2). Để dứt
khoát vấn đề này, năm 2009 Tổng thống Barack Obama lấy quyết định sẽ
triệt thoái toàn bộ lực lượng quân đội Mỹ ra khỏi mặt trận Iraq vào cuốn
năm 2011 và ra khỏi mặt trận Afghanistan chậm nhất là cuối năm 2014.
Chính tổng thống Obama nhắc lại quyết định này vào ngày thứ tư 24-6-2011
và một lần nữa sau đó vào ngày 21-10-2011. Những quyết định này của
Tồng thống Obama đã thay đổi toàn diện tầm nhìn của các nhà chính trị,
các nhà quân sự Mỹ, về tương lai quyền lực của Mỹ. Richard McGregor,
người dẫn đầu một trường phái mới của chính trị Mỹ, liền đưa ra nhận
định: Sau những quyết định của Tổng thống Obama triệt thoái toàn bộ lực
lượng quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Iraq và Afghanistan, con đường để duy trì
thế mạnh toàn cầu của Mỹ không còn đi qua ngã Baghdad, Jerusalem,
Teheran, hay Kabul, mà đã chuyển qua các tuyến hàng hải hướng về châu Á
Thái Bình Dương, bao quanh Trung Quốc.
Hòa
nhịp với tư tưởng “Chuyển hướng Trục quay Quyền lực của Mỹ”, bộ Ngoại
giao Mỹ liền phát động phong trào thay đổi tầm nhìn của Mỹ về châu Á
Thái Bình Dương. Cùng lúc, bộ Ngoại giao Mỹ xác nhận vai trò trọng yếu
của khu vực này đối với Hoa Kỳ trong tương lai. Bài xã luận của ngoại
trưởng Mỹ, Hillary Clinton America’s Pacific Century là một đề xuất về
một chủ thuyết mới của Mỹ, một tầm nhìn mới của Mỹ, về châu Á Thái Bình
Dương. Cơ sở của chủ thuyết này được nhận diện dưới hai chủ điềm:
1. Đối nội
Để
duy trì và củng cố vị thế cường quốc của Hoa kỳ, việc quan trọng hôm
nay là phải chú trọng đầu tư vào nhiều hơn ở khu vực châu Á Thái Bình
Dương trên mọi mặt: Ngoại giao, Kinh tế và cả Chiến lược. Việc đầu tư
này bắt đầu thực hiện ngay cả trong thời kỳ Mỹ đang dần dần triệt thoái
ra khỏi Iraq và Afghanistan. Ngoại trưởng Clinton nhấn mạnh: Chúng ta
pphải hiểu rằng sự phục hồi kinh tế của Mỹ phụ thuộc vào xuất khẩu và
khả năng của các công ty Hoa Kỳ trao đổi mậu dịch với một thị trường có
sức tiêu thụ mênh mông và ngày càng phát triển của khu vực Châu Á-TBD.
Thách thức lớn nhất của HoaKỳ tại khu vực này là làm sao chúng ta phải
xây dựng cho bằng được mạng lưới ngoại giao bền vững với tất cả các đối
tác trong vùng, thích hợp với lợi ích của nước Mỹ chẳng khác nào mạng
lưới ngoại giao mà chúng ta đã từng xây dựng được tại Châu Âu – Đại Tây
Dương. Vấn đề này rất quan trọng đối với hiện tình của Mỹ, không chỉ
quan trọng trong kinh tế và còn trong cả các vấn đề an ninh nội tình của
Mỹ
Là
một Ngoại trưởng ngoại hạng của Mỹ, khi nhắc đến mạng lưới ngoại giao
mà chính phủ Mỹ đã xây dựng được tại châu Âu-Đại Tây Dương bà Hillary
Clinton chắc không thể nào quên được biết bao sinh mạng máu xương của
thanh niên Mỹ đã ngã xuống trên vùng đất Châu Âu-ĐTD này, biết bao nhiêu
của cải vật chất của Mỹ đã đổ xuống cho vùng đất này, để cho nước Mỹ có
được mạng lưới ngoại giao bền vững với châu Âu đến tận hôm nay. Và cũng
để bảo vệ và củng cố mạng lưới ngoại giao ấy, Hoa kỳ đã phải hợp tác
với châu Âu để thành lâp khối quân sự Minh Ước Bắc Đại Tây Dương-NATO.
Và cũng trong chiều hướng ấy hiện nay vẫn còn có cả trăm ngàn lính Mỹ:
Hải, Lục, Không quân vẫn còn đang đồn trú tại các quốc gia châu Âu, ngay
cả tại Vương quốc Anh, tại Frankfurt Đức, tại Tây Ban Nha
Từ
gốc nhìn này, ai cũng thấy có sự xung đột tư tưởng giữa Ngoại trưởng
Hillary Clinton với nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Robert Gates, nhà
lập thuyết Tân Biệt Lập -Neo- Isolationism.(3) Mặc dầu Ngoai trưởng
Hillary Clinton không nhắc đến tên của nguyên Bộ trưởng Quốc phòng
Gates, nhưng ai cũng biết rằng người mà bà đang đề cập đến không ai
ngoài nguyên Bộ trưởng Gates, người đã đọc bài diễn văn tại trường Võ bị
Quốc Hoa Kỳ -West Point- hồi tháng 2-2011 trước một nhóm khóa sinh vừa
tốt nghiệp trường này. Nhân dịp này, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Gates
nhắc lại câu nói thời danh của tướng McArthur:
Bất
cứ Bộ trưởng Quốc phòng nào của Mỹ từ rầy về sau mà dám đưa ra lời cố
vấn Tổng thống Hoa Kỳ gửi các đơn vị chiến đấu đến tham chiến trên bộ
tại cá quốc gia thuộc châu Á, Trung Đông hay châu Phi, thì cái đầu của
các vị Bộ trưổng Quốc phòng ấy cần phải được đem ra giảo nghiệm
. Và
nguyên Bộ trưởng Gates trưng ra một phần của lập thuyết Tân Biệt Lập của
ông : Thật điên rồ nếu trong số người Mỹ chúng ta, có ai lại có tham
vọng mở những cuộc chiến ngoài biên cương của nước Mỹ tại những vùng
đất xa lạ như Afghanistan hay Iraq như chúng ta đang phải gánh chịu
..
Lập
luận của ngoại trưởng Clinton hôm nay, như chúng ta đã rõ, hoàn toàn đi
ngược lại tư tưởng chống chiến tranh củ Robert Gates. Ngoại trưởng
Clinton mạnh dạn đả kích tư tưởng của Robert Gates, bằng những lập luận
đanh thép của bà:
Những ai nói rằng chúng ta không còn đủ khả năng để tham gia với thế
giới bên ngoài, người đó có một nhận định lầm lạc và hết sức lạc hậu khi
cho rằng khi muốn chúng ta phải thu gọn chính sách đối ngoại để giải
quyết những thách thức kinh tế nội bộ. Trong thực tế chúng ta không thể
nói là chúng ta không đủ khả năng
Trước
khi hạ bút viết những dòng trên, không hiểu Ngoại trưởng Hillary
Clinton có đọc qua và tham khảo tư tưởng của câu phát biểu của Phó Tổng
thống Hoa Kỳ, Joe Biden, trưa hôm 20-10-2011, một ngày, sau cái chết của
nhà độc tài Muammar Gadhafi:
Chính
sách của Chính phủ Hoa Kỳ trong việc can thiệp vũ trang và các cuộc
chiến nước ngoài như cuộc chiến Libya, chúng ta đã chi 2 tỷ USD cho cuộc
chiến này và chúng ta đã thành công đạt được mục đich mà không tốn một
sinh mạng nào của người Mỹ chúng ta. Đó phải là phương sách mới của
chúng ta để đối đầu với những thách thức luôn luôn xảy ra trên thế giới
hôm nay và chúng ta sẽ giải quyết theo đường lối mới này. không theo
đường lối cũ)
Điều
đó có nghĩa là sau kinh nghiệm của cuộc chiến Libya, nhất quyết từ rầy
về sau chính phủ Hoa Kỳ sẽ không bao giờ gửi quân tham chiến trên bộ ở
bất cứ quốc gia nào ngoài nước Mỹ trên thế giới.
2. Đối Ngoại
Về
mặt này, Ngoại trưởng Hillary Clinton viết:Công tác đối ngoại của Mỹ
là chìa khóa cho sự thịnh vượng an ninh trong nước
Từ việc phát triển
thị trường mới cho doanh nghiệp Mỹ tại các nưóc châu Á-TBD cho đến việc
ngăn ngừa sư bành trướng lây lan vũ khí hạt nhân cũng như sư bảo vệ tự
do hàng hải của các thương thuyền Mỹ trên các hải trình châu Á-TBD .
Tất cả điều này thuộc vào khả năng đối ngoại của Hoa Kỳ. Việc duy trì
hòa bình và an ninh khắp khu vực châu Á-TBD là việc tối quan trọng cho
tiến bộ toàn cầu. Chúng ta có thể thực hiện được chiến lược trên bằng
cách theo đuổi chiến thuật có hiệu năng thật sự trong việc ngăn ngừa
những nổ lực phát triển vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên hay bảo đảm
sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của những cường quốc lớn trong
khu vực
.
Về
tình trạng quan hệ giữa Mỹ và khu vực châu Á-TBD được Ngoại trưởng Hoa
kỳ miêu tả như sau: Có lẽ hơn bao giờ hết, hiện tình châu Á-TBD đang
mong mỏi sự lãnh đạo của chúng ta cũng như họ đang mong mỏi được giao
thương với chúng ta. Vì chúng ta là cường quốc duy nhất với mạng lưới
các liên minh hùng mạnh trong khu vực mà không có tham vọng về lãnh thổ,
và một truyền thống đóng góp cho lợi ích chung từ bao lâu nay. Cùng các
đồng minh chúng ta bảo đảm an ninh qua nhiều thập kỷ.Tuần tra trên biển
châu Á và giữ gìn ổn định trong vùng, và nhờ đó chúng ta kiến tạo thuận
lợi cho sự phát triển
.
Trong
thực tế, những lập luận trên của bà Ngoại trưởng Mỹ phần nhiều được xem
như phù hợp với những thực tế lịch sử của quá khứ tại vùng ĐNÁ. Nhưng
liệu lịch sử của Mỹ có đầy đủ khả năng không, khi tự biên hộ cho mình
như một nước lớn không có tham vọng về lãnh thổ, có truyền thống đóng
góp cho lợi ích chung từ bao lâu nay”. Đối diện với khoản lịch sử 41 năm
quan hệ Việt Mỹ từ năm 1954 đến năm 1995, lâp luận trên của bà Hillary
Clinton cần phải được hai phía Mỹ Việt cùng xét lại. Trong tình hình
hiện tại chúng tôi luôn luôn hiểu rằng Hoa Kỳ là một đối tác lớn và cần
thiết của Việt Nam. Nhưng dù sao đi nữa, chúng ta phải công bình với
lịch sử-lịch sử bang giao giữa hai dân tộc Việt Mỹ.
Để quay về với chủ điểm mở rộng đối tác với châu Á-TBD theo định chế đa
phương, bà Hillary Clinton đề cập đến qua hệ mậu dịch, quân sư với các
quốc gia Ấn Độ, Nam Triều Tiên, Nhật Bổn, Indonesia, Việt Nam
và đặc
biệt quan hệ mậu dịch song phương với Trung Quốc và nhất những buổi họp
quân sự cao cấp (còn gọi là những buồi họp giao lưu quân sự) với nước
này. Ngoại trưởng Hillary Clinton kêu gọi TQ: Trên mặt kinh tế, Hoakỳ
và Trung Quốc cần phải hợp tác với nhau để bảo đảm sự tăng trưởng kinh
tế toàn cầu được bền vững và quân bình. Bà cũng không quên yêu cầu TQ
thực hiện những bước cần thiết cho phép đồng tiền TQ, Nhân-dân-tệ, tăng
giá nhanh hơn nữa so với đồng Mỹ kim, cũng như so với những đồng tiền
của cá đối tác thương mại quan trọng khác
. Tất nhiên, cũng như nhiều
quốc gia khác, với TQ bà ngoại trưởng Mỹ cũng giương cao ngọn cờ nhân
quyền và cảnh cáo TQ chưa thực thi đầy đủ về nhân quyền, một chủ
thuyết mà Mỹ đã đề xuất từ thế kỷ trước. Nhưng liền sau đó bà dịu
giọng:
Xét
cho cùng không có một cẩm nan nào có thể hướng dẫn mối quan hệ đang
diễn ra giữa Hoa Kỳ và TQ. Nhưng vì quyền lợi quá cao, chúng ta không
thể chịu thất bại. Khi xúc tiến các hoạt động, chúng ta sẽ tiếp tục đưa
ra quan hệ giữa chúng ta và TQ vào trong khuôn khổ khu vực rộng lớn hơn
gồm các liên minh an ninh, mạng lưới kinh tế và các mối liên hệ xã hội
Qua
những dòng phát biểu trên, có phải chăng Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hillary
Clinton đang hướng tới sự hình thành Nhóm G2-khối quyền lực Mỹ Trung” Dù
cho TQ cứ tiếp tục xem thường chủ thuyết nhân quyền của Mỹ” Hoa kỳ
sửa soạn cho một thế giới lưỡng cực”
Sau
TQ, Ngoại trưởng Hillary Clinton đề cập đến các Hiệp hội ASEAN, Diễn
Đàn Kinh Tế Á Châu APEC và sư thành hình của nhóm Mậu dịch Tự do Xuyên
Thái Bình Dương-TPP. Tuy nhiên bà nhấn mạnh rằng: Sự hợp tác của chúng
ta với các định chế khu vực chỉ bổ túc chứ không thể thay thế các quan
hệ song phương. Có một đòi hỏi trong khu vực này là Mỹ phải đóng vai trò
tích cực trong sự xắp xếp các nghị trình của những định chế này làm sao
cho các định chế này được hoạt động hữu hiệu và sẵn sàng đáp ứng với
tình hình cũng nằm trong lợi ích của chúng ta (của Mỹ)
Đó cũng là lý do
tại sao Tổng thống Obama sẽ tham dư hội nghi Thượng Đỉnh Đông Á vào
ngày 11-11-2011 tại Bali, Indonesia. Để chuẩn bị cho sự kiện này, Hoa Kỳ
đã mở môt văn phòng ở Jakarta để sửa soạn cho buổi lễ ký kết Hiệp Ước
Hữu Nghị Hợp Tác với ASEAN.
Ngoại
trưởng Mỹ, Hillary Clinton, cũng dành một phần bài xã luận của bà nói
về Biển Đông mà bà vẫn quen gọi theo kiểu TQ là Biển Nam Trung Hoa, bà
nhắc nhở:
Vào năm 2010, tại diển đàn an ninh khu vực tại Hà Nội, Hoa Kỳ đã giúp
phát động một nổ lực toàn khu vực nhầm bảo vệ quyền tiếp cận không hạn
chế và sự tụ do thong thương trên biển Nam Trung Hoa (nguyên tên gọi
của bà Clinton). Với sự kiện là một nửa trọng tải hàng hải quốc tế phải
đi qua vùng biển này hằng năm. Đây là một nổ lực quan trọng, và trong
năm qua chúng ta đạt được nhiều tiến bộ dọn đường cho một chính sách
ngoại giao đa phương và bền vững giữa những nước tuyên bố có chù quyền
trong vùng biển này, cố gắng bảo đảm các tranh chấp sẽ được dàng xếp
bằng hòa bình thương lượng, phù hợp với nguyên tắc hiện hữu của luật
pháp quốc tế
.
Dĩ
nhiên Biển Đông là vấn đề quá phức tạp cho vị thế của HoaKỳ. Ngoài việc
bảo vệ tự do hải trình trên vùng biển này, là lợi ích quốc gia duy nhất
của Hoa Kỳ, Hoa kỳ không có liên quan mật thiết nào khác trên vùng biển
này. Hơn nữa, việc bảo vệ tự do hàng hải trên vùng Biển Đông là lợi ích
quốc gia không phải chỉ riêng cho Hoa Kỳ mà chung cho các quốc gia có
tàu bè hàng hải hàng năm qua lại trên vùng biển này. Hà cớ gì mà người
Mỹ lại đi làm việc lẩm cấm ăn cơm nhà đi vác ngà voi, nếu không vì lợi
ích thứ hai, thứ ba
nào đó của Mỹ trên vùng biển này. Có lẽ cũng vì
lâp luân này, vị tiền nhiệm của bà, nguyên ngoại trưởng Henry Kissinger,
và chính phủ Mỹ, năm 1974 đã nhấm mắt quay lưng lại, nếu không muốn nói
là đồng lõa với Trung quốc trong việc nước này xua quân đánh chiếm quần
đảo Hoàng Sa của Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Và đúng 34 năm
sau, ngày 8-tháng 3-2009, một sự cố khác cũng được lập lại ngay tại vùng
biển Hoàng sa, lần này với tàu của Mỹ: Chiếc tàu thắm dò đáy biển của
Mỹ, USS IMPECCABLE- bị các tàu của Trung Quốc bao vây hạ nhục. Tổng
thống Obama và Ngoại Trưởng Hillary Clinton, vẫn theo truyền thống kinh
điển của nền ngoại giao vị lợi nhuận của Mỹ, tiếp tục quay lưng làm ngơ.
3. Đâu là mục đích của việc chuyển hóa tầm nhìn
Để
biện hộ cho chủ thuyết của mình, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hillary Clinton,
quan niệm rằng: “Chúng ta không có thể, cũng như chúng ta không muốn áp
đặt hệ thống chính trị của chúng ta lên trên các nước khác nhưng chúng
ta thực sự tin tưởng rằng một số giá trị tinh thần của chúng ta được các
nước khác coi như những gia trị phổ quát, kể cả các quốc gia châu Á
cũng trân quí những giá trị ấy của chúng ta. Nhất là những giá trị tư
tưởng xây đựng Hòa bình bền vững, Thịnh vượng chung, kiến tạo Tự do, Dân
chủ, kính trọng nguyên tắc Nhân quyền. Trong thập kỷ vừa qua chính sách
ngoại giao của Hoa Kỳ đã chuyển biến từ những lợi lộc hòa bình sau
chiến tranh lạnh đến những đòi hỏa và cam kết tại Afghanistan và Iraq.
Khi những cuộc chiến này trên đà tàn lụi, chúng ta cần tăng tốc những nổ
lực để hướng về những tình hình thực tế mới trên toàn cầu. Những thực
tế mới này đòi hỏi Hoa Kỳ cần phải có sáng kiến, phải cạnh tranh, phải
thay đổi đường lối lãnh đạo. Thay vì rút khỏi thế giới chúng ta cần xốc
tới
Trong một thời điểm khan hiếm nguồn lực, chúng ta phải biết đầu tư
các nguồn lực này một cách khôn ngoan vào những nơi mà chúng ta có thể
tạo ra nhiều lợi nhuận nhất. Đó là lý do tại sao khu vực châu Á-TBD
tượng trưng cho vận hội đích thực của thế kỷ XXI đối với chúng ta.”
Đích
thực vậy, rõ như mười mươi, cứu cánh của chủ thuyết Kỷ nguyên Thái
Bình Dương của Mỹ, cũng vẫn là vì lợi ích của nước Mỹ-Nothing but
American interests. Đó là phương châm hành động muôn đời trên mọi địa
hạt: Tư tưởng, Triết học, Tôn giáo, Mậu dịch, Chính tri quân đội, Khoa
học xã hội, Nhân văn, Văn học Nghệ thuật
cho những nhà lãnh đạo Mỹ, cho
mọi công dân yêu nước Mỹ. Trong thực tế, không riêng vì Mỹ, đó cũng là
phương châm hành động chung cho những ai yêu nước, tất cả chỉ vì lợi ích
của đất nước họ.
Để đi đến kết luận Ngoại trưởng Hillary Clinton hạ bút:
Tuy
rằng sự chuyển hướng này không phải là dễ, nhưng chúng ta đã dọn đường
cho nó hơn hai năm rưỡi qua và chúng ta cương quyết phải thấy nó hòan
thành như một nổ lực ngoại giao quan trọng nhất của thời đại của chúng
ta.
Quả
thật, ngoại trưởng Hillary Clinton đã đặt hết hy vọng lớn lao của bà
trong chủ thuyết Kỷ Nguyên Thái Binh Dương của Mỹ. Hy vọng với vị thế
lãnh đạo thế giới của nước Mỹ hôm nay, giấc mơ của Ngoại trưởng Clinton
sẽ thành tựu.
Có
điều lý thú cho Việt Nam, trong thiên trước thiên cuối cùng của bài
viết, Ngoại trưởng HoaKỳ, Hillary Clinton, đã dành vài dòng nhắc lại
chiến tranh ViệtNam với niềm xao xuyến tràn ngập hồn bà với tất cả ái,
ố, hỉ, nộ
Bà viết:
Khi
chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một công nghiệp thịnh hành gồm các
bình luận gia đưa ra ý kiến rằng Hoa Kỳ đã tháo chạy, và đây cũng là đề
tài cứ lập đi lập lại mỗi vài thập niên ( có lẽ bà muốn nói trong suốt
hơn ba mươi năm qua). Nhưng sau mỗi thất bại như vậy, bằng tài năng phát
minh và sáng kiến, chúng ta sớm khắc phục chúng. Chúng ta phục hồi đất
nước nhanh và lớn mạnh hơn trước. Người Mỹ chúng ta là kẻ vô địch thế
giới trong khả năng phục hồi tổ quốc sau mỗi lần thất bại. Trong hiện
tại, Quân đội của chúng ta rõ ràng là Đội quân hùng mạnh nhất, nền Kinh
tế của chúng ta nền Kinh tế hùng mạnh nhất, Công nhân của chúng ta có
năng xuất cao tốt nhất, Đại học của chúng ta hiện đại nhất, tốt nhất
toàn cầu. Khắp mọi nơi tôi đến tôi vẫn nghe thấy thế giới vẫn còn trông
đợi sư lãnh đạo của Hoa Kỳ. Điều đó xác quyết Hoa Kỳ vẫn còn đũ khả năng
bảo vệ và duy trì vị thế lãnh đạo thế giới
Những
dữ kiện Ngoại trưởng Hillary Clinton vừa nêu ở trên là những thực tế
khách quan, những sự thật lịch sử không chối cãi được. Đồng thời, một
thực tế khác, không ai chối cãi được: Bóng ma Chiến tranh Việt Nam, đã
kết thúc sau hơn ba mươi lăm năm, vẫn còn ám ảnh bà, cũng như những
người Mỹ khác và không ngừng phủ bóng trên chính trường Mỹ. Thế mới hay,
sau chiến tranh không có kẻ chiến thắng, tất cả chỉ là nạn nhân của
chiến tranh. Chiến tranh luôn luôn là nguồn cơn của lạc hậu, nghèo đói,
ngộ nhận, hận thù phi lý
Hy vọng Chiến Tranh Việt Nam-VietNam War-luôn
luôn là bài học lịch sử không chỉ riêng cho hai dân tộc Việt Mỹ mà cho
cả thế giới nhân loại. Thật là lý thú khi thấy Chiến Tranh ViệtNam đã
trở thành một trong những nội dung nền tảng nhất, sâu sắc nhất của chủ
thuyết của ngoại trưởng Hoa Kỳ, Hillary Clinton, Kỷ nguyên Thái Bình
Dương của Mỹ.
Đào Như
Hudson, Ohio, USA
21-Nov.2011
NGUỒN THAM KHẢO
(1)-AMERICA’S PACIFIC CENTURY- Hillary Clinton
(phần tiếng Việt dựa trên bản dịch của Trấn Ngọc Cư-bXvn-ngày 12-Nov-2011)
(2)-THE PRICE OF 9/11 – Joseph E. Stiglitz
(3)-ROBERT GASTES-VỚI LẬP THUYẾT TÂN BIỆT LÂP-Đào Như
from your own site. You can also
via RSS.
No comments:
Post a Comment