The US and China in confrontation in Asia. Who wins ?
Hoa Kỳ và Chệt Cộng xác định thái độ tại Biển Đông
Nguyên tác: Giáo sư Carl Thayer
Lời giới thiệu:
Tháng 7/2010 có hai biến chuyển đáng quan tâm tại Á châu. Thứ nhất, hội
nghị của Diễn Đàn An Ninh Á châu (Asean Regional Forum – ARF) họp
thường niên tại Hà Nội. Tại hội nghị, Hoa Kỳ tuyên bố chính sách mới tại
Biển Đông. Thứ hai, Hải quân Hoa Kỳ và Nam Hàn tập trận tại vùng biển
chung quanh bán đảo Triều Tiên (1) .
Trước đó cũng trong tháng 7/2010, giáo sư Carlyle Thayer ở Úc viết bài “The United States and Chinese Assertiveness in the South China Sea”
(Hoa Kỳ và Trung quốc xác định thái độ tại Biển Đông) với đầy đủ chi
tiết về sự tranh chấp Biển Đông giữa Trung quốc, Việt Nam và Hoa Kỳ. Tài
liệu ngắn gọn, nhưng súc tích giúp cho những ai muốn tìm hiểu về các
vấn nạn của Biển Đông trong mấy chục năm qua.
Sau
đây là bản lược dịch. Gíao sư Thayer bắt đầu bài viết bằng cách nói đến
sự quan trọng của căn cứ Hải quân Trung quốc tại Hải Nam và vụ tàu
Trung quốc chận đường chiến hạm Impeccable của Hải quân Hoa Kỳ và
những lời tuyên bố chủ quyền của Trung quốc trên Biển Đông. Ba động tác
này là một thách thức các nước chung quanh vùng Biển Đông và Hoa Kỳ.
Gíao sư Thayer đưa ra 3 nguyên nhân gỉải thích tại sao Trung quốc lại có
thái độ giành quyền kiểm sóat Biển Đông. Và sau cùng đưa ra 7 đề nghị
giúp giải quyết căng thẳng tại đó .
Giáo sư Carl Thayer
Bối cảnh
Với chính sách chính thức tuyên bố là “hòa bình, hợp tác và phát triển” (peace, cooperation and development) Trung quốc đã theo đuổi chủ thuyết tạo một thế giới “hài hòa” (harmonious world) qua đường phát triển kinh tế và góp phần duy trì hòa bình thế giới.
Trung
quốc rất thành công trong chính sách kinh tế nhắm vào xuất cảng là
chính, và việc này đòi hỏi năng lượng. Hai nhu cầu, phát triển kinh tế
và đầy đủ năng lượng đòi hỏi Trung quốc lo bảo đảm sự lưu thông của các
đường biển huyết mạch gần lục địa Trung quốc. (Sea Lines of
Communications – SLOCs).
Mặc
dù thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế, ảnh hưởng kinh tế
của Trung quốc vẫn rất mạnh trong vùng. Trung quốc đặc biệt có vị thế
quan trọng vì Trung quốc là chủ nợ 2 trillion mỹ kim mà con nợ là Hoa Kỳ.
Để giúp giải quyết khủng hoảng kinh tế thế giới Trung quốc giải tỏa ngân khoản kích thích kinh tế
(stimulus package) trong nước, chính yếu trong ngành xây cất và ngoài
nước bỏ nhiều tiền đầu tư làm cho Trung quốc càng có uy thế khi kinh tế
thế giới vãn hồi dần.
Nhờ
sức mạnh kinh tế, Trung quốc cải tiến trang bị quân đội như tăng cường
hỏa tiễn đặt trên đất liền và trên biển đồng thời cải thiện kho vũ khi
nguyên tử để đối đầu với kho vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ.
Trung
quốc còn phát triển hỏa tiễn tầm ngắn và tầm trung dùng vào việc tấn
công Đài Loan trường hợp Đài Loan tuyên bố độc lập. Đồng thời Trung quốc
tăng cường sức mạnh của Hải quân để bảo vệ các đường giao thông trên
biển và bảo đảm không ai có thể chận eo biển Malacca.
Hoa
Kỳ, Nhật Bản và Úc châu từng nhận xét rằng sự phát triển quân lực Trung
quốc vượt ngoài nhu cầu tự vệ, và ngân sách quốc phòng Trung quốc công
bố chỉ là một phần của ngân sách thực chi . Từ năm 1997 đến nay ngân
sách quốc phòng Trung quốc tăng 500%. Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Bộ
Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ nói rằng Trung quốc đặc biệt tăng cường lực
lượng Hải quân nhằm có khả năng đối phó với các căn cứ Hải quân Hoa Kỳ
trong vùng Á châu.
Các
nhà nghiên cứu chiến lược cho rằng Trung quốc đang nới rộng vòng đai
phòng thủ tại tây Thái Bình Dương ra vòng đảo ngoài Biển Nhật Bản, Biển
Phi Luật Tân và Biển Nam Dương bao gồm cả quần đảo Marianas và Palau
tiến sát đến đảo Guam của Hoa Kỳ. Tháng Ba & tháng Tư vừa qua (2010)
Hải quân Trung quốc cho tập trận tại phía Nam đảo Okinawa.
Cuộc tập trận đầu tiên trong tháng Ba gồm 6 chiến hạm thuộc Hạm đội Bắc hải tập đánh nhau với Hạm đội Nam hải. Sau đó Hạm đội Bắc hải băng qua eo biển Bashi phía bắc Phi Luật Tân vào neo tại Fiery Cross Reef thuộc quần đảo Trường Sa trước khi tiếp tục tập trận tại phía đông eo biển Malacca.
Cuộc tập trận thứ hai gồm 10 chiến hạm thuộc Hạm đội Đông hải
diễn tập tại phía đông bờ biển Đài Loan cùng với máy bay căn cứ trên
đất liền tập tiếp tế nhiên liệu trên không, bay đêm, bay tránh radar và thực tập oanh tạc trên biển.
Đô
đốc Robert Willard, Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương nói sự
phát triển lực lượng của Trung quốc làm thay đổi cán cân quân sự trong
vùng Thái Bình Dương.
Quan
hệ giữa Trung quốc và Hoa Kỳ là quan hệ vừa tranh đua vừa hợp tác,
trong đó Đài Loan chiếm một vị trí quan trọng. Trong nhiệm kỳ thứ hai
của tổng thống Bush, quan hệ giữa hai bên có chiều dịu xuống, nhưng
trong những tháng 9 & 10/2008 Trung quốc ngưng các chương trình hợp
tác quân sự khi Hoa Kỳ quyết định bán 6.5 tỉ mỹ kim vũ khí cho Đài Loan.
Sau khi tổng thống Obama đắc cử, Trung quốc tiếp nối lại quan hệ quân
sự. Bộ trưởng ngoại giao hai nước thăm viếng qua lại. Tổng thống Obama
và Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư đảng cộng sản Trung quốc Hồ Cẩm Đào
gặp nhau không chính thức qua các buổi họp G-20 tại Luân Đôn và
Pittsburgh. Cuối năm 2009 tổng thống Obama chính thức thăm viếng Bắc
Kinh.
Trước khi lên đường tổng thống Obama nói ông cho rằng sự vươn lên của
Trung quốc không có tính đe dọa ai. Tuy nhiên đầu năm 2010, ông Obama
chấp thuận một đợt bán vũ khí khác cho Đài Loan và Trung quốc lại ngưng
các chương trình hợp tác quân sự.
Ý nghĩa chiến lược của căn cứ Hải quân Yulin
Năm
2007 vệ tinh dân sự của Anh khám phá Trung quốc xây cất gần xong một
căn cứ Hải quân lớn tại Yulin gần thành phố Sanya nằm ở cực nam đảo Hải
Nam. Khi hoàn tất căn cứ này có khả năng đưa Hải quân Trung quốc vào
hoạt động tại Thái Bình Dương và Biển Đông.
Các
hình chụp được cho thấy các hầm và cầu tàu tại Yulin có khả năng đồn
trú nhiều chiến hạm và tàu ngầm. Các cầu đang xây có khả năng làm chỗ
đậu cho các chiến hạm tấn công loại lớn và hàng không mẫu hạm.
Đồng thời Trung quốc cho cải tiến phi trường tại đảo Woody trong quần đảo Paracels và xây một đài radar tại Fiery Cross Reef trong quần đảo Trường Sa, và các đơn vị Hải quân khác hiện diện gần như thường trực tại Mischief Reef
ở phía tây Phi Luật Tân. Các căn cứ và cơ sở này cho Trung quốc khả
năng bảo vệ quyền “tự biên tự diễn” của mình trên Biển Đông, và sự giao
thông qua lại của hai eo biển Malacca và Singapore.
Căn
cứ Yulin giúp rút ngắn đường tiếp vận cho hạm đội Trung quốc hoạt động
trong Biển Đông và gián tiếp đe dọa sự tự do lưu thông của thương thuyền
các nước Nhật, Đài Loan và Nam Hàn.
Một
phần căn cứ Yulin nằm dưới hầm không thể chụp hình bằng vệ tinh, nên
không thể xác định được khả năng thật sự của nó. Phần chụp được cho thấy
căn cứ Yulin đã có khả năng đồn trú tàu ngầm mang hỏa tiễn liên lục
địa. Cuối năm 2007 người ta thấy tàu ngầm nguyên tử thế hệ thứ hai thuộc
Loại Jin 095 tại căn cứ Yulin. Trước đây loại tàu ngầm này chỉ có mặt trong Hạm đội Bắc hải.
Khi
Yulin hoàn tất căn cứ này sẽ là căn cứ tàu ngầm tấn công của Hải quân
Trung quốc. Hiện nay Trung quốc chưa đóng xong các tàu ngầm tối tân,
nhưng khi xong Trung quốc có tàu ngầm mang 12 hỏa tiễn có khả năng phóng
ngoài biển. Và đây là lực lượng đáng quan ngại khi Trung quốc trang bị
chúng với hỏa tiễn nhiều đầu đạn nguyên tử. Chung quanh đảo Hải Nam là
vùng nước sâu nên tàu ngầm Trung quốc có thể ẩn náu để phóng hỏa tiển
một cách kín đáo. Theo Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ Trung quốc sắp hoàn tất 5
tàu ngầm nguyên tử phóng hỏa tiễn (SSBN), một số sẽ được đồn trú tại
Yulin.
Căn
cứ Yulin như vậy có khả năng thay đổi cán cân lực lượng trên Biển Đông
và là một trở ngại cho sự đi lại của Hải quân Hoa Kỳ (theo nhận xét của
Đô đốc Willard) cũng như của Hải quân các nước chung quanh Biển Đông như
Việt Nam và Phi Luật Tân.
Trung quốc quấy nhiễu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ
Tháng Hai-Ba 2009 chiến hạm Hoa Kỳ USNS Impeccable
đang làm công tác dò đáy biển tại một vùng cách mũi nam đảo Hải Nam 75
hải lý để đo lường khả năng hoạt động của tàu ngầm Trung quốc xuất phát
từ căn cứ Yulin thì ngày 5/3 một chiến hạm nhỏ của Trung quốc chạy chận
đầu không quá 100 mét mà không báo trước bằng vô tuyến. Hai giờ sau một
máy bay quân sự Trung quốc lọai Y-12 bay thật thấp trên chiếc Impeccable, và chiến hạm Trung quốc trở lại chận đầu chiếc Impeccable lần này cách xa khỏang từ 400 đến 500 mét.
Ngày 7/3 một chiến hạm thu thập tin tức tình báo của Hải quân Trung quốc đến sát chiếc Impeccable dùng vô tuyến liên lạc với đài chỉ huy yêu cầu chiếc Impeccable rời vùng hoạt động nếu không “sẽ lãnh hậu quả”. Hôm sau 8/3 Trung quốc cho 5 chiếc tàu bám theo chếc Impeccable (một chiếc thuộc sở kiểm ngư, một chiếc thuộc Viện hải học, một chiến hạm tuần duyên và hai chiếc giả cào (trawler) (2). Hai chiếc trawler tiến sát chiếc Impeccable 15 mét phất cờ Trung quốc bảo Impeccable rời khỏi khu vực tức khắc. Chiếc Impeccable dùng vòi phun nước đuổi tàu Trung quốc. Sau đó chiếc Impecable yêu cầu tàu Trung quốc tránh đường
để rời khu vực an toàn tránh tạo khủng hoảng. Có lúc chiếc Impeccable phải ra lệnh lùi máy để tránh húc vào hai chiếc trawler. Khi Impeccable rời vị trí, ngư phủ các chiếc trawler dùng câu móc định cắt đứt dây kéo máy dò đáy biển (Sonar) của tàu Impeccable.
Ngày
11/6 Hải quân Trung quốc lại gây sự với Hải quân Hoa Kỳ khi cho tầu
ngầm tìm cách cắt máy Sonar của chiếc USS John S. McCain khi chiếc tàu
này đang thao dượt với hải quân Nam Dương và Phi Luật Tân
Hai cuộc đụng chạm này cho thấy với thái độ của Trung quốc Biển Đông có thể là nơi bùng phát những sự cố bất ngờ.
Trung quốc xác định thái độ chủ quyền tại Biển Đông.
Từ năm 2007 Trung quốc đã làm một số hành động đụng chạm chủ quyền của Việt Nam.
Thứ nhất: Trung quốc áp lực các hãng dầu Hoa Kỳ ngưng tiến hành các giao kèo khai thác dầu khí ký với Việt Nam trong vùng “gọi là tranh chấp” trong Biển Đông.
Thứ hai: Trung quốc đơn phương cấm đánh cá trong Biển Đông.
Thứ
ba: Trung quốc phản đối với Liên hiệp quốc khi Việt Nam và Mã Lai Á nộp
hồ sơ xác định “vùng biển nối dài” chung của hai nước. Đồng thời Trung
quốc đòi chủ quyền trên Biển Đông bằng cách đơn phương công bố một bản
đồ gồm 9 đường chấm chấm (họp lại thành hình thù như một cái lưỡi bò)
choán trọn 80% Biển Đông.
Năm
2007 Việt Nam vạch kế hoạch phát triển vùng biển, dự kiến đến năm 2020
vùng này sẽ đóng góp 55% GDP quốc gia và 55-60% hàng hóa, phẩm vật xuất
cảng. Trung quốc âm thầm áp lực các công ty Hoa Kỳ đang tính toán đầu tư
vào vùng biển Việt Nam, trong đó có công ty ExxonMobil, rằng nếu ký
giao kèo với Việt Nam các công ty này sẽ mất quyền lợi làm ăn với Trung
quốc.
Năm
2009 và 2010 Trung quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh cá trên vĩ tuyến 12
từ 15-5 đến 1-8. Trung quốc nói mục đích cấm để cho cá sinh đẻ, để chận
nạn đánh cá lậu và bảo vệ quyền lợi của ngư dân Trung quốc. Thời gian
cấm là mùa đánh cá hằng năm của ngư dân Việt Nam.
Năm
2009 Trung quốc phái 9 chiếc tàu thuộc sở Bảo vệ Ngư nghiệp chạy tuần
tra để thi hành lệnh cấm. Tàu Trung quốc chận bắt, lấy cá và đuổi thuyền
bè ngư dân Việt Nam ra khỏi khu cấm. Có một lần tàu Trung quốc húc chìm
một thuyền đánh cá Việt Nam. Ngày 16/7 Trung quốc bắt giữ 3 thuyền đánh
cá của Việt Nam và 37 ngư dân gần đảo Paracels. Sau khi thả 2 thuyền,
Trung quốc giữ lại thuyền thứ ba với 12 ngư dân đòi 31700 mỹ kim tiền
phạt. Chính quyền tỉnh Quảng Ngãi (nơi xuất phát các thuyền đánh cá bị
bắt) không chịu đóng tiền phạt. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối qua
tòa đại sứ Trung quốc tại Hà Nội.
Lợi
dụng hai bộ Thương Mãi Việt Nam và Trung quốc có chung một Trang Nhà,
Trung quốc cho đăng một bản tin phản đối chính quyền Việt Nam (TBN: làm
như Việt Nam tự chữi mình!). Khi nhận ra việc dối trá này của Trung
quốc, Bộ Thương Mãi Việt Nam cho đóng trang nhà chung.
Chưa
hết, tháng 8 khi hai thuyền đánh cá và 25 ngư dân Việt Nam chạy vào
tránh bảo tại Paracels, Trung quốc giam thuyền và giam giữ các ngư dân.
Lần này Việt Nam phản ứng mạnh mẽ đòi hủy bỏ các phiên họp chung để thảo
luận về các vấn đề khai thác ngoài biển đã lên lịch. Trung quốc thả các
ngư dân.
Tháng
4/2010 Trung quốc lại ban hành lệnh cấm như năm trước và hai chiếc tàu
Yuzheng 311 và tàu tuần duyên 202 của Hải quân Trung quốc đã được phái
đến bênh vực cho ngư dân Trung quốc nói là bị lực lượng Hải quân Việt
Nam xách nhiễu. Các thuyền đánh cá Việt Nam dùng chiến thuật bao vây gây
trở ngại vận chuyển cho tàu Yuzheng 311. Khi Trung quốc gởi thêm chiến
hạm tới, các thuyền đánh cá Việt Nam rút đi.
Ủy
ban Liên hiệp quốc về Thềm Lục Địa nối dài (Commission on the Limits of
the Continental Shell –CLCS) đã định ngày 13/5/2009 là ngày cuối cùng
để các quốc gia ven biển trên thế giới nộp bản khai Thềm Lục Địa Nối Dài
theo một điều khoản của Luật Biển (UN Convention of Law of the Sea –
UNCLOS). Ngày 6/5 Việt Nam và Mã Lai nộp một bản khai cho vùng chung
phía Nam, và ngày 7/5 Việt Nam nộp một bản riêng trong vùng phiá Bắc (3).Trung
quốc lập tức gởi một văn thư phản kháng đến Liên hiệp quốc (nhưng không
nộp bản khai của mình theo tinh thần Luật Biển). Việt Nam gởi văn thư
phản đối văn thư của Trung quốc.
Ngay
sau đó Trung quốc (như đã nói ở trên) cho công bố một bản đồ gồm 9
đường chấm chấm mơ hồ họp thành một hình chữ U bao trọn Biển Đông nói là
vùng biển chủ quyền. Trong 3 bản tuyên bố trước đây (9/1958 về lãnh
hải, 1992 về lãnh hải và vùng lân cận, 1996 về đường chuẩn cho lãnh hải)
và một bộ luật ban hành năm 1998 về thềm lục địa Trung quốc chưa bao
giờ có một đòi hỏi có tính tự tác tự thọ như vậy.
Những
hành động của Trung quốc làm Hoa Kỳ quan tâm và thấy cần điều chỉnh
thái độ để bảo vệ quyền thương mãi và uy tín của mình. Thái độ của Hoa
Kỳ trước đây là không can thiệp vào việc tranh chấp biển đảo giữa các
nước trong vùng, và chỉ đặt quan tâm chính vào việc an toàn và tự do lưu
thông trên biển.
Những
tháng đầu của chính quyền Obama, Trung quốc và Phi Luật Tân bất hòa khi
Phi vạch đường căn bản qua các hải đảo Trung quốc gởi chiến hạm tới có ý
đe dọa, tổng thống Obama đã ủng hộ Phi bằng cách điện thoại cho bà tổng
thống Phi Gloria Macapagal Arroyo xác định rằng Hoa Kỳ vẫn tôn trọng
thỏa ước về tàu bè thăm viếng (Visiting Forces Agreement) giữa Hoa Kỳ và
Phi.
Tháng
7/2009 Hoa Kỳ xác định quan điểm tại Biển Đông trước quốc hội. Chính
phủ gởi hai ông Scot Marciel (Phụ tá bộ trưởng ngoại giao) và Robert
Scher (Phụ tá bộ trưởng quốc phòng) đến điều trần trước Tiểu ban Đông Á
và Thái Bình Dương. Ông Marciel tuyên bố một cách dứt khoát rằng những
tuyên bố về biển của Trung quốc tại Biển Đông không có một cơ sở quốc tế
nào cả.
Ông Marciel nói với quốc hội rằng Hoa Kỳ có “lợi ích thiết yếu”
(vital interest) khi duy trì sự ổn định, tự do lưu thông và bảo vệ
quyền buôn bán của mình tại Đông Á. Ông Marciel sau khi tóm tắt cho quốc
hội biết việc Trung quốc de dọa các công ty dầu khí của Hoa Kỳ định làm
ăn với Việt Nam đã khẳng định: “Chúng ta cương quyết chống lại mọi de
dọa các công ty Hoa Kỳ.”
Về
việc tàu Trung quốc quấy nhiễu hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ ngoài khơi
đảo Hải Nam ông Scher xác định thái độ 4 điểm của Hoa Kỳ:
1.Bằng lời và bằng hành động Hoa Kỳ duy trì sự hiện diện trong vùng.
2.Hải quân Hoa Kỳ quả quyết duy trì quyền lưu thông trên biển.
3.Quan hệ an ninh với các nước trong vùng qua các cuộc nói chuyện về chính sách và chiến lược và hợp tác bảo đảm an toàn trên biển.
4. Tăng cường quan hệ ngoại giao – quân sự với Trung quốc để tránh đụng chạm do sự hiểu lầm.
Khi
quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc căng thẳng Việt Nam trở nên gần gũi
với Hoa Kỳ hơn. Tháng 6/2008 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viếng thăm Hoa
Kỳ và hội kiến với tổng thống Bush. Thủ tướng Dũng là vị thủ tướng Việt
Nam đầu tiên đến viếng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ sau năm 1975. Trong một
thông cáo chung sau chuyến viếng thăm hai bên đồng ý duy trì các cuộc
gặp gỡ cao cấp về an ninh và chiến lược. Ngoài ra tổng thống Bush còn
tuyên bố Hoa Kỳ ủng hộ “chủ quyền, an ninh và sự tòan vẹn lãnh thổ của Việt Nam” (nguyên văn: the US supports “Vietnam’s national sovereignty, security and territorial integrity”.
Lời
tuyên bố của tổng thống Bush không nói đến Biển Đông. Tuy nhiên người
ta hiểu rằng đấy là một cách nói tiếp theo lời tuyên bố của Bộ trưởng
Quốc phòng Robert Gates trước đó vào đầu năm tại Singapore rằng: “Trong
chuyến đi Á châu, tôi nghe nhiều quốc gia nói vê` tình trạng an ninh
trong vùng do nhu cầu tài nguyên thiên nhiên và than phiền những chính
sách ngoại giao có tính áp lực làm cho tình hình trong vùng trở nên phức
tạp … Chúng ta nên tránh thái độ có tính áp lực mặc dù được che dấu
dưới lớp vỏ hợp tác”. (TBN: Ai cũng biết bộ trưởng Robert Gates nói tới Biển Đông và thái độ đại hán của Trung quốc)
Các
lời tuyên bố của Bộ trưởng Gates, của tổng thống Bush và của ông phụ tá
ngoại giao Marciel là những lời nhắn nhủ Trung quốc rằng họ không nên
đe dọa các công ty Hoa Kỳ định làm ăn với Việt Nam trên Biển Đông.
Quan
hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cũng được cải thiện hơn từ năm
2008. Tháng 10/2008 bộ Ngoại giao Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu nói chuyện
cấp cao về chính trị - quân sự. Tháng 4/2009 một số sĩ quan cao cấp Việt
Nam được máy bay Hoa Kỳ chở đến mẫu hạm USS John Stennis để quan
sát lực lượng Hải Không Quân thao dượt. Tháng 8/2009 và tháng 3/2010 cơ
sở sửa tàu của Việt Nam sửa chữa các tàu hải quân Hoa Kỳ thuộc lực
lượng vận tải đường biển (US Navy Military Sealift Command). Cuối năm
2009 bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh viếng thăm Hoa Thịnh Đốn và
gặp bộ trưởng Gates tại Bộ quốc phòng. Trên đường đi tướng Thanh ghé
Hawai thăm Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Thái bình Dương. Theo chương
trình, trong những tháng cuối năm 2010 này các giới chức quân sự cao
cấp Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ gặp nhau. Tờ Quadrennial Defence Review năm 2010 viết rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam và Indonesia là hai đối tác chiến lược quan trọng.
Những trở lực trong mối quan hệ Hoa Kỳ-Trung quốc
Sau khi nhậm chức chính quyền Obama mở đầu quan hệ với Trung quốc qua cuộc họp song phương bàn về Chiến lược và Kinh tế
(Strategic and Economic Dialogue - SED) trong tháng 7/2009 tại Hoa
Thịnh Đốn. Buổi họp sau đó tổ chức tại Bắc Kinh tháng 5/2010.
Tháng
8/2009 bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates tiếp tướng Xu Caihou,
Phó chủ tịch Quân ủy trung ương của quân đội Trung quốc tại Pentagone.
Tướng Xu Caihou còn gặp Cố vấn an ninh quốc gia James Jones, Tham mưu
trưởng Liên quân Đô đốc Michael Mullen, thứ trưởng ngoại giao James
Steinberg và thăm xã giao tổng thống Obama.
Ông Gates và tướng Xu đồng ý một chương trình 7 điểm:
1. Thăm viếng cấp cao.
2. Hợp tác nhân đạo và giúp đỡ nhau khi có thiên tai.
3. Trao đổi hiểu biết y học quân sự.
4. Trao đổi để hiểu nhau hơn giữa các sĩ quan cấp Tá và cấp Úy
5. Trao đổi văn hóa và thể thao giữa hai quân đội.
6. Tăng cường các cuộc thăm viếng ngoại giao.
7. Trao đổi hiểu biết về cách thức tăng cường an toàn trên biển.
Tuy nhiên tướng Xu nêu ra 4 trở lực chính trong mối quan hệ Mỹ Trung gồm:
1. Quan
hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Đài Loan. Nếu Hoa Kỳ khắng khít quân sự với
Đài Loan thì quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Trung quốc khó được cải
thiện.
2. Tàu
bè và máy bay của Hoa Kỳ không nên vào khu đặc quyền kinh tế của Trung
quốc. Hoa Kỳ nên tôn trọng Luật Biển và các luật về biển của Trung quốc
3. Một số luật của Hoa Kỳ làm trở ngại quan hệ Hoa Kỳ-Trung quốc như Luật “Defense Authorization Act” thông qua năm 1999
4. Hoa Kỳ còn nghi ngờ thiện chí chiến lược của Trung quốc.
Tháng Ba/2010 Trung quốc nói với hai viên chức Hoa Kỳ thăm viếng Trung quốc rằng Trung quốc xem Biển Đông là vùng có “quyền lợi thiết yếu”
(core interest) của Trung quốc. Đây là lần đầu tiên Trung quốc đưa Biển
Đông lên hàng “quyền lợi thiết yếu” như Đài Loan và Tây Tạng với ý
nghĩa nếu bị xâm phạm Trung quốc sẽ dùng vũ lực để bảo vệ.
Có nhiều lý do giải thích tại sao gần đây Trung quốc khẳng định lập trường đòi chủ quyền của mình trên Biển Đông.
Thứ nhất,
Trung quốc muốn áp lực Việt Nam cùng với Trung quốc khai thác dầu khí
chung trong vùng biển ngoài khơi trên nguyên tắc thuộc Việt Nam. Nếu quả
thật vậy thì Trung quốc khó đạt được ý đồ của mình vì Việt Nam không dễ
gi để Trung quốc hưởng lợi những gì nằm trong (hay sát với) vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
của mình. Trước đây Trung quốc áp lực các công ty nước ngòai không ký
giao kèo khai thác dầu khí với Việt Nam cũng trong mục đích này (và tạm
thời thành công). Hai công ty BP của Anh và ExxonMobil của Mỹ đã tạm
ngưng khai thác theo giao kèo, nhưng gần đây cho biết sẽ tiếp tục tiến
hành giao kèo đã ký. Hoa Kỳ đã cho Trung quốc biết Hoa Kỳ không chấp
nhận ai làm áp lực
với các công ty Hoa Kỳ làm ăn hợp luật lệ quốc tế .
Thứ hai,
Trung quốc muốn cho Việt Nam thấy sự bất mãn khi biết Việt Nam hình như
đang chuẩn bị mang việc xích lại với Hoa Kỳ ra bàn thảo trong đại hội
11 của đảng vào năm 2011. Từ năm 1995 sau khi thiết lập bang giao với
Hoa Kỳ Việt Nam vẫn rất dè dặt trong quan hệ với Hoa Kỳ vì ngại làm mất
lòng Trung quốc. Nhưng từ năm 2003 về sau áp lực trên Biển Đông của
Trung quốc càng mạnh thì Việt Nam càng bớt dè dặt khi xích lại với Hoa
Kỳ.
Cuối
năm 2007 khi Trung quốc thành lập quận huyện bao gồm cả Trường Sa, sinh
viên Việt Nam tại Sài gòn và Hà Nội đã biểu tình phản đối và Trung quốc
đã mạnh mẽ áp lực Việt Nam ngăn cấm các cuộc biểu tình. Qua năm 2008 sự
chống đối của nhân dân trong nước trước ý đồ lấn chiếm của Trung quốc
lên cao và cao điểm là năm 2009 khi tướng Võ Nguyên Giáp lên tiếng cho
rằng vụ Trung quốc khai thác mỏ Bauxite ở cao nguyên Việt Nam là có hại
cho an ninh quốc gia. Đảng cộng sản Việt Nam nhận ra rằng khuynh hướng
chống Trung quốc trong nước là một đe đọa cho sự lãnh đạo của đảng cộng
sản nếu họ không có chương trình đáp ứng.
Những
nhà quan sát tình hình Việt Nam đồng ý rằng nội bộ lãnh đạo Việt Nam có
hai khuynh hướng. Một muốn mở rộng quan hệ quốc tế để hội nhập rộng
rãi. Một muốn thắt chặt quan hệ với Trung quốc. Và Trung quốc tỏ thái độ
cứng rắn trên Biển Đông để cảnh cáo Việt Nam rằng theo họ thì có lợi
hơn là chống họ. Nhưng hình như trước tình cảm chống Trung quốc của nhân
dân nhóm thứ hai chủ trương thân Trung quốc cũng phải đồng ý cần tìm
một con đường quốc phòng khác hơn là dựa vào Trung quốc.
Thứ ba,
chính sách Biển Đông của Trung quốc có thể do nhu cầu năng lượng. Làm
chủ được Biển Đông có nghĩa là làm chủ một kho dầu khổng lồ và bảo đảm
một đường lưu thông quan trọng trên biển. Trung quốc đã cải tiến thiết
bị Hải quân và thiết lập căn cứ ở Yulin trong mục đích này.
Năm 2002 khối Asean và Trung quốc ký bản “Tuyên bố về Cách ứng xử trên Biển Đông” (Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea) đồng ý “tự chế và thận trọng trong các hoạt động để tránh gây ra tranh chấp”
(self restraint in the conduct of activities that would complicate or
escalate disputes). Tuy nhiên tình hình an ninh trên Biển Đông càng căng
thẳng và trở nên cấp bách trong ba năm qua. Sự đụng chạm giữa Hải quân
Trung quốc và Hải quân Hoa Kỳ tại phía Nam đảo Hải nam cho thấy Biển
Đông có thể là nơi “tóe ra lửa” nếu các bên liên hệ thiếu thận trọng.
Để kết thúc bản Tài liệu về tranh chấp Biển Đông, giáo sư Thayer đề nghị một giải pháp 7 điểm để giảm căng thẳng trên Biển Đông:
- Trung
quốc cần thảo luận với các nước trong vùng về quyền đánh cá và chấm dứt
việc đơn phương cấm đánh cá vùng này vùng khác hằng năm một cách tùy
tiện.
- Cần chi tiết hóa việc thi hành bản “Tuyên bố về Cách ứng xử trên Biển Đông” ký năm 2002.
- Trung quốc và Hoa Kỳ cần có một bản văn Thỏa Thuận về đụng chạm trên biển (Incidents At Sea Agreement) để tránh đụng chạm trên biển ngoài ý muốn.
- Các nước có vũ khí nguyên tử, nhất là các nước trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc cần tham gia vào “Hiệp Định Xác lập vùng Phi nguyên tử Đông Nam Á”
(Southeast Asia Nuclear Free Weapons Zone Treaty). Trung quốc hứa sẽ
tham gia (nhưng chưa ký). Hiệp hội Asean cần xác định vùng nam đảo Hải
Nam có nằm trong vùng địa lý áp dụng của Hiệp Định này không ?
- Các
nước trong vùng chung quanh Biển Đông cần thảo luận ở cấp cao cách thi
hành Luật Biển để tránh sự tranh chấp về nội dung các bản khai nộp Liên
hiệp quốc liên quan đến thềm lục địa nối dài và xác định rõ ràng Hải quân các nước có quyên hoạt động gì trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác.
- Hội nghị các bộ trưởng quốc phòng khối Asean + tại Hà Nội sắp đến cần tạo sự tin cậy và đề ra các biện pháp đề phòng tại Biển Đông.
- Các
nước trong vùng cần thảo luận để thành lập một cơ chế gặp nhau thường
xuyên giữa các lãnh tụ quốc gia để thảo luận những vấn đề còn cấn cái
giữa các nước liên quan đến an ninh trong vùng./.
EU muốn hòa giải tranh chấp Biển Đông
Liên
minh châu Âu cho biết sẵn sàng trở thành nhân tố "cân bằng" hữu ích
trong diễn biến ở Biển Đông, có thể đóng một vai trò hòa giải tranh chấp
lãnh thổ.
Đề
cập về quan hệ EU - Đông Nam Á tại cuộc họp ở trụ sở EU mới đây, phó
phụ trách ban Đông Nam Á thuộc cơ quan đối ngoại châu Âu Philippe van
Amersfoort nói, EU hoan nghênh bất kỳ đề
nghị nào từ ASEAN để giúp giải quyết tranh chấp.
“Trong diễn biến tình hình chiến lược này, EU có thể là nhân tố cân bằng hữu ích", ông Van Amersfoort nói. "EU sẵn sàng đóng một vai trò hòa giải. Đó là một thách thức ở phía EU. Chúng tôi thực sự hy vọng không còn sự leo thang nữa".
|
Ảnh: Middlebury |
Ông nói hội nghị thượng đỉnh Đông Á vừa qua tại Bali
đã chứng kiến rất nhiều tư duy chiến lược của ASEAN trước quyết định
của Trung Quốc, Mỹ để tham gia nhiều hơn trong khu vực, cảm giác lo lắng
của một số nước thành viên ASEAN và vai trò mà Trung Quốc đang
mang trên vũ đài thế giới.
Ông Van Amersfoort nhấn mạnh, EU tin tưởng rằng, tranh chấp lãnh thổ nên được giải quyết theo quy định của luật pháp quốc tế thông qua những giải pháp hòa bình và hợp tác.
Giám đốc trung tâm EU - châu Á Fraser Cameron đã nói trong một diễn đàn tại Manila
rằng, EU ủng hộ một hệ thống dựa trên luật lệ quốc tế và tự do hàng
hải. Với các nguy cơ căng thẳng tác động đến thương mại và đầu tư cũng
như tầm quan trọng
ngày một lớn của an ninh năng lượng, EU khuyến khích tất cả các bên làm
rõ những căn cứ cho tuyên bố chủ quyền của mình.
Theo EU, Biển Đông là một môi trường nhạy cảm, là lộ trình hàng hải lớn nhất sau Địa Trung Hải
và là hành lang quan trọng cho thương mại EU đến và đi từ khu vực Đông Á
- nơi chiếm 25% vận chuyển hàng hóa hàng hải thế giới. Đây cũng là vùng
quân
sự nhạy cảm vì sự hiện diện hải quân Mỹ và Trung Quốc cũng đang mở rộng
các khả năng quân sự trong một khu vực. Biển Đông - nơi được cho là
giàu tài nguyên dầu khí cũng là nơi diễn ra tuyên bố chủ quyền chồng lấn
giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á.
Kinh nghiệm EU
EU nhấn mạnh rằng, các nhân tố địa chính trị đang gia tăng với sự tham gia của hai cường quốc hạt nhân, Trung Quốc và Mỹ. “EU không liên quan trực tiếp
nhưng quan tâm tới vấn đề để thúc đẩy giải pháp hòa bình", Cameron nói.
Tuyên
bố về quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) được ký kết tháng
11/2002, kêu gọi các bên tham vấn và áp dụng biện pháp hòa bình giải
quyết tranh chấp trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. DOC cũng
kêu gọi hợp tác trong vấn đề bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, tìm
kiếm và cứu hộ, chống tội phạm xuyên quốc gia.
Các
vụ đụng độ xảy ra trong năm 2010 và 2011 thường dính líu tới Trung Quốc
đã dẫn tới việc ngày 21/7 tại diễn đàn khu vực ASEAN và Trung Quốc đã
nhất trí về các hướng dẫn thực thi DOC. Các nước ASEAN hoan nghênh thỏa
thuận này, dù một số nước cho rằng vẫn chưa đủ.
Trích
dẫn các vấn đề hiện tại, ông Cameron cho rằng, còn những điều chưa chắc
chắn về chủ quyền các đảo và tuyên bố chủ quyền chồng lấn ở vùng biển
xung quanh.
Biển
Đông là nguồn cung cấp protein quan trọng cho 300 triệu người trong khu
vực nhưng việc đánh bắt cá thường xuyên không có sự kiểm soát và ngư
dân ở tất cả các nước ven biển thường nỗ lực khai thác tài nguyên hàng
hải mà không có sự hạn chế nào. Việc khai thác tài nguyên quá mức và
cách thức đánh bắt (như dùng thuốc nổ) rất nguy hiểm với
môi trường. Không hề có công cụ đa phương để bảo vệ hệ sinh thái rất
nhạy cảm của Biển Đông. Giao thông hàng hải trong vùng biển nhộn nhịp
hàng đầu thế giới và tiếp tục phát triển nhanh chóng.
Dù ở cách xa châu Âu, nhưng EU đang có mối quan tâm lớn với khu vực.“EU có kinh nghiệm giàu có trong chia sẻ chủ quyền, giải quyết các vấn đề khó khăn
(chính sách đánh bắt chung, môi trường) có thể hữu ích cho các quốc gia liên quan", ông Cameron nhấn mạnh.
Ví
dụ như năm 1970, về nguyên tắc, có sự nhất trí rằng ngư dân EU cần có
quyền tiếp cận bình đẳng vùng biển của các nước thành viên. Sau đó, các
nước thành viên cũng quyết định rằng, EU là nơi tốt nhất để quản lý ngư
nghiệp ở các vùng biển thuộc thẩm quyền của họ và bảo vệ các lợi ích của
họ trong các cuộc đàm phán quốc tế.
Theo
ông Cameron, mô hình EU có thể không thích hợp với châu Á nhưng khu vực
này có thể chọn lựa một số khía cạnh. Kinh nghiệm của EU có thể liên
quan tới Biển Đông bao gồm việc thành lập một chính sách ngư nghiệp
chung, đưa ra hạn ngạch với các nước thành viên và trao đổi kinh nghiệp
trong bảo vệ hàng hải, đàm phán cho các chuẩn mực cao hơn về
môi trường với các nước ven biển và giải quyết tranh chấp.
EU
sẵn sàng là bên thứ ba hữu ích để hỗ trợ kỹ thuật nhưng "cuối cùng để
các nước liên quan giải quyết tranh chấp". Ông Cameron nhấn mạnh:“Giải pháp
duy nhất khả thi trong thời gian dài là gạt sang bên tranh chấp và cùng phát triển".
Thái An (theo philstar)
Thủ tướng Việt Nam tuyên bố Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa
VIỆT NAM - TRUNG QUỐC - BIỂN ĐÔNG -
Bài đăng : Chủ nhật 27 Tháng Mười Một 2011 - Sửa đổi lần cuối Chủ nhật 27 Tháng Mười Một 2011
Lần đầu tiên, lãnh đạo Việt Nam công khai xác định : Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa
Thứ Sáu 25/11/2011 vừa qua, trong phần trả lời câu hỏi của các đại
biểu Quốc hội về vấn đề Biển Đông, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã
khẳng định trở lại chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Trái với các công thức xáo mòn thường thấy
khi đề cập đến hồ sơ Biển Đông, thủ tướng Việt Nam đã không ngần ngại
xác định là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc dùng võ lực
đánh chiếm.
Nội dung các phát biểu của ông Nguyễn Tấn
Dũng thực ra không có gì là mới lạ. Tất cả những chi tiết được ông nêu
lên đều đã xuất hiện trên báo chí Việt Nam, trong các công trình nghiên
cứu về Biển Đông… Tuy nhiên, điều đã khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ
chính là việc thủ tướng Việt Nam nêu đích danh Trung Quốc là thủ phạm
cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ tay chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa vào năm 1974.
Tính chất công khai của lời phát biểu cũng
được giới phân tích ghi nhận vì các tuyên bố này vừa được trực tiếp
truyền hình, vừa được công bố trên báo điện tử của chính phủ, vừa được
báo chí Việt Nam loan tải nguyên văn một cách rộng rãi. Câu hỏi mà nhiều
người đặt ra là ý nghĩa của sự kiện này là gì ?
Trả lời phỏng vấn nhanh của RFI qua thư điện
tử, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông thuộc Học viện
Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales), đã ghi nhận tính chất khác
thường của sự kiện kể trên khi cho rằng « với việc thủ tướng Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng khẳng định trở lại chủ quyền Việt Nam đối với quần
đảo Hoàng Sa, đây là lần đầu tiên một lãnh đạo chính phủ Việt Nam công
khai thừa nhận rằng quần đảo này đã bị Trung Quốc đánh chiếm bằng vũ lực
vào năm 1974 ».
Đối với giáo sư Thayer, sở dĩ người đứng
đầu chính phủ Việt Nam phải công khai lên tiếng trên vấn đề này, đó là
vì ông cần phải giải tỏa tâm lý bất bình của công luận Việt Nam đang
nghi ngờ là chính quyền quá quỵ lụy Trung Quốc : « Thủ tướng Dũng đã
trả lời một loạt các câu hỏi về chủ quyền quốc gia của các đại biểu
Quốc hội, vốn đã phản ánh tâm trạng lo ngại rộng khắp của giới trí thức
và công chúng về các hành động quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông,
với hàm ý muốn xem chính quyền đã làm hết sức mình để bảo vệ chủ quyền
quốc gia hay chưa ».
Tuy nhiên, theo giáo sư Thayer, dù lên
tiếng chỉ trích Trung Quốc đã dùng võ lực để đánh chiếm Hoàng Sa, nhưng
thủ tướng Việt Nam vẫn kêu gọi hai bên đàm phán hòa bình để giải quyết
vấn đề Hoàng Sa, một yêu cầu từ trước đến nay vẫn bị Bắc Kinh bác bỏ.
« Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thận
trọng nhấn mạnh rằng Việt Nam mong muốn giải quyết vấn đề một cách hòa
bình và kêu gọi Trung Quốc mở đàm phán. Đây là một yêu cầu đã nhiều lần
bị Bắc Kinh từ chối ».
Cho dù thủ tướng Việt Nam đã rất thận
trọng trong phát biểu của mình, nhưng khi ông công khai hóa vấn đề tranh
chấp, phía Trung Quốc có thể sẽ có phản ứng. Giáo sư Thayer kết luận : «Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng như đang đi dây. Ông không nói gì khác hơn là
những điều đã được các nhà đàm phán Việt Nam kín đáo nêu lên. Thế nhưng,
khi nói chuyện trực tiếp với khán giả truyền hình, ông có thể gây ra
một phản ứng từ phía Trung Quốc ».
Dẫu sao thì phát biểu công khai của thủ
tướng Việt Nam cũng bắn đi một tín hiệu đến phía Bắc Kinh, cho đến nay
vẫn luôn luôn từ chối đàm phán với Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa mà
Trung Quốc coi như là của mình, bất chấp thực tế là vùng này đã bị họ
dùng võ lực đánh chiếm.
Thái Bình Dương sôi động
Quỳnh Chi, phóng viên RFA
2011-11-18
Hoa Kỳ vừa được sự đồng ý của Úc triển khai thêm 2500 thủy quân lục
chiến tại Darwin. Hoạt động này không nằm ngoài kế hoạch trở lại Châu Á
của Hoa Kỳ.
RFA graphic-map Australia Gov.
Vị trí căn cứ Darwin ở Australia
Liệu việc này có gây thêm căng
thẳng trong khu vực? Và việc này tác động như thế nào đối với Việt Nam?
Sau đây là cuộc trao đổi giữa Quỳnh Chi và giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng,
hiện công tác tại khoa Quan hệ Quốc tế trường đại học George Mason, Hoa
Kỳ.
Thế kỷ Thái Bình Dương
Quỳnh Chi: Thưa ông, Hoa Kỳ
hiện đang chuyển trọng tâm của mình vào Châu Á, ông có nhận xét chung
nào về tình hình của khu vực này hiện tại và thời gian gần đây không ạ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng:
Thời gian gần đây thì chúng ta thấy có một loạt những diễn văn quan
trọng của các nhà lãnh đạo Mỹ, người ta nói là Hoa Kỳ chuyển trọng tâm
vào Châu Á. Ông Obama dùng chữ “quay lại”, “trở về” Á Châu. Trước hết,
chúng ta thấy bà Clinton có bài “America's Pacific Century”. Để trả lời
những người nói là Hoa Kỳ sẽ không còn ảnh hưởng nữa, và ảnh hưởng của
Trung Quốc lên cao, ảnh hưởng của Hoa Kỳ đi xuống, thì bà nói là “Không.
Chúng tôi xem cái thế kỷ mới này, trong cái Thái Bình Dương chúng tôi
đóng vai trò rất quan trọng”.
Đến khi ông Bộ trưởng Quốc phòng
Leon Panetta đi thăm Á Châu, khi sang Nhật người ta hỏi có giữ quân Mỹ ở
đây không thì ông nói Hoa Kỳ coi cái vùng này rất quan trọng. Ông
Panetta cũng coi là rất quan trọng vấn đề an ninh hàng hải, và ông nói
quân đội Mỹ vẫn đóng ở đây. Rồi cái bài diễn văn mới nhất của ông Obama,
một loạt diễn văn từ Hawaii sang đến bên Úc
Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama duyệt hàng quân danh dự khi đến Úc. 16/11/2011. AFP
Châu
thì cũng nói rằng ông quyết định dù cho Quốc Hội cắt giảm ngân sách thì
vấn đề đó cũng không ảnh hưởng gì đến sự tăng cường hiện diện quân sự
của Hoa Kỳ ở vùng Châu Á.
Vậy thì trong vài tháng nay chúng ta
đã thấy rõ là cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất bên ngoại giao, quốc
phòng và tổng thống đều nói đến sự trở lại của Hoa Kỳ ở Á Châu và cam
kết là sẽ có mặt ở đây như là một cường quốc Thái Bình Dương. Thì đó là
một chuyển biến rất là quan trọng.
dù cho Quốc Hội cắt giảm ngân sách thì vấn đề đó cũng không
ảnh hưởng gì đến sự tăng cường hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở vùng Châu
Á.
Tổng thống Obama
Quỳnh Chi: Dạ
vâng, như vậy là không còn nghi ngờ gì nữa, trong những năm đến thì
vùng Châu Á-Thái Bình Dương sẽ là vùng trọng tâm của thế giới, nhưng mà
không biết là trong quá khứ thì khu vực này đã từng trở thành cái trọng
tâm của quốc tế chưa ạ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Trước kia
thì vùng đó là trọng tâm quốc tế của sự tranh chấp, thứ nhất là xoay
quanh cuộc chiến tranh Việt Nam. Lần này thì khác hắn. Lần này nếu so
với thập niên 1960, ở thế kỷ 21 này, trước kia vào thời 1990 thì người
ta đã nói đến “kỷ nguyên Á Châu” khi đề cập tới Châu Á, sau đó đến năm
1997 thì cuộc khủng hoảng tài chánh nó đẩy mạnh các quốc gia trong vùng
xuống vực thẳm của cuộc khủng hoảng
kinh tế-tài chính thì người ta không còn nói đến cái “thế kỷ Thái Bình
Dương” nữa.
Nhưng gần đây chúng ta thấy bởi vì sự tăng mạnh của
Trung Quốc, so với Châu Âu một cách tương đối thì có rất nhiều vấn đề,
nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008 người ta thấy Á Châu vẫn
giữ được một mức độ tăng trưởng nào đó thì người ta cho rằng đây là cái
trung tâm phát triển của thế giới. Và như vậy đối với nước Mỹ thì họ
nghĩ rằng nếu quay về Á Châu thì phải đạt được 2 mục tiêu, thứ nhất là
mục tiêu kinh tế và thứ hai là mục tiêu chính trị và quân sự.
Trans-Pacific Partnership
Về kinh tế bên Âu Châu có nhiều vấn đề lắm và còn lâu lắm mới giải quyết được, thì như vậy nước Mỹ muốn quay lại Á Châu
Tàu sân bay Mỹ USS George
Washington dẫn đầu một đoàn tuần dương hạm tên lửa trong cuộc tập trận
quân sự ở Thái Bình Dương tháng 12, 2010. AFP
để buôn bán mà
họ gọi tách mình ra khỏi những ảnh hưởng có thể gọi là tai hại ở Âu
Châu, mà Á Châu là một trung tâm phát triển thì Mỹ có thể phát triển nhờ
xuất cảng sang Á Châu.
Vì thế cho nên một biện pháp của
chính quyền Obama là cái Trans-Pacific Partnership (TPP). Thế thì cái
TPP này họ nghĩ ra là phải có luật chơi rõ ràng và được áp dụng là phải
thi hành chứ không phải cái kiểu WTO mà mình có thể bỏ được. Vì thế cho
nên Mỹ bảo là đối với Trung Quốc chúng tôi không loại ông ra nhưng nếu
ông vào thì chúng tôi cũng chơi với ông nhưng phải có
luật lệ đàng hoàng.
Cái TPP này đã được thương thảo mấy năm nay
rồi nhưng vẫn còn trong bản thảo thôi, nhưng bây giờ chúng ta thấy là
có một số quốc gia khác cũng bắt đầu quan tâm tới cái TPP này, nhất là
cái vụ ông Obama đi dự hội nghị APEC ở Hawaii thì chúng ta thấy có
Canada, Mexico cũng đều nói là quan tâm đến vấn đề đó, tức là nói tóm
lại là bằng lòng cái TPP này và bắt đầu thảo luận.
Thế thì chúng
ta thấy như vậy nước Mỹ, Canada, Mexico là 3 nước thuộc khối NAFTA
(North American Free Trade Agreement – Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ)
cùng tham gia vào TTP thì có 2 điểm xảy ra.
Thứ nhất là cái thế
của TPP sẽ tăng lên vì các quốc gia Bắc Mỹ sẽ ảnh hưởng nhiều hơn, và
thứ hai là bằng cả một cái khối gọi là khối mậu
dịch tự do đó sang bên này thì rất là lớn, thì nếu việc đó mà thành thì
đó là một khối khá lớn để cạnh tranh với những khối khác.
Nói
về APEC thì khối này hãy còn lỏng lẻo lắm, một là về phương diện tài
chánh, còn về phương diện chính trị và quân sự thì việc lập căn cứ Mỹ ở
Darwin (Úc Châu) sẽ là căn cứ Mỹ đầu tiên kể từ khi chiến tranh Việt Nam
chấm dứt.
Video: Thời sự thế giới trong tuần
Nhắc
lại là kể từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt thì có một loạt căn cứ
Mỹ bị giải thể như ở bên Phi Luật Tân, ngay cả căn cứ không quân
Utapao ở Thái Lan (thực ra căn cứ này là căn cứ không quân của Thái Lan
được Mỹ sử dụng như một phương tiện để dội bom trong khu vực Indochina -
Đông Dương), thế thì Mỹ đã có những căn cứ đó nhưng mà sau chiến tranh
Việt Nam thì Mỹ rút hết.
Cho nên bây giờ thì đây là lần đầu tiên
chúng ta thấy có một căn cứ mới của Mỹ ở gần Đông Nam Á hơn, còn các
căn cứ kia thì ở Bắc Á (Nhật Bản và Nam Hàn), thì bây giờ ở gần Đông Nam
Á hơn.
Gần đây Bắc Kinh có thái độ hung hăng quá, thành ra Úc bây
giờ phải quyết định rõ rệt, và Úc bây giờ phải chọn rồi là phải đứng vào
liên minh của Mỹ.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Và điều
quan trọng mà tôi nghĩ là chính sách ngoại giao của Úc từ xưa vẫn cứ
“chơi nước đôi”, như từ khi Mỹ rút đi thì Úc muốn tự mình là một phần
của Châu Á. Thế nhưng chúng ta thấy trong những năm gần đây thì Trung
Quốc mạnh quá và Bắc Kinh có thái độ hung hăng quá, thành ra Úc bây giờ
phải quyết định rõ rệt, và Úc bây giờ phải chọn rồi là phải đứng vào
liên minh của Mỹ.
Vai trò của Mỹ tại Á Châu
Quỳnh Chi: Ông vừa mới
nhắc đến việc Úc đã đồng ý cho Hoa Kỳ triển khai khoảng 2500 quân ở Úc
và đang có dư luận cho rằng việc này có thể tạo nên căng thẳng trong khu
vực. Ông có ý kiến gì về bình luận này không ạ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng:
Cái việc tăng lên 2500 quân thì cũng còn lâu mới giải quyết. Sang năm
tới thì cũng mới chỉ có 250 quân thôi, tức là nó có tính cách biểu tượng
thôi, chứ chưa đến giai đoạn 2500 quân như người ta nghĩ. Nhưng mà 2500
quân thì cũng còn quá nhỏ so với căn cứ Utapao ngày xưa, thành ra như
vậy tôi không nghĩ nó là chỉ dấu để cho Mỹ nói là “Chúng tôi có căn cứ
và chúng tôi có sự hiện diện ở vùng Đông Nam Á này”.
Thế còn vấn đề đặt ra Mỹ vấn nói
là “Chúng tôi
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, hiện công tác tại khoa Quan hệ Quốc tế trường đại học George Mason, Hoa Kỳ. RFA
không
có ý định gì vây Trung Quốc cả”. Về phần Trung Quốc, dĩ nhiên là họ
phải phản ứng. Thế nhưng đại đa số các quốc gia ở Châu Á, theo tôi nghĩ,
họ ủng hộ sự hiện diện của Mỹ.
Cho nên, nó tùy thuộc vào thái
độ của Trung Quốc. Tuy nhiên, tôi nghĩ là cái này có lẽ nó sẽ làm giảm
bớt căng thẳng bởi Trung Quốc sẽ có thái độ tương đối mà tôi nghĩ là
Trung Quốc sẽ bớt hiếu chiến hung hăng hơn.
Sự hiện diện quân đội Hoa Kỳ tạo ra sự ổn cố trong vùng. Tôi
nghĩ về phương diện ổn cố đó thì nó có lợi là bởi vì một phần nào nó
cũng làm cho Trung Quốc bớt thái độ hiếu chiến hung hăng đi và giảm
nhiều chuyện có thể gây ra căng thẳng.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Quỳnh Chi: Dạ
vâng, nhân việc ông vừa nhắc đến một số nước Á Châu đồng ý với quyết
định này của Hoa Kỳ thì xin phép cho Quỳnh Chi được trình bày thêm. Theo
như báo chí của buổi sáng hôm nay thì có một số chiều hướng khác nhau,
thí dụ như Philippines, phía Úc và phía Hoa Kỳ là hoàn toàn ủng hộ việc
này, trong khi đó thì Singapore, Indonesia và Trung Quốc lên tiếng dè
dặt về vấn đề này. Vậy không biết liệu việc này có tạo ra sự phân cực
trong các nước Á Châu không ạ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng:
Tôi không nghĩ như thế bởi vì thứ nhất là Singapore, chính sách ngoại
giao của nước này rất là thực tế, không có tính cách ý thức hệ gì cả.
Singapore từ lâu vẫn nói là Trung Quốc và Mỹ
không nên đánh nhau, nhưng mặt khác Singapore vẫn đề phòng Trung Quốc
vì thế nước này đã để cho tàu chiến của Hoa Kỳ bỏ neo ở hải cảng
Singapore rồi, và nước này liên hệ quân sự với Mỹ rất là chặt chẽ rồi.
Cho
nên tôi nghĩ kiểu tuyên bố dó của Singapore chỉ là một lối nói ngoại
giao thôi chứ trong lòng thì cũng muốn như vậy (muốn Mỹ lập căn cứ quân
sự ở Úc) nhưng mà không muốn xảy ra đụng độ thôi, song rất muốn có sự
hiện diện của Mỹ.
Quỳnh Chi: Thế thì việc triển khai
quân sự này của Hoa Kỳ ở Úc có lợi hay hại như thế nào đối với thứ nhứt
là quốc tế, và thứ hai là đối với Việt Nam, thưa ông?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ nó rất là có lợi cho sự ổn định ở vùng đó, kể cả Trung Quốc
cũng công nhận là sự hiện
Bà Ngoại Trưởng Mỹ Hillary Clinton thăm hàng không mẫu hạm Fitzgerald hiện đang ghé thăm Philippines. AFP
diện
quân đội Hoa Kỳ tạo ra sự ổn cố trong vùng. Tôi nghĩ về phương diện ổn
cố đó thì nó có lợi là bởi vì một phần nào nó cũng làm cho Trung Quốc
bớt thái độ hiếu chiến hung hăng đi và giảm nhiều chuyện có thể gây ra
căng thẳng về sau này. Tôi nghĩ phần lớn đó là lợi hơn là hại.
Quỳnh Chi: Về phía Việt Nam thì cũng góp phần nào đó kềm hãm cái sự gọi là hung hăn của Trung Quốc?
GS Nguyễn Mạnh Hùng:
Việt Nam thì dĩ nhiên cũng là đứng giữa thôi. Thế nhưng mà Việt Nam,
theo tôi, vì cái quyền lợi của đất nước dĩ nhiên là muốn có sự hiện diện
của Mỹ rồi, bởi vì chỉ có
Mỹ mới là đối lực quan trọng nhất và thực tiễn nhất thôi; còn những hệ
thống khác như là ASEAN thì không phải là đối lực của Trung Quốc.
Quỳnh Chi: Xin
phép cho Quỳnh Chi được nhắc là cũng đừng quên rằng Việt Nam luôn luôn
không muốn lệ thuộc vào một quốc gia nào khác. Không biết cái việc mình
muốn có sự hiện diện của Mỹ ở khu vực này thì có phải là gây nên sự lệ
thuộc của mình hay không, thưa ông?
GS Nguyễn Mạnh Hùng:
Tôi không thấy đi vào một liên minh nào là lệ thuộc. Việt Nam với Mỹ đi
vào liên minh quân sự thì còn xa lắm, nhưng mà siết chặt quan hệ quân
sự thì không phải là lệ thuộc. Bao nhiêu các nước khác, ngay cả nước
Pháp và nước Mỹ trong thời De Gaule thì cũng độc lập lắm chứ có lệ thuộc
đâu.
Thành ra cái việc liên hệ quân sự với nước khác thì không có phải là
mình mất đi sự độc lập của mình.
Quỳnh Chi: Một câu hỏi
cuối, thưa ông. Trở lại việc Hoa Kỳ triển khai 2500 quân ở Úc, ông có
cho rằng việc này làm cho Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự của
mình không, và liệu việc này có thể gây nên cuộc chạy đua vũ trang trong
khu vực không ạ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ việc
chạy đua vũ trang thì đã xảy ra rồi. Thế còn điểm thứ hai thì tôi nghĩ
là ảnh hưởng rất ít bởi Trung Quốc đương có chương trình hiện đại hóa
quân đội thì họ tiếp tục chứ không có bỏ đâu, thành ra tôi không nghĩ là
nó có ảnh hưởng bởi vì chuyện đó đã xảy ra rồi.
Quỳnh Chi: Có nghĩa là Trung Quốc vẫn đang
tăng cường quân sự?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Vâng. Chắc
chắn. Họ tiếp tục tăng cường quân sự và tiếp tục thi hành những chính
sách của họ trong vùng Đông Nam Á. Sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ và sự
cam kết của Hoa Kỳ có thể - tôi nói là “có thể” thôi- có thể tạo ra một
thế quân bình nào đó thuận lợi cho các nước bé, bởi khi mà có sự quân
bình quyền lực thì các nước bé thở được.
Quỳnh Chi: Một lần nữa, xin cám ơn GS Nguyễn Mạnh Hùng.
Bắc Kinh bất ngờ trước chính sách cứng rắn của Hoa Kỳ
Thanh Quang, phóng viên RFA
Mối
quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc tiếp tục căng thẳng đáng kể khi diễn tiến vừa
qua tại các hội nghị thượng đỉnh vùng Á Châu-Thái Bình Dương chứng kiến
quyết tâm mới của Mỹ kéo theo mối nghi ngại cùng phẫn nộ gia tăng của
Bắc Kinh.
AFP Photo/ Saul Loeb
Từ
trái, Tổng thống Mỹ Barack Obama, Thủ tướng TQ Ôn Gia Bảo và Thủ tướng
Úc Julia Gillard tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Bali, Indonesia,
19/11/2011.
Quyết tâm có mặt tại châu Á
Trong chuyến công du Á Châu -
Thái Bình Dương vừa rồi và gặp gỡ các lãnh tụ trong khu vực, kể cả các
lãnh đạo Bắc Kinh, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama xem chừng như làm nổi
bật “sắc thái và quyết tâm Thái Bình Dương” của Mỹ - chẳng hạn như tuyên
bố rằng Hoa Kỳ vẫn là một cường quốc Thái Bình Dương và sẽ “trụ lại” ở
đây.
Lên tiếng mới đây với Đài Á
Châu Tự Do, GS Nguyễn Mạnh Hùng dạy môn Bang giao Quốc tế tại Đại học
George Mason, Virginia, Hoa Kỳ, cho biết:
“Trong vài tháng nay
chúng ta đã thấy rõ là cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất bên ngoại
giao, quốc phòng và tổng thống đều nói đến sự trở lại của Hoa Kỳ ở Á
Châu và cam kết là sẽ có mặt ở đây như là một cường quốc Thái Bình
Dương. Thì đó là một chuyển biến rất là quan trọng.”
Trong vài tháng nay chúng ta đã
thấy rõ là cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất bên ngoại giao, quốc
phòng và tổng thống đều nói đến sự trở lại của Hoa Kỳ ở Á Châu và cam
kết là sẽ có mặt ở đây như là một cường quốc Thái Bình Dương.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Nhưng theo nhà bình luận Frank
J. Gaffney của tờ Washington Times, trong thời gian cầm quyền vừa qua,
chính Tổng thống Obama đã làm cho những quốc khách của ông có cảm tưởng
rằng nước Mỹ ngày càng suy yếu, đồng thời làm họ hoài nghi về thiện chí
của Wasington “bám trụ” ở vùng Á Châu - Thái Bình Dương một cách có
chiến lược. Theo bình luận gia Gaffney, những cảm nhận như vậy góp phần
làm vấn đề trầm trọng thêm khi trong những năm
By Đài Á Châu Tự Do| 1 video
No comments:
Post a Comment