Hoà giải dân tộc
Nguyễn Ðạt Thịnh
Là con trai của thi sĩ Cù Huy Cận, luật sư Cù Huy Hà Vũ cũng lãng mạn không kém gì ông bố. Cù Huy Cận, tác giả bài thơ “ngậm ngùi” mô tả cô thôn nữ ngủ ngày, lãng mạn với câu “vườn hoang thôn nữ xếp đôi lá rầu”; ông Hà Vũ lãng mạn với hai đề nghị không tưởng trong bài thơ “Hòa Giải Dân Tộc” ông vừa sáng tác.
Hà Vũ làm thơ dưới hình thức “Kiến nghị” gởi lên quốc hội Việt Cộng đề nghị hai điều: Một là: Đại xá tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hoà theo Khoản 10 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội quyết định đại xá); và hai là: Lấy “Việt Nam” làm Quốc Hiệu thay cho “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Khoản 1 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp).”
Tôi viết chữ nghiêng những đoạn trích trong “bài thơ” bất hủ của ông Hà Vũ, và để nguyên cả những lỗi chính tả để độc giả Việt Nam nhận thấy cái ngộ nghĩnh trong văn chương Việt Cộng.
Cù Huy Hà Vũ và Nông Ðức Mạnh
Văn phạm Việt Nam, hay bất cứ văn phạm nước nào khác, cũng ấn định chỉ viết hoa những danh từ riêng, như tên nguời, địa danh …, những chữ khác không viết hoa; ông Hà Vũ viết hoa những chữ ông cho là quan trọng như: Khoản 10 Ðiều 84, trong lúc phải viết khoản 10, điều 84, và Kiến nghị, chữ kiến không được viết hoa.
Bỏ qua những lỗi văn phạm của ông tiến sĩ để trở lại cái dễ thương giống bố của ông: hai chữ “đại xá” của ông cũng lãng mạn không kém hai chữ “vườn hoang” của Huy Cận. Ông “Kiến nghị” xin Việt Cộng trả tự do cho những quân nhân, công chức VNCH bị Việt Cộng nhốt trong những trại tập trung man rợ của chúng nó, mà không biết là những tù nhân chính trị này không còn cần ông xin bọn cai tù “đại xá” cho họ nữa, vì 18 năm trước, những người Mỹ đồng minh trong chiến tranh với họ, đã chuộc họ ra và đưa họ đi định cư tại Hoa Kỳ rồi.
Là luật sư mà ông không biết việc một hệ thống tù ngục to lớn đến như vậy, một tổ chức giết người quy mô đến như vậy, còn hiện hữu hay không, thì quả ông lãng mạn hơn bố nhiều lắm.
Tôi đã gặp nhiều người tù chính trị bị Việt Cộng giam giữ 17 năm dài, trong số đó có thằng em ruột tôi, và có nhiều người bạn lính của tôi rất can trường, chiến đấu bảo vệ quê hương cho đến phút cuối cùng.
Không bảo vệ được quê hương 35 năm trước, giờ này họ vẫn đang kiên nhẫn chiến đấu để giải phóng quê hương bị giặc tạm chiếm, mặc dù họ không còn cầm súng nữa. Không sử dụng súng, nhưng cuộc chiến đấu của họ vô cùng hiệu quả, hiệu quả đến mức bọn đầu xỏ Việt Cộng không dám bén mảng đến những nước tự do mà họ định cư nữa.
Truyền thông trong nước bị bưng bít nên ông không biết việc Việt Cộng Nguyễn Minh Triết, Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng bị người Việt Nam đuổi chạy dài, trốn chui, trốn nhủi, mỗi lần chúng đến Hoa Kỳ, đến Pháp, hay đến Úc.
Không rõ chi tiết nhưng ông cũng mang máng biết rằng người Việt Nam ghét Việt Cộng nên ông đề nghị với cái mà ông gọi là quốc hội, nhập nhằng đổi quốc hiệu Việt Cộng thành Việt Nam để hòa giải dân tộc.
Ông ngây thơ bảo bọn “đảng biểu” đang ngụy trang thành “đại biểu” là chúng nên chấp thuận hai đề nghị “đại xá” và đổi quốc hiệu của ông “để khẳng định một lần nữa Chân lý: Dân tộc Việt Nam chỉ có Một! Nước Việt Nam chỉ có Một!”
Bằng cái mà ông gọi là “Chân lý” (tôi gạch đít chữ Chân và những chữ ông viết hoa không đúng cách, để người đọc biết là ông nhấn mạnh những chữ đó), ông lại lãng mạn mở thêm một cánh cửa đang sẵn mở toang dạy bọn đại biểu cái chân lý “Dân tộc Việt Nam chỉ có Một! Nước Việt Nam chỉ có Một!” cái chân lý vốn vẫn có, lúc nào cũng có, trước cả ngày Hồ Chí Minh xoen xoét đọc trên chót lưỡi “Nuớc Việt Nam là Một, Dân tộc Việt Nam là Một – Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song Chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Chân lý dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một được người Việt hải ngoại, hàng năm đều đặn chứng minh bằng 10 tỉ bạc gửi về nước để thực sự “xoá đói giảm nghèo”, việc mà Việt Cộng chỉ nói bằng mồm chứ không bằng ngân sách.
Hà Vũ lại viết, “Có Hai Sự thật về chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975:
Sự thật thứ nhất - Đó là cuộc chiến tranh nhằm thống nhất đất nước để Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã giành được cách đây 65 năm, ngày 2/9/1945, được toàn vẹn.”
Thấy Hà Vũ nuốt chửng cái “chân lý” của Việt Cộng Hồ Chí Minh, đề cao việc giết hàng triệu người Việt Nam để thống nhất, tôi muốn hỏi ông ta xem ông ta có nghĩ rằng người Nam Hàn đang đau khổ vì trận chiến tranh để thống nhất Hàn Quốc bị đánh bại không?
Một câu hỏi khác: bị Việt Cộng thống nhất, nước Việt Nam có tiến bộ, phồn thịnh bằng Nam Hàn không? Người Việt Nam có tự do, sung túc bằng người Nam Hàn không? Ðã nhiều lần Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ nêu lên câu hỏi này với Việt Cộng.
Ông thi sĩ tiến sĩ viết tiếp, “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thuần Việt suốt chiều dài lịch sử và chính đặc điểm “thuần Việt” này đã hình thành cho người Việt tư tưởng Một dân tộc, Một quốc gia hay Dân tộc đồng nhất với Quốc gia, để từ đó đi đến nguyên lý bất di bất dịch: không thể có độc lập dân tộc thực sự với một quốc gia bị chia cắt về lãnh thổ, hay Độc lập dân tộc phải gắn liền với Thống nhất lãnh thổ quốc gia, Thống nhất đất nước - Hệ tư tưởng mà tôi gọi là Chủ nghĩa Nhất thể Việt (Vietnamunism)”.
Chủ nghĩa Vietnamunism của Hà Vũ đã được chế độ Việt communism sắt máu thực hiện, và sự thành công của chủ nghĩa này đã khiến 2 triệu người Việt Nam nhẩy xuống Biển Ðông cương quyết chối bỏ bị cưỡng bách thống nhất trong lao tù, có hay không có lính Việt Cộng canh gác.
Cũng chia cái lao tù không có lính gác này, Hà Vũ đang là con sơn ca líu lo hót ca tụng cái lồng son đỏ. Ông ca tụng tình trạng cưỡng bách thống nhất bằng câu: “Sự thật thứ hai – Dù là tất yếu để Non – Sông Việt Nam liền một giải, để Độc lập Dân tộc được toàn vẹn thì đó vẫn là một cuộc Nội chiến, một cuộc chiến tranh Huynh - Đệ tương tàn giữa những người Việt Nam.”
Có thể Việt Cộng thích câu này lắm, vì Hà Vũ ca tụng bản chất của chúng giống bản chất của người Việt Nam không độc ác, lại tốt bụng, rộng lượng. Người Việt Nam không bao giờ hành hạ, giết người thất trận, thất thế như Việt Cộng đã “hồ hởi” hành hạ, giết hại chiến sĩ Việt Nam.
Nhiều lần tôi chứng kiến cảnh cảnh chiến sĩ VNCH băng bó, mớm cơm, đút nước cho thương binh Việt Cộng; tôi còn chứng kiến cảnh người Sài Gòn ném bánh mì qua hàng rào sắt của trại lính “thành 11ème RICK”, sau này là trường Văn Khoa, cho tù binh Pháp bị Nhật giam giữ, bỏ đói bên trong, và tôi cũng đã hướng dẫn một toán phóng viên truyền hình Nhật đến một làng Nam Việt phỏng vấn một anh lính Nhật thất trận được dân làng che dấu, không bị Ðồng Minh bắt làm tù binh.
Người Việt Nam còn vô cùng đại lượng: họ bao dung để ông tổng thống phản quốc Dương Văn Minh sống, và chết yên lành, giữa một cộng đồng người Việt tị nạn, nạn nhân hành động phản quốc của ông.
Những người tốt bụng như vậy, rộng lượng như vậy không thể là đồng chủng, đồng bào của Việt Cộng.
Xây xong cái nền nhà bằng hai cái bong bóng xà bông “đại xá” và “đổi quốc hiệu”, thi sĩ Hà Vũ bắt đầu dựng lên tòa biệt thư “hòa giải”. Ông viết, “một khi chiến tranh chấm dứt thì xoá bỏ hận thù giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến hay Hòa giải Dân tộc là Nghĩa vụ, và hơn thế nữa, là Đạo lý của mọi người Việt Nam. Và trong sự nghiệp Hoà giải này – tôi khẳng định vĩ đại không kém cuộc chiến vừa kết thúc nhằm thống nhất đất nước –những người chiến thắng phải đi bước trước, mà giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ Chung - Tổ Quốc, để mọi người Việt, dẫu chính kiến có khác biệt lại xum họp Một Nhà!”
Chu choa là cảm động, nhưng trễ gần 4 thập niên rồi, ông Hà Vũ ơi: năm Nam Việt thất thủ ông lên 5 hay lên 7? Nếu lớn hơn đôi chút ông đã chứng kiến cảnh những người chiến thắng đi bước trước, giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ Chung - Tổ Quốc,…”
Ngày đó bọn đồng chí bác Hồ của ông, cũng lại “hồ hởi” tỏ chữ hiếu với mẹ tổ quốc bằng cách giết người, cướp của, chiếm đoạt phụ nữ, phá vỡ hàng triệu gia đình Nam Việt; chúng hiếu đễ như thế nào, ông có thể hỏi những người lớn tuổi hơn ông như Linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Lê Công Ðịnh, hoặc những người trang lứa với ông như luật sư Lê Thị Công Nhân, tiến sĩ Nguyễn Tiến Trung.
Tuy phạm rất nhiều lầm lẫn, nhưng Hà Vũ cũng nói lên được một nửa điều đúng trong câu kêu gọi hòa giải giữa người Việt Nam và người Việt Cộng. Ông viết, “Kinh khủng hơn nữa, chính những hận thù và chia rẽ dân tộc ấy đang từng ngày, từng giờ tiếp tay cho nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!
Nhưng Tổ Quốc Việt Nam không thể không quyết Sinh và vì vậy, Hoà giải Dân tộc hay là Chết!”
Nguyên câu viết ngắn đó chỉ đúng có một nửa: nửa điều đúng đó là những chữ, “nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!”Hà Vũ chỉ đúng có nửa điều vì ông ta tưởng lầm là, vì không chịu hòa giải với Việt Cộng, mà người Việt Nam đã “tiếp tay” cho nguy cơ Bắc thuộc.
Thật ra bọn tiếp tay với giặc Tầu là Việt Cộng và chính sách quốc phòng “4 không” của chúng nó:1) không tham gia các liên minh quân sự, 2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, 3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, và 4) không dựa vào nước này để chống nước kia.
Không chỉ trẻ người thôi, Hà Vũ còn thiếu thông minh nữa. Một luật sư đồng nghiệp của Hà Vũ, cô Lê Thị Công Nhân đã làm bài thơ “Uất ức biển ta ơi”, tưởng Hà Vũ cũng cần đọc trọn bài, và học 4 câu sau đây:
Chính quyền cộng sản quyết im lặng ! ? ! ?
Dấu kỳ phép lạ ở nước tôi
Độc nhất vô nhị trên thế giới
Trân trọng kính mời xâm lược thôi!
Nói về cái tối tăm của Hà Vũ, tôi e là nói mãi cũng không hết; để câu chuyện sinh động hơn, tôi đề nghị Hà Vũ tạm quên bài thơ “kiến nghị” ông viết lảm nhảm về một giai đoạn lịch sử ông không biết, mà cũng không hiểu, để “khám phá” một sự thật giản dị hơn: nguyên nhân nào khiến người Việt Nam ghét Việt Cộng.
Dĩ nhiên cung cách thú vật bọn Việt Cộng đối xử với những người tù binh thất thế có là một trong nhiều nguyên nhân khiến người Việt Nam ghê tởm Việt Cộng, nhưng điều khiến họ đang quyết liệt chống đối chúng là hành động chúng dâng lãnh hải Việt Nam cho Tầu.
Sau nhiều tháng dài nhắm mắt làm ngơ mặc cho pháo hạm “tầu ngư chính” của Tầu tung hoành trên Biển Ðông, bắt, bắn, giết, giam cầm, đánh đập, phạt vạ ngư dân Việt Nam về tội đánh cá trên vùng biển trước 1975 còn là biển Việt Nam; giờ này Việt Cộng vẫn quyết tâm ôm chân Tầu, không liên kết với các quốc gia Ðông Nam Á bảo vệ quyền lợi chung trên Biển Ðông.
Muốn tránh đại họa Bắc Thuộc thêm lần thứ tư, Hà Vũ phải can đảm lên để làm những việc Công Nhân làm, Nguyễn Văn Lý, Lê Công Ðịnh, Nguyễn Tiến Trung, và nhiều người khác đang làm.
Hà Vũ phải ý thức được là chướng ngại ngăn cách Tây và Ðông Ðức không phải là bức tường ô nhục Bá Linh mà là bọn Hans Modrow, Erick Honecker, bọn trùm Cộng Sản Ðức, tay sai của Nga.
Tháng Mười 1989, dân Ðức xuống đường biểu tình, ngày 10/18/1989 bác Honecker bị hạ bệ và được thay thến bằng Egon Krenz. Ðảng cộng sản Ðức bị giải tán một năm sau đó, Honecker trốn vào trong một tu viện Lutheran, rồi vào dưỡng thương trong một bệnh viện của quân đội Nga tại Berlin, để ngay sau đó, nhà độc tài cộng sản cùng với vợ bay sang Mạc Tư Khoa … tị nạn.
Vũ có thấy chỉ cần vài chục tên đầu xỏ Ðức Cộng biến mất là hai phần nước Ðức trở lại thành một, dân Ðông Ðức, Tây Ðức trở lại thành dân Ðức.
Giải pháp hoà giải cho Việt Nam –quê hương tôi và quê hương Hà Vũ- cũng sẽ không khác giải pháp thống nhất, hòa giải của người Ðức bao nhiêu: cứ ném các xác ướp của Hồ Chí Minh xuống cống, và cấp cho bọn lãnh tụ Việt Cộng một chuyến bay để chúng kéo nhau sang Bắc Kinh tị nạn, là hiểm họa Biển Ðông sẽ không còn, mà sự thịnh vượng, sự tự do của Ðức, của Nam Hàn cũng chỉ cách dân tộc chúng ta nửa con giáp.
Nguyễn Ðạt Thịnh
Nguon :Xin chuyển đến Quý Vị, Quý NT và CH...
Bài viết mới cuả nhà báo quân đội Nguyễn Đạt Thịnh...
Xin mời Quý Vị xem và thẩm định.
BMH
Washington, D.C
=============================================
===================================================================
No comments:
Post a Comment