tka23 post
Lực lượng tàu ngầm Hải quân Trung cộng
Hiện nay, Trung cộng đang đứng đầu thế giới về số lượng tàu ngầm diesel-điện
và đứng thứ ba thế giới (sau Mỹ và Nga) về lực lượng tàu ngầm. Theo
ước tính, trong Hải quân Trung cộng hiện nay đang có khoảng 75 chiếc
tàu ngầm (tính cả những chiếc vừa hòan thành trong năm 2010), trong đó
có:
5
chiếc tàu ngầm nguyên tử mang hoả tiển đạn đạo (1 chiếc lớp Hạ và 3-4
chiếc lớp Tấn); 8 chiếc tàu ngầm nguyên tử (4 chiếc lớp Hán và 3-4
chiếc lớp Thượng); 60 chiếc tàu ngầm diesel-điện (10 chiếc lớp Nguyên,
13 chiếc lớp Tống, 17 chiếc lớp Minh, 12 chiếc lớp “Kilo” và 8 chiếc lớp
Romeo). Ngoài ra, Hải quân Trung cộng còn đang có 2 chiếc tàu ngầm
lớp Golf và Vũ Hán để sử dụng cho mục đích thử nghiệm (thử các loại vũ
khí hoả tiển mới trước khi chính thức trang bị cho các lớp tàu ngầm
khác hoặc trước khi sản xuất hàng loạt). Tiềm năng tác chiến của lực
lượng tàu ngầm Hải quân Trung cộng
được đánh giá theo tỷ lệ số vũ khí trang bị trên tàu ngầm so với tổng
số vũ khí dự bị hiện có.
Cụ thể, lực lượng tàu ngầm của
Trung cộng được trang bị 36 hoả tiển đạn đạo chống ngầm (chiếm 3,3%
nguồn dự trữ hoả tiển hạt nhân chiến lược), 146 hoả tiển đối hạm
(chiếm 9,9% nguồn dự trữ tác chiến của loại hoả tiển này trong Hải quân
Trung cộng ), 1.182 ngư lôi (chiếm 82,4%) và 2.068 thủy lôi (chiếm 31,5%
nguồn dữ trữ tác chiến của các loại vũ khí này trong Hải quân Trung
cộng).
Trong thời chiến, lực lượng tàu ngầm của Hải quân Trung cộng sẽ được tổ chức thành 6 lực lượng tàu tác chiến chia đều cho 3 Hạm đội: Hạm đội Đông Hải, Hạm đội Bắc Hải và Hạm đội Nam Hải.
Trong
đó tàu ngầm nguyên tử mang hoả tiển đạn đạo được bố trí cho lực lượng
hạt nhân chiến lược, các tàu ngầm đa nhiệm như tàu ngầm nguyên tử và tàu
ngầm diesel-điện được pân phối cho lực lượng thông thường.
Trong thời bình, tất
cả số tàu ngầm này đều được tổ chức thành các lực lượng và lữ đoàn
tàu ngầm, hoạt động theo sự chỉ huy chung của Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ
Chỉ huy các Hạm đội.
Hạm đội Bắc Hải trách nhiệm ở khu vực Hoàng Hải và vịnh Bột Hải gồm:
2 đội tàu ngầm nguyên tử (1 chiếc tàu
ngầm nguyên tử mang hoả tiển đạn đạo lớp Hạ, 2 chiếc lớp Tấn, 4 chiếc
lớp Hán mang số hiệu từ 402 đến 405; 4 chiếc lớp Thượng đang bố trí tại
căn cứ hải quân Syaopindao và Nanyang; 2 lữ đòan tàu ngầm diesel-điện
(13 chiếc lớp Tống, Minh và Romeo) bố trí tại căn cứ hải quân
Qingdao và
Lushun. Ngoài ra, tại căn cứ hải quân
Syaopindao hiện nay còn có cả tàu ngầm thử nghiệm mang hoả tiển đối hạm
Vũ Hán mang số hiệu 351 và tàu ngầm mang hoả tiển lớp
Golf mang số hiệu 200.
Hạm đội Đông Hải trách nhiệm
vùng biển phía Đông Trung cộng , bao gồm cả eo biển Đài Loan gồm: 1 lữ
đoàn tàu ngầm (4 chiếc tàu ngầm diesel-điện dự án 877/636, 6 chiếc lớp
Tống, một vài chiếc dự án 636 EM và lớp Minh, lớp Romeo) bố trí tại căn
cứ hải quân Sichugan.
Hạm đội này khi cần thiết cũng có thể
sử dụng cả căn cứ hải quân ở Thượng Hải và Ningbo để bố trí lực lượng
tác chiến nhanh, kịp thời ngăn chặn mọi nguy cơ có thể xảy ra.
Hạm đội Nam Hải.
Đây là một trong những Hạm đội được Trung cộng tập trung đầu tư nhiều
kinh phí, vũ khí, thiết bị quân sự nhất bởi vì nó đảm nhiệm khu vực tác
chiến trên biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và vịnh Tonkin (vịnh Bắc Bộ).
Theo đánh giá sơ bộ của ngành hải dương Trung cộng, trữ lượng dầu khí
dưới Biển Đông là hơn 50 tỷ tấn, nằm ở độ sâu từ 500 mét đến 2.000 mét.
Gần đây, người ta tiếp tục khám phá ở Biển Đông còn có một trữ lượng băng cháy
(một loại năng lượng sạch cho tương lai) khổng lồ. Ngoài nguồn dầu
mỏ tại khu vực Trung Á, tuyệt đại đa số dầu
mỏ mà Trung cộng nhập từ bên ngoài đều phải vận chuyển qua đường
biển, trong đó có một phần rất lớn được vận chuyển qua Eo biển Malacca.
Do vậy, bảo vệ lợi ích dầu mỏ nhập là một nhiệm vụ quan trọng đối với
lực lượng hải quân Trung cộng . Ngoài ra, trong vấn đề chủ quyền biển
đảo, Trung cộng vẫn đang tranh chấp chủ quyền với hầu hết các nước có
biển giáp với Trung cộng. Khu vực biển Đông vẫn tồn tại những điểm nóng
mâu thuẫn giữa Trung cộng với các nước trong khu vực.
Tại khu vực biển Hoa Đông,
tranh chấp giữa Trung cộng với Nhật Bản về đảo Điếu Ngư đã nhiều lần
khiến bang giao hai nước căng cẳng. Để giải quyết những vấn đề này,
“chiến lược biển xanh" cùng với lực lượng hải quân hùng mạnh, đủ sức tác
chiến tại vùng biển xa là mục tiêu Trung cộng ráo riết theo đuổi. Xuất
phát từ những vấn đề nêu trên, thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng “Hạm đội
tác nghiệp biển sâu” Trung cộng nhận thấy cần tăng cường sức mạnh cho
Hạm đội Nam Hải để bảo vệ vững chắc nguồn lợi ích kinh tế khổng lồ và vị
trí địa-chiến lược ở khu vực này.
Hiện nay, trong tổ chức của Hạm đội
Nam Hải gồm 1 chiến đoàn tàu ngầm (tàu ngầm diesel-điện lớp Tống, Minh,
Romeo và một vài chiếc tàu ngầm thuộc dự án 636EM bố trí tại căn cứ hải
quân Lushun.
Tiến trình và triển vọng đóng tàu cho lực lượng Hải quân
Đầu
tiên Trung cộng nghiên cứu và phát triển tàu ngầm là lớp diesel-điện,
sau đó vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước mới có loại tàu ngầm
nguyên tử với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài, Liên Xô-Nga
và Pháp.
Với sự giúp đỡ của Xô, những chiếc tàu ngầm diesel-điện đầu tiên của Trung cộng dự án 033
(theo phân loại của NATO là lớp Romeo) đã được thiết kế, chế tạo dựa trên kiểu tàu ngầm diesel-điện dự án 633 của Liên Xô. Trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1983 Trung cộng đã đóng được tất cả 84 chiếc tàu ngầm loại này,
một phần trong số đó đã được chuyển giao cho nước khác, số còn lại được
xữ dụng. Trong suốt thời gian chế tạo và sử dụng, với sự hỗ trợ của
các chuyên gia Pháp, những chiếc tàu ngầm loại này đã nhiều lần phải
nâng cấp nhằm hoàn thiện các máy móc điện tử, thủy âm và radar vô
tuyến. Đến nay, vẫn còn khoảng 8 chiếc tàu ngầm loại này đang được xữ dụng trong lực lượng Hải quân Trung
cộng , trong đó có mẫu nâng cấp thuộc dự án 033G (mang số
hiệu 351) được sử dụng để phóng thử nghiệm hoả tiển đối hạm YJ-8 từ ống
phóng ngư lôi. Sau dự án 033, Trung cộng tiếp tục nghiên cứu, phát
triển tàu ngầm diesel-điện lớp 035 (theo phân loại của NATO được gọi là
lớp Minh) với 3 mẫu chính: mẫu dự án 035 trong những năm 1969-1979;
biến thể của mẫu dự án 035 mang các số hiệu 342, 352-363 vào những năm
1988-1995; mẫu dự án 355G mang số hiệu 305-309 vào những năm 1997-2000.
Tất cả trong giai đoạn từ 1975-2000, Trung cộng đã chế tạo khoảng 25
chiếc tàu ngầm diesel-điện dự án 035 với tất cả các biến thể, một số ít
trong số này sẽ không hoạt động
trong thời gian tới, số còn lại (17 chiếc) vẫn sẽ tiếp tục hoạt động. Tàu ngầm diesel-điện lớp Tống dự
án 039/039G đã được chế tạo trong giai đoạn từ 1999 đến 2006 tại xưởng
đóng tàu Vũ Hán dựa trên mẫu tàu ngầm lớp “Agosma” của Pháp và được các
chuyên gia của nước này hỗ trợ về mặt kỹ thuật.
Chiếc tàu ngầm đầu tiên trong số 13
chiếc tàu ngầm này mang số hiệu 320 đã được hạ thủy vào tháng 5/1994 và
đến tháng 8/1994 thì bắt đầu thử nghiệm. Tuy nhiên, mãi đến năm 1999
chiếc tàu ngầm này mới chính thức đưa vào hoạt động do gặp phải một
số trở ngại kỹ thuật liên quan đến tiếng ồn của động cơ. Do vậy, những
chiếc tàu ngầm tiếp theo loại này được chế tạo theo biến thể dự án 039G
(sau năm 2003 là dự án 039G1).
Tất cả tàu ngầm lớp này đều được trang
bị động cơ diesel MTU 12V 493 của Đức, hệ thống radar quét 360 độ của
Pháp và lớp thân vỏ nhẹ được làm bằng vật liệu đặc biệt có khả năng vô hiệu hóa hệ thống định vị thủy âm của đối phương.
Nếu so sánh về độ ồn của động cơ thì tàu ngầm lớp Tống của Trung cộng
cũng tương đương với độ ồn của tàu ngầm các nước phương Tây vào giữa
những năm 80 của thế kỷ trước. Tàu ngầm loại này có thể phóng hoả tiển
hành trình đối hạm ASCM loại YJ-82 (YJ-801Q)
ở trạng thái động trong phạm vi 22 dặm
(40 km), tốc độ 0,9 M mang đầu đạn tự dẫn có trọng lượng 165 kg. Tàu
ngầm loại này cũng có thể sử dụng ngư lôi hoặc thủy lôi hạng nặng loại
533 mm, trong đó có loại đối hạm Yu-4 tầm bắn xa 8,1 dặm (15 km), tốc độ
35 hải lý mang đầu đạn có trọng lượng 400 kg và loại săn ngầm Yu-3 có
tầm bắn xa 15 km, tốc độ 40 hải lý, trọng lượng đầu đạn 205 kg.
Tàu ngầm lớp Kilo dự án
877EKM/636 là một trong những mẫu xuất cảng của Nga thuộc dự án 877 và
636, do vậy, đa số hệ thống, trang thiết bị, vũ khí trên tàu đều vẫn
được giữ nguyên, chỉ khác ở vũ khí ngư lôi, thiết bị vô tuyến điện tử và
hệ thống thông gió, điều hòa không khí, cho phép tàu có thể hoạt động
trong điều kiện khắc nghiệt.
Trong giai đoạn từ năm 1995 đến 2006
Nga đã cung cấp cho Hải quân Trung cộng 12 chiếc tàu ngầm loại này. Hai
chiếc tàu ngầm diesel-điện đầu tiên thuộc dự án 877EKM đã được cung cấp
cho Trung cộng vào năm 1995, tiếp đó vào các năm 1996 và 1999 Nga tiếp
tục cung cấp cho Trung cộng hai chiếc tàu ngầm thuộc dự án 636 trang bị
động cơ diesel-điện mạnh hơn, hệ thống vô tuyến điện hoàn thiện hơn và
hệ thống bảo vệ tốt hơn. Tất cả 4 chiếc tàu ngầm loại này đều đã được trang bị cho Hạm đội Đông Hải.
Sau một thời gian sử dụng, Trung cộng định sẽ đưa những chiếc tàu này
trở lại Nga để trang bị thêm hoả tiển hành trình đối hạm 3M54E
Club, song sau đó vào tháng 7/2007 Trung cộng đã trang bị cho những
chiếc tàu ngầm này loại hoả tiển hành trình đối hạm YJ83 và ngư lôi
Yu-6 do chính nước này sản xuất. Cuối năm 2006 Trung cộng tiếp tục tiếp
nhận 8 chiếc tàu ngầm diesel-điện thuộc dự án 636EM được trang bị hoả
tiển hành trình đối hạm 3M54E Club mang đầu đạn dẫn đường bằng vô
tuyến có trọng lượng 400 kg, tầm bắn xa 148 dặm và tốc độ hành trình của
đầu đạn là 0,8M.
Tàu ngầm lớp Nguyên là chiếc tàu ngầm đầu
tiên do Trung cộng tự chế tạo được trang bị nhiều hệ thống, trang
thiết bị kỹ thuật tối tân , có khả năng tự cung cấp dưỡng khí nên thời
gian hoạt động ở dưới nước lâu hơn, hiệu quả tác chiến
cũng được nâng cao đáng kể.
Tàu
ngầm loại này được trang bị cả hoả tiển hành trình đối hạm YJ-8Q bắn
qua thiết bị phóng ngư lôi. Tàu ngầm mang hoả tiển đạn đạo lớp Golf dự
án 629 do Liên Xô cung cấp với số lượng 3 chiếc, trong đó 1 chiếc đã bị đắm, hai chiếc còn lại hiện nay đang được sử dụng để thử nghiệm hoả tiển mới. Tàu ngầm loại này được trang bị hai ống phóng hoả tiển dạng thẳng đứng để thử hoả tiển đạn đạo phiên bản trên biển. (Tổng hợp)
No comments:
Post a Comment