http://www.youtube.com/watch_popup?v=hkGzqpGx1KU
Sunday, May 30, 2010
CHÀO LỄ MEMORIAL DAY 2010
HƯƠNG KHÓI ĐỪNG QUÊN NẤM MỘ NÀO
Trần Củng Sơn, May 28, 2010
Cali Today News - Hàng năm cứ đến ngày lễ Memorial Day – Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ, lòng tôi chợt bồi hồi nhớ đến hòan cảnh đất nước Việt Nam dù cuộc chiến đã chấm dứt nhiều năm rồi. Năm nay lễ nhằm Thứ Hai cuối tháng 5 tức là ngày 31-5-2010, người dân Mỹ được nghỉ ba ngày thứ bảy, chủ nhật và thứ hai, không khí lễ hội rộn ràng khắp nước.
Những lá cờ Hoa Kỳ được cắm trên các ngôi mộ nói lên sự kính nhớ những người chiến sĩ đã hi sinh cho tổ quốc này trong các cuộc chiến tranh. Cho dù những cuộc chiến tranh đã xảy ra đúng hay sai, vô lý hay hữu lý, thắng hay bại thì những người đã chiến đấu vì lý tưởng của họ đều được đồng bào cùng chiến tuyến vinh danh.
Cuộc nội chiến của hai miền Nam và Bắc của Hoa Kỳ xảy ra vào tháng 4 năm 1861 và kết thúc vào tháng 4 năm 1865 khi tướng Ulysses S Grant đánh bại tướng Robert E. Lee ở Virginia. Mặc dù thua trận nhưng sau này quốc hội Hoa Kỳ cũng đã công nhận đại tướng Lee là anh hùng của dân tộc, và nước Mỹ đã thóat khỏi ám ảnh của quá khứ nội chiến để tòan dân đồng lòng xây dựng trở thành siêu cường của thế giới.
Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt vào tháng 4 năm 1975 nhưng vết thương chiến tranh cùng hận thù vẫn còn ray rức.
Lịch sử ghi lại vào thời nhà Trần khi đuổi được quân nhà Nguyên ra khỏi bờ cõi thì vua đã ra lệnh đốt hết tất cả các giấy tờ có liên quan đến những người đã cộng tác với giặc ngọai xâm, nói lên sự độ lượng tha thứ để mọi người cùng đòan kết tái thiết lại quê hương, cũng giống như trứơc đó vua đã mở hội nghị Diên Hồng để các bô lão đồng lòng nói lên tiếng nói chống giặc xâm lăng.
Trong hòan cảnh hiện nay khi mà mối nguy cơ bành trướng của đế quốc Trung Cộng qua việc lấn chiếm đất, rừng, đảo, biển của Việt Nam thì việc đòan kết tòan thể dân tộc mang dòng máu Lạc Hồng rất cần thiết để tạo nên sức mạnh để phát triển và sống còn trước các thế lực quốc tế xâm lấn.
Người Cộng Sản Việt Nam, kẻ chiến thắng trong cuộc nội chiến vừa qua, đã từng gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa là Ngụy nhưng mới đây thi sĩ Trần Mạnh Hảo đã viết bài thơ Người Anh Hùng Họ Ngụy ca ngợi trung tá hải quân Ngụy Văn Thà, hạm trưởng đã hi sinh trong trận hải chiến tháng 1 năm 1974 giữa hải quân Việt Nam Cộng Hòa và hải quân Trung Cộng tại đảo Hòang Sa: “Người yêu nước không thể nào là ngụy. Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy. Nhưng anh là Ngụy Văn Thà… Tên anh là lời thề độc. Phải dành lại Hoàng Sa.”
Luật sư Cù Hà Huy Vũ, con trai của thi sĩ Cù Huy Cận, ngày 5 tháng 3 đã phổ biến một bản Kiến Nghị Xây Dựng Đài Liệt Sĩ Hi Sinh Vì Sự Nghiệp Bảo Vệ Hòang Sa Và Trường Sa Của Việt Nam, trong đó có 58 công dân Việt Nam phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hi sinh trong chiến đấu chống ngọai xâm để bảo vệ quần đảo Hòang Sa. Kết thúc trận chiến, tòan bộ quần đảo Hoàng Sa đã bị nước ngoài xâm chiếm.
Người Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng nói câu hòa hợp hòa giải dân tộc nhưng thực tế họ chưa bao giờ thật tâm làm điều này. Trong một lần trao đổi câu chuyện với một nhà báo, anh này nói một ý tưởng đáng chú ý. Anh nói là ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, khi về cộng tác với với chế độ hiện tại, đã có ước muốn là được Hà Nội cho phép công khai thắp nén nhang tưởng niệm các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Dĩ nhiên đây là chỉ là một giả thuyết, có thể là tưởng tượng.
Nhưng nếu điều này xảy ra trong tương lai thì cũng là một điều nói lên sự thật tâm muốn hòa giải dân tộc của kẻ đang nắm quyền ở Hà Nội. Ngày đó đóa hoa đoàn kết dân tộc nở rộ. Nước Mỹ cả trăm năm trước đã làm được để hàn gắn cuộc nội chiến. Nước Đức đã làm được mặc dầu Tây Đức đã chịu nhiều thiệt thòi để bảo trợ cho Đông Đức khi cả hai miền thống nhất, bức tường Bá Linh xây năm 1961 đã bị đập bỏ vào năm 1989.
Mới đây nhất, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Kenneth Fairfax cho biết là tình hình đấu tranh dân chủ nhân quyền tại Việt Nam sẽ còn tồi tệ cho đến khi nào đại hội đảng Cộng Sản lần 11 năm 2011 chọn được lãnh tụ mới. Trong lúc này, không cán bộ cao cấp nào muốn bày tỏ lập trường cởi mở vì khí thế bảo thủ đàn áp đang mạnh mẽ với sự ủng hộ của thế lực Trung Cộng. Mười mấy năm trước, ủy viên bộ chính trị Trần Xuân Bách, ứng viên sáng giá của chức tổng bí thư, người có đầu óc cởi mở đã bị hạ bệ, tiêu tan sự nghiệp chính trị.
Phong trào cởi mở và đổi mới từ thời Nguyễn Văn Linh năm 1986 đưa đất nước phát triển một phần và người tiếp tục phong trào này là Võ Văn Kiệt. Khi ông này chết một cách bí ẩn hai năm trước thì phong trào dân chủ bị đàn áp dữ dội, chủ quyền dân tộc bị đe dọa từ vụ bô xít tây nguyên đến việc ngư dân miền Trung bị Trung Cộng bắt giết ngoài khơi gần đảo Hòang Sa…
Câu nói dân gian thật chí lý: “Đi với Mỹ thì mất Đảng, đi với Tàu thì mất nước”. Lịch sử dân tộc đang đến một bước ngọăc quan trọng.
Đang là ngày thứ sáu, Rằm Tháng Tư Canh Dần, ngày Phật Đản, không khí hòa dịu lan khắp với tinh thần từ bi hoan hỉ của đạo Phật. Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong- Memorial Day 2010 đang tới.
Vẫn nhớ tới bài thơ thật cảm động, bài thơ này đọat giải ba trong một cuộc thi của báo văn nghệ quân đội thập niên 90 tổ chức, tình cờ đọc trên báo mua được từ trong nước gởi ra. Dù đọat giải ba, nhưng bài thơ thật hay, nhớ tới bây giờ hơn là hai bài giải nhất giải nhì kia.
Xin chép lại để cùng thưởng thức:
Vạt đồi yên nghỉ bao đồng đội.
Nhang còn một thẻ biết làm sao.
Thắp lên đành cắm nơi đầu gió.
Hương khói đừng quên nấm mộ nào”.
Người bạn nhớ ý thơ này, trong một lần về quê tảo mộ miền Trung, chỉ có trong tay một thẻ nhang và đã theo cách làm của tác giả bài thơ, cắm tất cả nhang ở đầu gió để hương thơm tỏa khắp các ngôi mộ.
Cũng mong là hương khói nhang thơm tỏa khắp các ngôi mộ của các chiến sĩ hai miền Nam Bắc trong chiến tranh Việt Nam vừa qua, tỏa khắp các ngôi mộ từ ngàn năm trước của những chiến sĩ vô danh đã hi sinh để bảo vệ giang sơn tổ quốc được như ngày hôm nay trên mảnh đất hình chữ S.
Xin cám ơn tác giả không nhớ tên của bài thơ bốn câu, tạo thi vị cho mấy dòng chữ này nhân mùa lễ Memorial Day 2010.
San Jose, 28-5-2010
=========================================================
Posted by nghiem nguyen at 7:49 AM 0 comments
Wednesday, May 26, 2010
Khi Bài Hát Trở Về :
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
download
KHI BÀI HÁT TRỞ VỀ
Trần Trung Đạo
Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.
Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy Mà Đi của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị Đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người. Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời” đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào.
Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng Đạo, Du Ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hoá thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.
Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ lại được hát lên giữa Thái bình dương giông bão, hát lên ở các trại tị nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn Hướng Đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh.
Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”
Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt hàng hay một ông tổng ủy trưởng Dân Vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước.
Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngã, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngã của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.
Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc.
Văn hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà Đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt.
Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.
Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo Dục Và Thanh Niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm.
Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của mùa hè đỏ lửa chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt.
Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Quốc xâm lăng.
Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.
Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo “Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước?” (The Spratly Islands Dispute: Who's on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.
Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.
Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, “Dậy mà đi”, “Nối vòng tay lớn” của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.
Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những "bất hạnh”, "nỗi đau", "tính tự ti mặc cảm", vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng. Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.
Trần Trung Đạo
Tro ve dau trang