đã hàng Cộng sản từ lâu
Tướng Big Minh đang được đưa qua Đài phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng
Bao năm nay nhiều bài viết đề cập đến tướng Dương Văn Minh, có lẽ chỉ nhân dịp 35 năm ngày 30-4, chúng ta mới biết rõ thêm khuynh hướng chính trị của vị tướng đầu hàng này. Tuần Việt Nam trên Net đã đăng bài “Nuôi lòng thù hận, cản trở hòa hợp hòa giải là có tội với tương lai.” phỏng vấn Võ văn Sung, cựu Đại sứ của Hà Nội tại Pháp, trong đó có phần đề cập đến vai trò của tướng Minh liên hệ đến CS như thế nào qua người em ruột và nhất là con trai ở Pháp.
Đúng ra nội dung chính của bài phỏng vấn (bên dưới sẽ có địa chỉ website cho toàn bài) nhấn mạnh đến chủ trương “hòa hợp hòa giải” mà Việt Cộng (xin gọi VNCS như vậy) đang gây thành phong trào “nóng” ở trong và ngoài nước nhưng ở đây xin giới hạn trích ra phần nói về tướng Dương Văn Minh.
Võ văn Sung cho biết vai trò của ông Dương Văn Minh nằm trong thế trận "3 mũi giáp công" của CS Hà nội:
“Tôi là một trong số những người trực tiếp tham gia quá trình nghiên cứu và thực hiện "vừa đánh, vừa đàm" trong cuộc đàm phán "bí mật" giữa ta và Mỹ tại Paris. Trong đó nội dung giải pháp có nhiều phương án, cả về quân sự và chính trị.
Trong các loại phương án giải pháp chính trị, tôi biết rằng ta có liên lạc riêng với ông Dương Văn Minh trao đổi về vai trò ông có thể giữ theo từng loại phương án với thu xếp của ta và thông qua người phía ta cài vào nội các của ông. Những động thái trên thực tế đã hạn chế ý chí kháng cự của quân đội Sài Gòn và làm tê liệt hệ thống hành chính của chế độ cũ trước thời khắc quan trọng ngày 30/4 đã thể hiện phần nào hiệu quả của một cuộc đấu tranh tổng lực bằng vận động giải pháp chính trị, nổi dậy tại chỗ phối hợp chặt chẽ với 5 mũi tiến công của các quân đoàn chủ lực quân giải phóng.
Chúng ta biết rằng vào thời điểm cuối tháng 4/1975 nếu Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ còn nắm quyền và thực hiện "tử thủ" như ở Xuân Lộc thì chắc chắn ta không có một Sài Gòn giải phóng còn nguyên vẹn và chắc chắn phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn.
-------
Trên tinh thần đó, theo tôi ông Dương Văn Minh có mặt mà ta cần nhìn nhận đúng mức. Ngoài ra tôi biết rằng gia đình ông Dương Văn Minh có những người thuộc hàng ngũ ta như em trai ông lúc bấy giờ là sĩ quan cấp trung tá Quân đội nhân dân Việt nam, hoặc như con trai ông là Dương Minh Đức là cốt cán của ta trong nhóm Việt ngữ, nòng cốt của phong trào Việt kiều tại Pháp trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Nay anh Dương Minh Đức đã qua đời nên tôi muốn nói rõ rằng Đức là cầu nối kín đáo giữa ta với ông Dương Văn Minh. Tôi chắc rằng những người thân đã có ảnh hưởng và tác động nhiều đến suy nghĩ và hành động của ông Minh. Tôi luôn tin rằng phần đông người Việt Nam mình đều có lòng yêu nước thương nòi, thường bộc lộ rõ nhất vào những thời điểm trọng đại của dân tộc.
- Về ý thứ hai: Đơn vị quân giải phóng tiến vào Sài gòn đầu tiên đã buộc ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Về sự kiện này tôi nghĩ rằng anh em vào dinh Độc lập chắc là họ không thể làm khác trong không khí hừng hực tiến công lúc bấy giờ và làm sao anh em biết thực sự về việc ông Dương Văn Minh quan hệ với ta như tôi vừa kể trên. Vì vậy sau 35 năm nhìn lại sự kiện lịch sử, rất khó nói rằng có thể có cách gì khác hơn xảy ra vào thời điểm đó.”
Vị thế của Võ Văn Sung vào thời điểm đó như thế nào để có nhận định về vai trò trên của tướng Minh. Đây là tóm tắt trích từ bài phỏng vấn:
“Nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung từng tham gia cuộc đàm phán bí mật Lê Đức Thọ-Kissinger từ năm 1971 đến 1974 và là người còn lại duy nhất trong 5 thành viên chính thức đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa ký kết bản Hiệp định Paris lịch sử ngày 27/1/1973.
Ông là đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Pháp kiêm đại diện của Chính phủ Việt Nam tiếp xúc với Hoa kỳ từ sau Hiệp định Paris cho đến năm 1979, đồng thời là bí thư Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam tại Pháp, chỉ đạo phong trào Việt kiều ở Pháp và nhiều nước phương Tây.
Cuốn sách của ông mà VietNamNet từng có dịp giới thiệu với tựa đề "Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris" do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2005 là một tập sử liệu hiếm có nhằm tri ân những người con dân Việt Nam ở Pháp và các nước phương Tây trong những ngày này 35 năm trước đã hướng về Tổ quốc góp phần đấu tranh cho hòa bình, độc lập và thống nhất nước nhà. “
Võ Văn Sung chỉ đề cập sơ lược đến người con trai Dương minh Đức “cầu nối bí mật” giữa CS và tướng Minh nên chúng tôi phải kết hợp lại với một bài phỏng vấn với Kỹ sư Dương Minh Đức để phối kiểm Big Minh đã hàng Cộng từ lâu thật không.
Lời giới thiệu trong bài “Trò chuyện với con trai Dương Văn Minh” cùa Hồn Việt Quốc Học:
“Kỹ sư Dương Minh Đức (con trai ông Dương Văn Minh – nguyên Tổng thống chính quyền miền Nam, nhậm chức không đầy 72 giờ trước 30/4/1975) được du học ở Pháp từ năm 1962. Ông tốt nghiệp kỹ sư ngành điện lạnh và sau này làm việc hãng Konica. Về thăm quê nhà đúng dịp kỷ niệm 34 năm giải phóng miền Nam, ông bày tỏ một số suy nghĩ về ngày 30/4.”
Về 2 người con của Trung tá CS Dương Thanh Nhựt:
“Kỹ sư Dương Minh Đức bày tỏ trong buổi trò chuyện với chúng tôi tại ngôi nhà riêng trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (ngôi nhà nằm trên khu đất rộng còn gọi là dinh Hoa Lan, được cấp cho gia đình Đại tướng Dương Văn Minh từ thời chính quyền cũ).
Tản mạn một chút về tuổi thơ, kỹ sư Đức nhắc lại vài kỷ niệm cùng người chị gái Dương Thị Xuân Mai, em trai Dương Minh Tâm và Dương Thanh Bình, Dương Thanh Xuân – hai cô em con chú ruột (con ông Dương Thanh Nhựt, lúc ấy đang được ông bà Dương Văn Minh cưu mang). Hồi trước khuôn viên dinh Hoa Lan có giàn hoa lan rất đẹp; giờ không còn hoa vì không còn ai chăm sóc. Trong nhà, trừ phòng khách, cách bài trí ở các gian phòng đã thay đổi theo thời gian khá nhiều.
……………
Tuy vậy, kỹ sư Đức cười nhẹ – ông cho rằng câu chuyện gia đình mình với người cha ruột là vị tướng lãnh của Sài Gòn cũ vang danh sau đảo chính Ngô Đình Diệm và chú ruột là người của cách mạng, không phải là trường hợp hiếm hoi của một gia đình Việt Nam trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Nhưng đó là “điểm đáng chú ý” để Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ nghi ngờ dinh Hoa Lan là nơi che giấu ông Dương Thanh Nhựt.Ông ấy có từng về dinh Hoa Lan không? Khi chúng tôi đặt câu hỏi, kỹ sư Đức khẳng định chú ruột của ông không hoạt động ở đây (bởi hai cô con gái của ông Nhựt lúc ấy đang ở dinh Hoa Lan, dù đã thay tên, đổi họ nhưng vẫn sợ bị lộ khi nhận ra ông!). Mãi sau này, lúc còn là sinh viên ở Paris, kỹ sư Đức mới có cơ hội gặp gỡ ông Dương Thanh Nhựt trên đất Pháp.”
Tư liệu “ Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh “ của Phạm Mạnh Hùng cho ta nhiều chi tiết về Trung tá CS Dương Thanh Nhựt có nhiệm vụ móc nối Big Minh ra sao: (đến cuối năm 1970 nhiệm vụ trên được giao cho tướng Nguyễn Hữu Hạnh)
“Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…
1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.
Tháng 8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám là Dương Thu Vân.
Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.
Ngày 01/01/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày.”
………………..
Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn…
Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: ‘Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…’
Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.
Tháng 3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn ‘án binh bất động’, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.”
Sau 30-4-1975, Big Minh bị quản thúc tại dinh Hoa Lan. Năm 1982 nhờ người năn nỉ Võ Văn Kiệt, Thủ tướng CSVN, cho xuất ngoại nên 1983 được phép sang Pháp trị bệnh và thăm con (một hình thức đi trốn thiên đường CS). Năm sau 1984, với tư cách Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Kiệt đi dự Quốc khánh của Cộng hoà Dân chủ Đức. Trên đường về, Kiệt ghé Paris thăm Phạm Ngọc Thuần, Phạm Hoàng Hộ và Dương Văn Minh. Một trong những câu nói đầu tiên của Big Minh khi gặp Kiệt tại nhà bác sĩ Danh là: “Anh đã biết đó, tôi luôn giữ lời hưá khi rời khỏi Sàigòn. Sang đây, tôi không tiếp xúc báo chí và cũng không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho ở nhà” .
Thật là chán cho cái dũng khí của vị anh hùng Rừng Sát, nó đã chết từ sau chính biến 1-11-1963. Lời nói chứng tỏ đã có những bất lợi xấu xa, dối trá của CS mà Big Minh không dám kể ra.
Trong Hồi Ký Không Tên , trang 447, Lý Quý Chung viết: Khi ông DVMinh và vợ đi khỏi Sàigòn rồi, tôi có dịp gặp Thượng tọa Trí Quang , ông nói: “Thật rất tiếc. Đáng lý ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế mà bây giờ ông lại ra đi ...”
Năm 2001, nhận tin Big Minh chết, CSVN có phân ưu:
"Ông Dương Văn Minh là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn cũ. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, bằng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước các lực lượng vũ trang giải phóng, ông đã góp phần làm giảm bớt tổn thất của cuộc chiến tranh.
Sau giải phóng, thể theo nguyện vọng của ông, Nhà nước Việt Nam đã để ông được xuất cảnh sinh sống ở nước ngoài. Gần đây, ông đã đề đạt nguyện vọng được về sống thời gian cuối đời ở trong nước và đã được Nhà nước Việt Nam chấp thuận. Tiếc rằng do sức khoẻ, ước nguyện đó của ông đã không thực hiện được. Chúng tôi xin gửi tới gia quyến của ông lời chia buồn chân thành." (Phan Thuý Thanh - người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam, ngày 07-08-2001).
Sau đây là tin khó kiểm chứng trong phần góp ý trên một website đăng bài “Dương Văn Minh đầu hàng?” của Trịnh Bá Lộc, một độc giả trong phần “Ý kiến của bạn” cho là Big Minh bị quả báo khi con trai đuổi ra khỏi nhà bên Pháp, nên mới sang Mỹ ở với con gái dù chính phủ Mỹ không nhận (xem chi tiết trong website Take2tango nơi phần Chú thích).
Chúng tôi dẫn chứng phần này cốt để chúng ta có quyền thắc mắc "Vì cớ gì đã đuổi Mỹ mà bây giờ lại ‘muối mặt’ sang Mỹ ở? Lý do xin CS để ra khỏi VN trước đây có đúng không?" Câu hỏi này đã theo ông vào chốn hư vô. Dù sao ông cũng còn hít thở được bầu không khí tự do trong 18 năm kể từ khi ông rời bỏ VN năm 1983. Có thể ông và một số "nhân vật lãnh đạo" khác của VNCH có mặc cảm tội lỗi về việc làm trong quá khứ với dân tộc nên đành "sống để dạ, chết mang theo" điều bí mật.
Thiết Trượng
(35 năm ngày 30-4)
http://daunguyen. blogspot. com/search? updated-min= 2010-01-01T00% 3A00%3A00- 08%3A00&updated-max= 2011-01-01T00% 3A00%3A00- 08%3A00&max-results= 1
Chú thích:
1/ Nuôi thù hận, cản trở hòa hợp là có tội với tương lai
http://www.tuanviet nam.net/2010- 04-25-nuoi- thu-han-can- tro-hoa-hop- la-co-toi- voi-tuong- lai
(Bài “cảnh cáo” Việt tỵ nạn, coi chừng bị tội đó. Hãy làm theo tướng Kỳ, hãy gặp tướng Có sắp sang Mỹ thăm gia đình và hứa “kêu gọi hòa hợp hòa giải”, v.v …)
2/ Trò chuyện với con trai Dương Văn Minh: “Ba tôi hay nhắc làm gì cũng phải nghĩ đến dân tộc”
http://honvietquoch oc.com.vn/ Pages/Trang- de-in.aspx? a_id=261
(Không rõ nguyên nhân cái chết mới đây của người con này.)
3/ Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh
Phạm Mạnh Hùng - Thứ tư, 03 Tháng 6 2009
http://honvietquoch oc.com.vn/ Tu-lieu/Tu- lieu-lich- su/Ho-so- ve-tuong- Duong-Van- Minh.aspx
4/ Big Minh bị quả báo (trong phần Ý kiến của bạn):
http://take2tango. com/thread/ 30-4-2010/ trinh-ba- loc-duong- van-minh- dau-hang- 1AE92273- 9906
CSVN nói gì về tướng Dương Văn Minh
Phạm Văn Hùng
L.T.S: Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên cứu này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng minh thêm tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát, kiên trì… của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những người trực tiếp tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính trị - địch vận… trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của lòng yêu nước Việt Nam…
Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến.
THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH
- Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).
Ông Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.
Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.
- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.
Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…
- Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho quen”.
Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.
Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.
Dương Văn Minh
QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…
1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty. Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.
Tháng 8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám là Dương Thu Vân.
Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.
Ngày 01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:
+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.
+ Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.
+ Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.
+ Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.
- Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.
Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.
Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn…
Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được…”
Cuối năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.
Tháng 3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.
2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng 9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báoĐại dân tộc…).
Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).
Ngày 01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.
4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.
Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.
Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính làđòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh . Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh cóVăn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn Minh” rabản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.
- Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.
5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn
Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.
MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
* Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng phảithất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía của phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.
Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.
* Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”.
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG
15 giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).
17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm 28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).
Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.
Ngày 29/4/1975
Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở Việt Nam.
Đến 16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).
Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).
Từ chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”.
Ngày 30/4/1975
- 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).
Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.
- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.
9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”.
Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”.
11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
KẾT LUẬN
1/ Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc.
2/ Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..
3/- Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30/4/1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004
Nguồn: http://honvietquoch oc.com.vn/ Tu-lieu/Tu- lieu-lich- su/Ho-so- ve-tuong- Duong-Van- Minh.aspx
Trò chuyện với con trai Dương Văn Minh: “Ba tôi hay nhắc làm gì cũng phải nghĩ đến dân tộc” – Kỹ sư Dương Minh Đức
KIM ỬNG
Kỹ sư Dương Minh Đức (con trai ông Dương Văn Minh – nguyên Tổng thống chính quyền miền Nam, nhậm chức không đầy 72 giờ trước 30/4/1975) được du học ở Pháp từ năm 1962. Ông tốt nghiệp kỹ sư ngành điện lạnh và sau này làm việc hãng Konica. Về thăm quê nhà đúng dịp kỷ niệm 34 năm giải phóng miền Nam, ông bày tỏ một số suy nghĩ về ngày 30/4.
Ông Dương Minh Đức
- Từ sau khi ba tôi mất, nhiều lần trở lại Việt Nam, chứng kiến nhiều đổi thay của đất nước, tôi càng thấm thía khi nhớ lại những lời ba tôi thường nhắc nhở: “Mình có làm gì, đi đâu cũng phải nghĩ đến dân tộc là trên hết, phải trở về với dân tộc”. Kỹ sư Dương Minh Đức bày tỏ trong buổi trò chuyện với chúng tôi tại ngôi nhà riêng trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (ngôi nhà nằm trên khu đất rộng còn gọi là dinh Hoa Lan, được cấp cho gia đình Đại tướng Dương Văn Minh từ thời chính quyền cũ).
Tản mạn một chút về tuổi thơ, kỹ sư Đức nhắc lại vài kỷ niệm cùng người chị gái Dương Thị Xuân Mai, em trai Dương Minh Tâm và Dương Thanh Bình, Dương Thanh Xuân – hai cô em con chú ruột (con ông Dương Thanh Nhựt, lúc ấy đang được ông bà Dương Văn Minh cưu mang). Hồi trước khuôn viên dinh Hoa Lan có giàn hoa lan rất đẹp; giờ không còn hoa vì không còn ai chăm sóc. Trong nhà, trừ phòng khách, cách bài trí ở các gian phòng đã thay đổi theo thời gian khá nhiều.
Thế nhưng, đôi lúc ngồi lặng yên, kỹ sư Đức tưởng như không khí sinh hoạt thân mật của gia đình vẫn còn bàng bạc trong ngôi nhà, nơi bàn ăn lớn. Lũ trẻ năm xưa, giờ có người định cư ở Mỹ, người là kỹ sư tin học ở Pháp, người là giáo sư Toán ở Australia và người đang là luật sư làm việc tại Việt Nam. Ngẫm lại, hình như mỗi gia đình đều có câu chuyện riêng trong hoàn cảnh chung của đất nước.
Tuy vậy, kỹ sư Đức cười nhẹ – ông cho rằng câu chuyện gia đình mình với người cha ruột là vị tướng lãnh của Sài Gòn cũ vang danh sau đảo chính Ngô Đình Diệm và chú ruột là người của cách mạng, không phải là trường hợp hiếm hoi của một gia đình Việt Nam trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Nhưng đó là “điểm đáng chú ý” để Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ nghi ngờ dinh Hoa Lan là nơi che giấu ông Dương Thanh Nhựt.
Gia đình Dương Văn Minh ở Đà Lạt
Ông ấy có từng về dinh Hoa Lan không? Khi chúng tôi đặt câu hỏi, kỹ sư Đức khẳng định chú ruột của ông không hoạt động ở đây (bởi hai cô con gái của ông Nhựt lúc ấy đang ở dinh Hoa Lan, dù đã thay tên, đổi họ nhưng vẫn sợ bị lộ khi nhận ra ông!). Mãi sau này, lúc còn là sinh viên ở Paris, kỹ sư Đức mới có cơ hội gặp gỡ ông Dương Thanh Nhựt trên đất Pháp.
Được hỏi ý kiến nhận xét sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975, kỹ sư Dương Minh Đức cho rằng với tư cách là một người con, ông có thể hiểu phần nào tâm tư, quan điểm của người cha, khi ông Dương Văn Minh đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ.
- Tôi rất yêu quý ba tôi và vì là con trai lớn trong gia đình, được ông trò chuyện, trao đổi nhiều vấn đề nên tôi có thể cảm nhận được quan điểm sống, quan điểm chính trị của ông. Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết.
Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ; trong tình thế các quân khu thi nhau thất thủ, các tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháo chạy và quân đội giải phóng đang chuẩn bị các mũi tiến công vào phòng tuyến Sài Gòn…
Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu “tử thủ” Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông “ yêu nước trước hết là phải cứu dân”. Trước đây, khi Mỹ đòi ném bom trên đê sông Hồng, chính ba tôi đã phản đối hành động này của Mỹ, họ làm như vậy chính là nhằm hủy diệt Hà Nội, sát hại nhân dân Việt Nam…!
***
Kỹ sư Dương Minh Đức cho biết ông có ý định trở về sống hẳn ở Việt Nam. Quê nhà đã thực sự làm ông thoải mái khi luôn được nghe tiếng mẹ đẻ, hiểu rõ tâm tư và được trò chuyện, san sẻ nhiều điều với bạn bè.
Hiện tại, ông tham gia hoạt động làm từ thiện cùng NSƯT Kim Cương trong việc hỗ trợ máy vi tính cho chương trình đào tạo nghề cho người mù ở Xuân Thới Thượng – Hóc Môn.
Ông bày tỏ: Hồi nhỏ, sống ở dinh Hoa Lan, chúng tôi chịu ảnh hưởng má ở tính hay làm từ thiện. Má tôi chủ trương công việc làm từ thiện thật căn cơ, cụ thể. Nếu muốn giúp đỡ ai thì phải làm sao đỡ đầu cho đến khi họ tự lực được. Má tôi giúp trẻ mồ côi bằng cách mua lò bánh mì và tạo điều cho trẻ học nghề. Các em khi biết làm bánh mì, sẽ tự xoay xở sống bằng chính tay nghề của mình.
Lâu nay tôi muốn góp phần trang bị kiến thức, đào tạo kỹ năng, dạy nghề thiết thực về vi tính, về kỹ thuật làm phim ảnh cho người khuyết tật để họ có thể phát huy óc sáng tạo, làm ra sản phẩm và sống được bằng nghề nghiệp chuyên môn của họ. Tôi đã có dự án đào tạo và tìm đầu ra cho sản phẩm. Trong tương lai, nếu được phép, tôi nghĩ địa điểm dinh Hoa Lan sẽ là nơi góp phần hỗ trợ hữu hiệu nhất cho hoạt động từ thiện này.
Nguồn: http://honvietquochoc.com.vn/Tu-lieu/Tu-lieu-lich-su/Tro-chuyen-voi-con-trai-Duong-Van-Minh.aspx oc.com.vn/ Tu-lieu/Tu- lieu-lich- su/Tro-chuyen- voi-con-trai- Duong-Van- Minh.aspx
http://quanviahe.multiply.com/journal/item/6180/6180
===============================
=========================================
No comments:
Post a Comment