Nguyễn Văn Khuy
May 11, 2010
Nghe
Tải xuống để lưu giữ
Sau thế chiến, một siêu thị ở thủ đô Hoa Thinh Đốn đã thông báo sẽ bán một đôi vớ làm bằng sợi hóa học nylon cho 1, 000 khách hàng đầu tiên gọi điện thoại tới các siêu thị để mua. Việc này đã làm cho hệ thống điện thoại ở Hoa Thịnh Đốn bị tê liệt nhiều ngày vì hoạt động quá mức trong một thời gian rất ngắn. Vải Nylon cũng được du nhập vào Việt Nam rất sớm, vào đầu thập niên 1950. Những ứng dụng của nylon rất nhiều như vải may quần áo, bít tất, thảm, màn che cửa, mùng, lều cắm trại, túi ngủ. Trong lãnh vực kỹ nghệ, nylon được dùng làm dental floss, lưới, và các loại ống v.v.
Polyester, tên hoá học là poly (ethylene terephthalate) , bán trên thị trường vớí tên thương mại như là Dacron, Tetoron ,Terylene và Mylar. Năm 1950 công ty hoá học DuPont tại Seaford Delaware cũng sản xuất polyester với tên thương mại là Dacron. Năm 1952 DuPont lại chế ra được một loại polyester nữa bán trên thị trường với tên thương mại là Mylar. Sau này polyester glycolised được sản xuất để làm thẻ tín dụng, video tape, x ray film, floppy disc. Vào cuối thế kỷ thứ 20 các loại chai lọ không bị vỡ, nhẹ nhàng và an toàn , dùng để đựng nước giải khát, được chế ra từ polyester bằng phương pháp blow molding.
Vải chế ra từ sợi Polyester có độ nóng chảy là 270 độ C, không bị nhầu nát, mau khô, khó bị ẩm mốc, dễ giặt và khó bắt lửa. Vải polyester không bị nhăn nheo nên sợi polyester còn được pha trộn với những loại sợi khác dễ nhăn như là cotton để có một loại vải hỗn hợp không nhăn.
Polyethylene và Polypropylene được phát minh năm 1933 do hai khoa học gia trẻ tuổi người Anh là Eric William Fawcett và Reginald Oswald Gibson. Năm 1940 nước Anh bị máy bay Đức oanh tạc và vào thời gian đó máy radar làm bằng kim loại nặng nề, kém cơ động, nên không thể đem lên phi cơ chiến đấu để khám phá sớm được sự xuất hiện của máy bay địch. Các khoa học gia Anh bèn áp dụng phát minh polyethylene làm cho trọng lượng các radar nặng từ vài tấn nhẹ xuống còn 600 lbs nên radar có thể đem lên phi cơ chiến đấu được. Các máy bay chiến đấu Đức đã bị radar khám phá ra kịp thời và bị tiêu diệt trước khi tới mục tiêu oanh kích. Ứng dụng này đã giúp cho thủ đô Luân Đôn và nhiều thành phố nước Anh không bị tàn phá, tránh được sự tổn thất về vật chất cũng như nhân mạng. Sau năm 1943 phần lớn các tầu ngầm Đức không trở về căn cứ xuất phát được vì bị radar khám phá kịp thời và tiêu diệt do hệ thống radar nhẹ có thể di chuyển khắp nơi. Cũng nhờ ứng dụng đó của polyethylene mà đường giao thông biển gìữa Anh và Hoa Kỳ được an toàn, các tầu biển không còn bị tầu ngầm Đức đánh đắm nữa.
Hai mươi năm sau khi polyethylene được phát minh bằng phương pháp tổng hợp khí ethylene ở áp xuất cao thì Karl Ziegler một giáo sư hoá học người Đức đã tổng hợp được khí ethylene ở áp suất thấp bằng cách dùng chất xúc tác. Phương pháp này không những sản xuất polyethylene mau chóng mà số lượng sản xuất cao gấp nhiều lần so với phương pháp cũ. Công ty sản xuất đồ chơi, The Wham-O Company, ở California đã mua để chế ra một đồ chơi mới là chiếc vòng Hula Hoop vào năm 1957. Nhiều triệu vòng Hula Hoop được bán khắp nơi trong môt thời gian rất ngắn sau khi được sản xuất. Sau này một kỹ sư hóa học người Ý, Giulio Natta dùng loại xúc tác organometallic phát minh ra polypropylene, là một loại plastic được chế ra bằng phương pháp tổng hợp từ khí propylene. Karl Ziegler và Gulio Natta được lãnh giải Nobel về hóa học năm 1963. Hiện nay Ziegler-Natta catalyst vẫn còn được dùng để tổng hợp nhiều chất plastics khác.
Sau khi chiếc vòng Hula Hoop bán trên thị trường, polyethylene được dùng chế ra bao đựng hàng hoá và thực phẩm. Không bao lâu một loại polyethylene có trọng lượng phân tử rất cao, một plastic cứng hơn thép được phát minh và hiện nay được dùng nhiều trong giải phẫu chỉnh hình như làm, chân tay giả. Polyethylene và polypropylene còn được sử dụng để chế tạo ra microporous films dùng làm màng ngăn cách âm cực và dương cực cho các bình trữ điện. Một ứng dụng khác của polypropylene là để chế ra microporous hollow fibers dùng làm blood oxygenerator, rất cần thiết trong khi giải phẫu tim để tạm thời thay thế tim và phổi. Loại fibers này cũng được dùng để lọc nước và tinh lọc các dược phẩm như trụ sinh, vitamins, v..v. Có thời gian các khoa học gia đã nghĩ đến việc ứng dụng loại fibers này để lọc muối trong nước biển lấy nước ngọt tưới hoa màu cho việc phát triển canh tác tại những vùng ven biển.
Kevlar, có tên khác là fibers for bullet proof vests, phát minh năm 1964, bán trên thị trường năm 1971. Kevlar còn được gọi là super fiber, được phát minh bởi một nữ khoa học gia Hoa kỳ, Stephanie Louise Kwolek. Sau khi tốt nghiệp bà đi làm cho công ty hoá học DuPont trong một dự án khảo cứu và phát minh các loại plastics để làm bánh xe hơi nhẹ hơn cho đỡ tốn xăng.
Trong thời gian rất ngắn bà Kwolek đã khám phá ra một chất mới, liquid crystal polymer (LCP) , và khởi sự từ đó Aramid fiber được phát minh ra. Aramid fiber được bán trên thị trường với tên thương mại là Kevlar. Đó là loại sợi hóa hoc rất bền với độ cứng gấp năm lần thép nên được dùng làm áo giáp chống đạn. Phát minh của bà Kwolek đã tiết kiệm được mạng sống của nhiều binh sĩ ngoài chiến trường. Kevlar còn được dùng làm bố thắng cho xe hơi, xe lửa, máy bay, helmets, skis và nhiều ứng dụng khác.
PBI, tên hoá học là Polybenzimidazole, có thể chịu đựng với sức nóng 2,000 độ F nên được dùng làm áo cho phi hành gia, lính cứu hoả và binh sĩ. PBI được phát minh tại trung tâm khảo cứu của Hoechst Celanese, thuộc tiểu bang North Carolina vào thập niên 1970.
Rayon là tên thương mại của sợi vải cellulose. Cellulose được khám phá bởi nhà hóa học người Pháp, Anselme Payen, vào năm 1838. Nhưng đến năm 1930 mới được dùng để chế film dùng cho ngành điện ảnh. Tuy nhiên mãi đến năm 1992 hai nhà khoa học người Nhật là Kobayashi và Shoda mớí tổng hợp được cellulose bằng phương pháp hoá học. Trước thời gian đó người ta trích cellulose ra từ các loại thảo mộc.
Tro ve dau trang
=======================================
===================================================
No comments:
Post a Comment